Sunday, May 9, 2010

GÃ PHỤC DIÊN TỪ BAO GIỜ (bút ký)

Gã Phục điên từ bao giờ?

Tô Hòang

Đăng bởi bvnpost on 09/05/2010

http://boxitvn.wordpress.com/2010/05/09/th%c6%b0-gin-ch%e1%bb%a7-nh%e1%ba%adt-g-ph%e1%bb%a5c-din-t%e1%bb%ab-bao-gi%e1%bb%9d/#more-6158

1 – Tôi viết những dòng này không nhắm “rủa” ông bạn vàng của tôi – nhà văn Nguyễn Khắc Phục. Cũng không nhắm biện minh cho những gì anh đã và đang nói, đã và đang làm hôm nay.

Tôi kể lại câu chuyện xẩy ra với anh cách đây đã ba chục năm mà tôi là một chứng nhân. Trước hết bởi một nỗi day dứt lâu nay thường ám ảnh tôi: mình biết một sự thật về Phục mà khoảng chục năm trước không thể kể, không thể viết được, bây giờ được “tháo cũi sổ lồng“, sao mình không kể đi?

Để nếu bỗng dưng một ngày nào đó ông bạn nhiều bệnh tật, hay nghĩ ngợi, thích dâng hiến đến kiệt cùng sức lực này bỗng nhiên đốc chứng muốn đi theo đám bạn bè Lưu Quang Vũ, Xuân Quỳnh, Nguyễn Lâm, Nghiêm Đa Văn, Tường Vân, Phạm Tiến Duật, Lý Biên Cương…?

Tôi viết còn vì một thôi thúc nữa: sao thiên hạ bây giờ nhiều người mắc phải căn bệnh “quay quắt” khốn khổ đến như vậy? Họ đang cố thanh minh thanh nga rằng họ sáng suốt, họ rạch ròi đã từ rất lâu; họ đã biết xua tay không hề tham dự vào công việc này, sự kiện nọ; họ bị bắt buộc, bị thúc ép, họ không mù quáng, cuồng tín đâu, nhưng họ đơn chiếc, lẻ loi, mà đã là số ít họ “đành“ phải theo số đông …

Tôi sẽ kể lại chuyến đi Liên Xô học đạo diễn điện ảnh ở trường VGIK của Phục vào mùa hè năm 1980.

Có người nói, anh sang Moskva không học nổi nghề này nên “bị đuổi“ về nước. Có người nói anh ở nước Nga đâu đó một năm rồi mới về Việt Nam. Lại có người khẳng đinh anh chỉ ở Moskva chừng 2 tháng. Lại có người vắn gọn: gã ấy làm sao sống nổi ở nơi ấy thì bỏ về thôi…

Tôi là người bạn đồng hành lớn tuổi duy nhất cùng sang Moskva với Phục chuyến ấy, tôi cũng không rõ nguyên do nếp tẻ ra sao. Thành thử nghe gì, thấy gì cứ kể lại để bạn hữu, đồng nghiệp của anh biết cho vui thôi…

Phục lưu lại Moskva chừng hơn tháng.

Nhớ trước hôm ra sân bay về nước đâu đó hai, ba ngày, Phục mở toang cái vali và gọi bạn bè tới:

“Các cậu muốn gửi cho bố mẹ, vợ con phim ảnh, đồng hồ báo thức, sâm nước… (những mặt hàng dạo đó về Việt Nam bán chạy, lời lãi khá cao) cứ ném ráo vào đây, tớ sẽ chuyển giùm cho. Nhưng làm chứng giúp tớ một điều: tớ sang Nga và quay về ngay như thế này không phải để đánh quả đâu nhé!”

Ngược thời gian, cách đó chừng ba tuần, tôi theo Phục lên Sứ quán Việt Nam tại Liên Xô. Một gã quan chức mặt bự thịt, mắt ti hí gian giảo vừa nhìn thấy Phục đã cao giọng phủ đầu: “Anh thừa biết, bao nhiêu người mơ ước mà không được sang đây. Còn Nhà nước bỏ tiền mua vé máy bay, chi tiền cho anh ăn học ở đây 5 năm nữa, bỗng dưng anh nằng nặc đòi về lại VN là sao? Anh dám phung phí từng ấy tiền bạc của Nhà nước a?“.

Gã quan chức “Sứ” thao thao, hùng hổ đến toát cả mồ hôi trán. Phục im lặng, cười cười. Chờ cho gã kia đã thấm mệt, Phục hỏi: “Thưa, ông đã nói hết chưa?“. Gã kia chán: “Hết rồi!”. Phục: “Bây giờ tôi xin phép được hỏi lại ông. Đúng là Nhà nước đã tốn từng ấy tiền mua vé máy bay cho tôi. Nhưng sang tới đây tôi tự thấy mình sẽ không học tiếp nổi. Vậy xin hỏi ông, Nhà nước có nên tiếp tục tốn tiền để cho một thằng như tôi ở lại đây thêm 5 năm nữa, hay nên cho tôi về nước để giảm bớt chi phí ăn học của tôi 5 năm tới?”. Lẽ đương nhiên quan “Sứ” đuối lý đành ký xọet vào tờ đơn để Phục “hồi hương”!

Trước khi kể tiếp chuyện du ký ngắn ngày của Phục tại nước Nga, người kể chuyện xin được lược ghi tiểu sử trích ngang sáng tác của Phục – tính đến thời điểm đó.

Bạn văn chương cùng lứa tuổi chúng tôi hẳn còn nhớ, khoảng những năm 1966, 1967, 1968 những truyện ngắn của Đỗ Chu hầu như thống lĩnh văn đàn văn xuôi của những cây bút trẻ mới xuất hiện những năm đầu chiến tranh chống Mỹ.

Bất ngờ, trên tạp chí Văn nghệ quân đội xuất hiện truyện ngắn “Hoa cúc biển“ và ngay sau đó là “Ngã ba Vô Tình” của Phục. Vẫn là chất trong sáng, nhân hậu, đầy chất thơ như văn chương của Đỗ Chu, mà khác hẳn Đỗ Chu, mà tài năng ngang ngửa Đỗ Chu.

Một cú mở đầu ngọan mục khiến thiên hạ lao xao ngơ ngác. Và Phục nhanh chóng gia nhập hàng ngũ cùng những Thi Hoàng, Hoàng Hưng, Vũ Quần Phương, Lưu Quang Vũ, Bằng Việt…

Rồi Phục lên đường vào Chiến trường Khu V để không bao lâu sau có ngay trường ca “Ăn cốm giữa sân”, kịch “Vườn thầy Năm”. Vào năm 1977, 1978, anh có kịch bản văn học “Thành phố không bị chiếm” (Nhà xuất bản Tác Phẩm Mới – Hội nhà văn đã in vở kịch này thành sách), đạo diễn Phạm Kỳ Nam dựng thành một bộ phim truyện nhựa dài 9 cuốn với tên mới “Tự thú trước bình minh”. Từ chiến tranh bước ra, 30 tuổi, gia tài văn chương như vậy đâu có phải là mỏng?

Chín tháng học tiếng Nga ở Thanh Xuân, Phục vui vẻ, hào hứng. Và thấy rõ Phục cũng hào hứng với chuyến ra nước ngoài lần đầu.

Sau tháng 4 năm 1975, Phục lang thang ở Sài Gòn, vùi đầu đọc đủ các lọai sách, tiếp xúc với đủ loại người, làm quen và hưởng thụ nền văn minh Akai, Honda chừng hai năm. Anh tỏ ra “sành điệu“ để “tân trang” cho tôi nào giày mũi quả táo, quần ống loe, áo chim cò thắt ngang lưng… những mốt thời thượng thuở ấy của Sài Gòn. Nhưng tôi đoan chắc rằng, Phục vẫn rất yêu, thậm chí sủng mộ Liên xô và nền văn hóa Nga và Xô viết, như tất cả anh em thế hệ tôi. Chả thế mà, khi con trai tôi chào đời, nhờ Phục đặt tên giúp, anh đặt tên cháu là Tô Đoài Minh. Phục giải thích cho vợ chồng tôi hiểu “Đoài Minh tức Phương Tây sáng”. Cái Phương Tây ấy, ở thời điểm ấy, tôi đoan chắc đối với Phục tuyệt nhiên không phải, chưa phải là Pháp, là Nhật, là Mỹ như sự ngưỡng mộ của các bạn trẻ bây giờ.

Vậy sao Phục lưu lại ở Moskva chỉ hơn một tháng và nằng nặc đòi về?

.

2 – Máy bay rời sân bay Nội Bài (hồi đó những bác thợ cày quanh vùng vẫn có thể ngang nhiên khoác áo tơi lá, thung thăng dắt trâu cắt qua đường băng) vào một chiều mùa hè mây giăng mù mịt, mưa rơi tầm tã. Mù mịt, tầm tã như thế qua đất Lào, Myanmar . Và máy bay hạ thấp độ cao, nghỉ tiếp dầu ở hai sân bay Calcutta (Ấn Độ), Karachi (Pakistan). Vào tới phòng đợi sân bay là chìm ngập trong những quầy hàng đủ loại quần Jean, áo Pull, rượu mạnh; là lần đầu nhìn thấy tivi mầu với các chương trình quảng cáo của Nhật, của Mỹ. Cái gì cũng mới, cũng lạ đến hoa cả mắt, chóng cả mặt. Phục tỏ ra sành sỏi giải thích cho chúng tôi mọi thứ.

Thiếp ngủ chừng 7, 8 tiếng đồng hồ nữa, 3 giờ sáng xe chở chúng tôi vào thành phố Moskva.

Ấn tượng đầu tiên – thành phố chỉ một màu điện đỏ vừa đủ soi tầm nhìn (sau này chúng tôi biết rằng, người Nga không khuyến khích vui chơi về đêm, cần ngủ sớm để tái sản xuất sức lao động, vì thế khoảng 9, 10 giờ tối nhà máy đèn được lệnh giảm công suất). Tuyệt nhiên không hề có những tấm biển nhấp nháy đèn đủ màu để quảng cáo hàng. Thỉnh thoảng lướt qua cửa xe là những khẩu hiệu thắp bằng bóng điện to đùng: ”Liên Xô – trụ cột hòa bình”, “Vinh quang thay Đảng Cộng sản Liên Xô”, “Nguyên tử dùng vào mục đích hòa bình”, “Lao động là vinh quang”… Chỉ những tấm biển khẩu hiệu ấy, Phục nói bên tai tôi: “Y hệt bên nước mình!”

Chúng tôi phải theo học 9 tháng tiếng Nga nữa tại Khoa dự bị tiếng, Đại học Lomonosov. Người ta giải thích, học nghề đạo diễn, tiếng Nga phải giỏi cả nghe lẫn nói. Đã học một năm tiếng Nga tại Trường ngọai ngữ Thanh Xuân. Lại thêm một năm ngoại ngữ nữa. Sau chiến tranh Phục đang ấp ủ bao nhiêu dự định cho tiểu thuyết, trường ca, kịch bản điện ảnh và sân khấu (như ta biết, sau khi ở Nga về, Phục lần lượt cho ra đời bộ ba tiểu thuyết “Học phí trả bằng máu”, “Đầu sóng”, “Thành phố đứng trước biển” và hàng chục vở kịch sân khấu…). Phải chăng, đây là lý do để Phục đòi trở về nước?

Phục theo học khóa tiếng Nga buổi đực buổi cái. Không cặp, không túi, cuốn vở tập nhét túi quần. Thời gian còn lại thường ngồi cà phê hút thuốc, đăm chiêu. Hoặc ra rạp xem phim để về giễu cợt, chê bai các phim công thức, giáo huấn của Điện ảnh Xô viết. Ở lớp dự bị tiếng, dù học để tăng cường khả năng nghe và nói tiếng Nga nhưng cũng đủ các môn như địa lý, lịch sử, văn chương, chính trị. Giáo trình phát cho sinh viên, Phục lật xem rất nhanh và phát hiện cũng rất nhanh: “Địa lý, sử sách, văn chương ráo trọi đều nói về người Nga, nước Nga thôi. Không một dòng nào đả động đến văn hóa văn minh thế giới cả. Thế nghĩa là làm sao?“ – Phục lưu ý chúng tôi.

Ở Moskva đâu đó chừng ba tuần, Phục mua một tấm bản đồ thành phố Moskva về mở rộng trước mặt chúng tôi để có thêm một phát hiện nữa: ”Người Nga tự hào coi Moskva là trung tâm văn hóa của nhân loại. Các cậu xem này, đến ông Pavel Korsaghin, bà Zoia Kosmodemienskaia còn được đặt tên cho đường phố. Thế mà đố tìm ra một bức tượng, một dãy phố nào mang tên Cervantes, Shakespeare, Dickens, Hugo hay ông bà Curie?“.

Nhưng điều khiến Phục buồn bã, nghĩ ngợi nhiều hơn cả có lẽ là tình trạng “cứu đói khẩn cấp” – như mấy chữ Phục thích dùng dạo đó, của lưu học sinh, nghiên cứu sinh người mình ở Moskva.

Sáng lên lớp, trưa ăn nguội ở buýphê, ngay sau đó túi nải khoác vai, như một đàn kiến tha mồi, chúng tôi đã vội vã sục sạo các ngõ ngách Moskva để lùng hàng; hoặc tới các khách sạn có người quen từ Việt Nam sang để bán hộ hàng kiếm chút lời, nhờ vả để gửi hàng về cho người thân trong nước.

Còn phải 3, 4 năm nữa người Việt lao động xuất khẩu mới sang bên này, nhưng việc mua bán, nhận hàng sang gửi hàng về nhà đã trở nên hoạt động sôi sục, năng động và thiết thực nhất của sinh viên, nghiên cứu sinh Việt Nam. Bởi một lẽ đơn giản: gửi về được tới Việt Nam cứ 5 cuốn phim “ Sveta” Nga bán đi đã bằng một tháng lương, một chiếc bàn là Nga bằng 4, 5 tháng lương của cha mẹ, vợ con mình. Mà ở quê hương thì đang đói, đang thiếu đú mọi thứ. Từ mảnh vải hoa, chiếc soong nhôm, cái phích đựng nước đến sợi mayso, cái kim khâu, cục xà phòng đen, nắm bùi nhùi bằng thép để cọ bựa cơm trong nồi…

Cái gì gửi được về Việt Nam cũng đều có giá, đều được cha mẹ, vợ con viết thư sang tỏ ý hỉ hả, mừng rỡ coi người chồng, đứa con như một người anh hùng, một bậc cứu tinh.

Những chàng lính, những cô thanh niên xung phong chúng tôi, thoát chết vì chiến tranh, vội vã lấy vợ lấy chồng, vội vã sinh con để nối nghiệp tổ tông, phải lao vào cuộc mưu sinh này còn là điều hợp lẽ. Đám trẻ hơn, mới 16, 17 tuổi, vừa tốt nghiệp phổ thông, sang đến đây cũng đã biết bó mồm bó miệng, dành dụm từng đồng rúp học bổng để mua hàng Nga gửi về trợ giúp cha mẹ nuôi đàn em nhỏ. Mua chân gà, cẳng heo (những thứ ở cửa hàng bán từng ký người Nga mua về cho chó ăn) để nấu và đưa ra ngoài cửa sổ giá rét thành thịt đông ăn dần cả tuần với bắp cải luộc. Thay nhau nghỉ ở nhà, rắc gạo rủ chim bồ câu vào phòng, bắt chim để hầm để ninh, để bớt tiền mua thịt thà, bơ sữa…

Chứng kiến các em các cháu như đàn kiến tụ vào, tỏa ra ở các cửa hàng cửa hiệu để kiếm một loại kháng sinh, chiếc đồng hồ báo thức gửi về cho cha mẹ, nghĩ mà tội nghiệp. Đàn chú, đàn anh đã không biết tới tuổi thanh xuân vì bị cuốn vào cuộc chiến; chả lẽ đến lượt các em, các cháu cũng không được sống đúng tuổi hồn nhiên, vô tư của chúng vì miếng cơm manh áo sao đây? Loắt choắt, bé như viên kẹo cũng len lỏi, chen lấn giữa các bà phụ nữ Nga bụng to như cái thúng để giành giật mua cho được mươi mét vải láng đen, dăm ba chục mét vải màn. Giữa mùa đông giá rét, các em các cháu toát mồ hôi, lôi kéo, khênh vác hàng chục thùng gỗ nặng chịch khỏi cửa hàng. Hỏi ra, mỗi thùng chứa khỏang 50 cục xà phòng đen.

Phục không đi “đánh hàng” nhưng dù ngồi ở ký túc xá, tối tối Phục vẫn phải chứng kiến cái không khí hỉ hả, mãn nguyện hoặc than van, ủ dột vì bị làm nhục sau một buổi chiều đi “đánh quả“ trở về của đám đồng hương lớn bé. Những lúc như thế, anh thường im lặng, hít hết điếu thuốc này tới điếu thuốc khác và dù râu tóc chưa bạc phếch như bây giờ, nhưng tôi nhớ như in gương mặt anh nhăn nhúm, méo mó y như một quả táo khô. Nhớ một lần, sang chơi bên Nhạc viện Chaikovsky về, Phục bỏ cơm, chăn trùm kín đầu, tôi đã ngỡ anh bị cảm lạnh. Nằm lâu lắm, Phục hất chăn ra. nhỏ giọng nói với tôi: “Thằng K, thằng H bên ấy hôm nay nói thẳng vào mặt mình: học hành, nghiên cứu làm gì. Hãy vứt ráo sách vở vào sọt rác mà đi buôn thôi! Đã tới thời buổi thằng nào nhiều tiền, thằng ấy là thống soái! Có tiền thì bằng cấp, chức tước, tiếng tăm, thậm chí đến quyền lực cũng mua được tất. Có đúng là đã xuất hiện thời buổi ấy rồi không, ông?“.
Có thể vì bức tranh ảm đạm của người Việt ở Moskva như vậy mà Phục nằng nặc xin về nước ?…

.

3 – Trở về với chuyện “Tại sao họ lại giống mình thế?” (Sau này, khi tâm sự với một anh bạn Nga, anh ta sửng sốt hỏi lại chúng tôi: “Tại sao chúng tao giống chúng mày a? Phải ngược lại chứ! Chúng mày giống chúng tao mới phải. Thi hào Pushkin chẳng từng nói : Tất cả đều từ ống tay áo này mà bay ra là gì?).

Phục tìm đâu được quyển Điều lệ của Đoàn Komxomon (Đoàn Thanh niên Cộng sản) Liên Xô quăng cho chúng tôi. “Đọc ngay phần mở đầu thôi! Có phải trong ấy ghi Đoàn thanh niên là cánh tay, đội hậu bị của Đảng không? Chả lẽ các bậc tiền bối của chúng ta chỉ là những người dịch tồi thôi à ?”.

Thời gian đầu, sinh viên Việt Nam Khoa dự bị tiếng Nga được bố trí ở tầng 3, tầng 4. Ít lâu sau bị dồn hết lên tầng 8 – tầng cao nhất, cùng với sinh viên các nước châu Phi. Lý do đơn giản, vì hay mang nước mắm đi lại trong thang máy, hay nướng chân gà, chân giò heo trong khu bếp chung – những mùi vị mà người Tây rất dị ứng.

Ở đầu thang gác lối xuống tầng dưới có treo một tấm pa-nô dán ngay ngắn chừng trên 20 tấm bưu ảnh về đời sống và hoạt động cách mạng của ông Lê Nin. Một buổi sáng, trên tấm pano ấy có ai bóc lấy đi 4 tấm. Những ô trống quả là nom như những con mắt mù.

Buổi chiều, ông phụ trách người nước ngoài – một sĩ quan Hồng quân cấp tá thời chiến tranh – bỗng triệu tập tất cả sinh viên Việt Nam trong một cuộc họp.

(Tôi xin nói ngay, tất cả những cựu sĩ quan Liên Xô đã từng tham gia Chiến tranh cứu nước năm 1941-1945 như ông phụ trách chúng tôi và những người chúng tôi có dịp làm quen sau này, đều rất nhân hậu, rất thương yêu, tôn trọng sinh viên, nghiên cứu sinh Việt Nam nói chung, cánh lính chúng tôi nói riêng. Đối với đám sinh viên là lính chúng tôi, điều đầu tiên các cựu binh Nga thường quan tâm là, vấn đề tiếp tục việc học hành và giải quyết công ăn việc làm cho các quân nhân Việt Nam sau chiến tranh ra sao? Bởi theo họ, đây từng là vấn đề đeo đẳng lâu dài và làm đau đầu xã hội Xô-viết ít nhất hàng chục năm sau khi chiến tranh kết thúc).

Tôi còn nhớ rõ, sau khi ông già cựu binh người Nga phụ trách Khoa dự bị tiếng giải thích lý do triệu tập cuộc gặp mặt, Phục là người giơ tay đầu tiên cật vấn, đại ý: Tại sao ở đầu bên kia tầng 8 có rất đông sinh viên châu Phi mà mất mấy tấm bưu ảnh Lê Nin, ông lại triệu tập riêng sinh viên Việt Nam?

Đợi Phục nói dứt, ông già Nga mỉm cười hiền lành trả lời: “Nếu các sinh viên châu Phi mà yêu ông Lê Nin đến như vậy, chúng tôi thật mừng! Các bạn Việt Nam cứ bình tĩnh góp ý với nhau, làm như thế là không văn hóa đâu!”.

Hôm sau, họp riêng Việt Nam với nhau, chúng tôi tìm ngay ra, thủ phạm là một em sinh viên quê Nghệ An đã bóc bốn bức bưu thiếp Lê Nin để gửi về quê cho cha mẹ. Còn lý do à? Đơn giản lắm. Để bớt được vài chục xu mua 4 tấm bưu ảnh – số tiền ấy có thể mua 2 cái bắp cải. Tối ấy Phục lục sục trong chăn mãi không ngủ, khói thuốc lá phun kín căn phòng, anh cười nói với chúng tôi: “Cái anh vô sản Việt Nam yêu lãnh tụ Lê Nin quả là theo đúng cách Việt Nam!“.

Một chuyện khác. Gần ký túc xá của chúng tôi, có một khuôn viên nhỏ trồng cỏ xanh, xây mấy chòi ngồi nghỉ, mấy cái đu bập bềnh giành cho bọn trẻ nhỏ. Những buổi chiều tôi không đi dạo phố xá lùng hàng, Phục thường rủ tôi ra đấy ngồi. Ở nơi này chúng tôi đã kết bạn với một ông già cựu binh Nga khác. Ông già Nga thường ra đây chơi với cậu cháu nội, tên Xêriogia, bảy tuổi. Cậu bé ưa trò sưu tầm tem. Một lần, nhận thư vợ từ Hà Nội gửi sang, tôi bóc khéo con tem vẽ anh bộ đội Việt Nam, tay cầm khẩu A.K đứng dưới lá cờ Tổ quốc mang tặng Xêriogia. Dĩ nhiên chú bé Nga rất thích con tem này. Ngắm nghía con tem một lúc, chú bé Nga thản nhiên nói với ông nội và hai chúng tôi: “Người là của các ông. Vũ khí là của chúng tôi! “. Tôi và Phục thật bất ngờ. Ông cựu sĩ quan Hồng quân lúng túng, ngượng ngùng hồi lâu, mãi một lúc sau mới nói được: “Tôi xin lỗi hai anh. Ông bà nội ngoại nó, bố mẹ nó không bao giờ dạy nó như vậy cả. Nhưng còn ở nhà trường và xã hội…”. Trên đường trở về ký túc, Phục ngúc ngắc đầu rên rẩm: “Thật không thể nào hiểu nổi! Thật không thể nào …”.

Câu chuyện kể về Phục hình như đã quá dài. Trước khi kể nốt hai mẩu chuyện cuối, nên chăng lặp lại điều đã nói. Phục hiểu sâu sắc và đánh giá rất cao nền văn hóa Nga của Puskin, Lev Tolstoi, Repin, Levitan, Turgenev, Chekhov… Anh nhiều lần nói với tôi: văn học hiện sinh Tây Âu được khởi nguồn bởi chính ông già điên họ Đốt.

Với chế độ Xô viết cũng thế. Phục nói, nuớc Nga hồi cuối thế kỷ XIX thường bị phương Tây coi thường như xứ sở của những gã nghiện rượu, suốt mùa đông ngủ li bì trên lò sưởi đắp đất. Công lao ông Lê Nin là ở chỗ, ông ta đã quất roi vào đít những gã mugich lúc nào cũng say bí tỉ ấy, ép họ tới làm việc ở các công trường cộng sản. Do vậy nước Nga vượt qua được đói nghèo của những năm Tân kinh tế, thực hiện điện khí hóa toàn quốc để rồi lập nên hai kỳ tích Mỹ, Anh, Pháp phải cúi đầu bái phục: đánh thắng bọn phát xít Đức và phóng ông Gagarin lên vũ trụ.

Vốn tính nhạy cảm kết hợp với một bộ óc thông minh, cặp mắt quan sát nhanh nhạy hiếm có, Phục dị ứng rất nhanh với cái đơn điệu, tẻ nhạt, với thứ trì trệ, ngưng đọng, với bệnh công thức, giáo điều của xã hội Nga – những gì mà sau này trong thời kỳ Đổi mới chính người Nga đã lên án gay gắt.

Phục từng áp tải xà lan chở gạo, đường, mì chính từ cảng Hải Phòng ra vào tiếp tế cho các tỉnh phía Nam khu IV cũ trong những năm máy bay phản lực, hạm tầu Mỹ phong tỏa gắt gao vùng biển miền Bắc. Anh từng theo du kích Gia-rai, Ê-đê ra phục kích xe giặc trên đỉnh đèo Măng Giang, từng đạt kỷ lục vác bao gạo nặng nhất từ các làng ven biển miền Trung, len lỏi qua các đồn bốt, các chốt phục kích của bọn Mỹ lên chiến khu để cứu đói cho đồng chí đồng đội. Phục không từ nan hiểm nguy, gắn bó từng vui buồn, âu lo với cuộc sống của bà con dân thường, bộ đội, du kích ở những vùng chiến sự ác liệt nhất. Không hút xách, không trai gái chơi bời, không thu vén bất cứ thứ tài sản gì cho bản thân khi sống ở các đô thị miền Nam sau ngày giải phóng. Giống như tất cả anh chị em cùng thế hệ mình, trong kiệt cùng những chịu đựng, những cố gắng và sự tự hoàn thiện mình như thế chỉ để mong được kết bện máu thịt với xứ sở của mình, dân tộc mình, để hiểu ra rằng nhân dân là khái niệm có thật chứ không phải là những bích chương, những tem mác lòe loẹt ai đó cố tình trương ra nhằm che đậy những mục đích vụ lợi bẩn thỉu.

Sang Nga, Phục quá sửng sốt khi nhận ra người mình sao chép vội vã, không chọn lọc, chưa kịp tiêu hóa những mô hình của Nga. Dù quê hương còn lạc hậu, đói nghèo, song anh phản ứng quyết liệt thái độ kể công hoặc ban ơn của siêu cường. Anh không co rúm người, khiếp hãi trước những gì của thế giới văn minh, hiện đại. Sau hết anh đau đáu xót xa, phập phồng dõi theo thân phận dật dờ, truân chuyên của đồng bào mình chưa kịp hồi phục sau cuộc chiến này đã phải bước vào một cuộc chiến khác…

.

HAI MẨU CHUYỆN CUỐI VỀ PHỤC

Cô giáo dạy tiếng Nga của bọn tôi tên là Galina Vaxilievna. Tóc màu hạt dẻ, mắt mơ màng, nụ cười dịu dàng, hệt như những nhân vật nữ trong “Chiến tranh và Hòa bình”, “Suối mùa xuân”, “Ba chị em”, “Vườn anh đào”… mà chúng tôi thường tưởng tượng ra khi còn ở Việt Nam. Cô giáo Galina có lẽ còn ít tuổi hơn Phục. Phục tới lớp thất thường, chúng tôi vẫn nhận ra mối thiện cảm vượt mức bình thường cô giáo Galina dành cho Phục, dù ngồi trong lớp thỉnh thoảng Phục thường nhăn nhó như khỉ ăn gừng vì bị cơn đau bao tử hành hạ…

Vào một sáng Chủ nhật, cô Galina đưa lớp tôi tới Quảng trường Đỏ, viếng thăm ông Lê Nin. Mục đích để sáng hôm sau chúng tôi viết và đọc ngay tại lớp những gì đã nhìn, đã cảm nhận được.

Sáng thứ hai, một, hai, ba sinh viên đọc trước. Lẽ dĩ nhiên quan sát và ý nghĩ giống nhau. Cô giáo Galina hệt như đã chờ đợi từ lâu bài luận văn tiếng Nga của Phục. Cũng là trời xanh mây trắng. Cũng là những viên gạch Hồng trường đã in dấu chân bao người. Cũng là trong dòng người xếp hàng vào viếng Lê Nin có đủ các màu da, xôn xao đủ giọng nói của các châu lục. Nhà văn Việt Nam đã có tiếng tăm này cũng không thể hú gió gọi mưa hơn thế được vì vốn tiếng Nga cũng chỉ chừng ấy! Nhưng cứ sau từng dòng của Phục, cô giáo Galina lại xuýt xoa: “Tuyệt! Tuyệt! Tiếp tục !”. Phục tả đến đoạn dòng người tiến đến gần nơi ông Lê Nin nằm, Phục thấy ông như cựa quậy. Cô giáo Galina càng nức nở khen: “Anh từ một đất nước Việt Nam xa xôi, đến thăm lãnh tụ Lê Nin mà thấy Người sinh sắc, sống động như vậy, hay lắm”. Phục: “Và ông Lê Nin bỗng ngồi nhổm dạy, trỏ tay vào mặt chúng tôi thét lên: “Vô sản thế giới hãy buông nhau ra!”. Cô giáo Nga lặng ngắt, đôi mắt mở to hoảng hốt, chừng một phút sau như kịp trấn tĩnh, cô mới cất tiếng hỏi Phục: “Anh không chọn nhầm động từ đấy chứ! Lãnh tụ Lê Nin nói rằng vô sản thế giới liên hiệp lại cơ mà?”. Phục thủng thẳng: “Thưa cô giáo, tôi không hề chọn nhầm nếu cô biết rằng, vào giờ phút này ở biên giới phía Bắc nước tôi vô sản đói rách Việt Nam và vô sản đói rách Tàu vì không tìm ra việc gì để làm, đang lao vào cấu xé, đâm chém nhau. Thiết tưởng nếu ông Lê Nin sống lại, vén mây nhìn xuống hạ giới, ông sẽ thét lên như thế!”.

Khoảng một tuần sau tới ngày kỷ niệm Hiến pháp Liên Xô – một ngày lễ trọng chỉ sau lễ Cách mạng tháng Mười Nga. Mở đầu sáng hôm ấy, cô giáo Galina giảng giải về Hiến pháp Xô-viết chừng hơn tiếng đồng hồ trên lớp. Sau đấy cô giáo Nga đưa chúng tôi ra hành lang, nơi đã kịp treo những tấm pa-nô, vẽ các sơ đồ, dán những tấm ảnh màu cũng nói về uy tín của Liên Xô, thành tích của đất nước Xô-viết sau những năm thông qua hiến pháp. Cô giáo Galina đang thao thao giảng giải cho sinh viên nghe, bất ngờ cô nhận ra sinh viên Nguyễn Khắc Phục đứng quay lưng lại. Vẫn cái vẻ thảng thốt, bị bất ngờ hôm trước, cô Galina hỏi Phục: “Hôm nay là một ngày lễ trọng của Liên bang Xô-viết. Sao anh đứng quay lưng lại không nghe tôi nói?“. Phục rành rẽ: “Thưa cô giáo, sáng nay ở trong lớp cô giới thiệu Hiến pháp Xô-viết hơn một tiếng đồng hồ, đối với tôi thế là quá đủ. Tôi thiết tưởng, bản Hiến pháp ấy không liên quan, ảnh hưởng gì tới cuộc sống áo cơm của đồng bào tôi ở Việt Nam hiện nay!”.

Những chuyện tôi vừa kể để các bạn nghe xẩy ra vào những ngày cuối đông Moskva năm 1979. Xin nhắc lại: cuối mùa đông năm 1979. Còn mất 7 năm nữa ông Gorbachov mới khởi xướng công cuộc Perestroika ở xứ sở bạch dương này. Và muộn hơn nữa, Việt Nam mới bước vào thời kỳ Đổi mới.

Bốn năm năm sau, tình cờ tôi gặp lại cô giáo Galina Vasilievna. Cô tỏ vẻ rất vui sướng vì cuộc hội ngộ. Không kìm nén được tình cảm, cô hỏi tôi có thư từ thường xuyên với Phục không, sức khỏe của Phục ra sao, hiện Phục đang làm gì?

Sau những lời thăm hỏi ấy, cô Galina tủm tỉm cười, hạ thấp giọng như hé lộ chuyện gì rất riêng tư:

– Thú thật, cách xử sự của ông Phục khiến tôi rất kính trọng. Nhưng ông ấy cũng làm tôi hồn xiêu phách lạc. Thử tượng tượng xem, nếu có ai mách lên Đảng ủy nhà trường tôi có một học trò như ông Phục, thì sao? Hồi ấy tôi đang là đảng viên dự bị Đảng Cộng sản Liên xô mà!

Biết sao được, thưa cô giáo Nga, khi Tử vi của cô buộc cô có một lần trong đời nhà giáo, phải dạy một gã điên…

TP Hồ Chí Minh, đầu tháng 5 năm 2010

TH

Nguồn: http://trannhuong.com/news_detail/4658/G%C3%83-PH%E1%BB%A4C-%C4%90I%C3%8AN-T%E1%BB%AA-BAO-GI%E1%BB%9C-?

.

.

.

No comments: