Có hy vọng nào vào những lớp lãnh đạo kế thừa của đảng Cộng Sản VN
Ngô Văn
Cập nhật ngày: 6/05/2010
http://www.viettan.org/spip.php?article9789
.
Những năm liền sau năm 1975, cứ mỗi lần 30 tháng tư là báo chí nước ngoài đưa tin tràn ngập về ngày này theo chiều hướng thuận lợi cho chính quyền Hà Nội. Nhiều mỹ từ đã được dùng để nói về cuộc chiến đó. Nào là “cuộc chiến giải phóng miền
.
Về phần lãnh đạo đảng CSVN, sau chiến thắng năm 1975, thay vì lợi dụng thời cơ này để xoá bỏ hận thù, đoàn kết dân tộc hầu tái thiết đất nước sau bao năm bị chiến tranh tàn phá, thì họ trở nên kêu ngạo hơn; tự cho mình có một sức mạnh vô địch, không ai có thể chống lại được. Sự kêu ngạo này đã đưa họ đi từ sai lầm này đến sai lầm khác; mà mỗi sai lầm là một sự tàn phá đất nước ghê gớm về mọi mặt, từ tinh thần cho đến vật chất. Chính sách tù cải tạo, đánh tư bản mại sản, cải tạo công thương nghiệp, kinh tế mới, v.v… là những sai lầm điển hình nhất.
.
Thật ra ngay sau năm 1975 dân chúng ở miền Nam đã chống đối lại những sự sai lầm đó dưới nhiều hình thức, từ đấu tranh vũ trang đến luồn lách phá hoại ngầm các chính sách, hoặc bất hợp tác. Nhưng vào thời gian đó CSVN đang ở đỉnh cao của chiến thắng, đặc biệt là bằng những chính sách khủng bố rộng lớn để trấn áp và tạo nên nỗi sợ hãi bao trùm xã hội; CSVN dập tắt được nhiều sự phản kháng bằng bạo lực, trong nhiều trường hợp rất dã man. Tâm trạng chung của người dân Việt
.
Từ đó đến nay đã 35 năm. Những thế hệ lãnh đạo cộng sản già nua lần lượt ra đi, nhường chỗ lại cho thế hệ cộng sản đàn em lên thay, nhưng sự ngu dốt thì vẫn ở lại. Đến thế hệ của Nông Đức Mạnh, Nguyễn Minh Triết, Nguyễn Tấn Dũng, thì nhờ đã vứt bỏ đi nền kinh tế xã hội chủ nghĩa trong chính sách đổi mới nhập nhằng, mà người dân có đời sống vật chất thoải mái hơn; nhưng trong mọi lãnh vực khác thì những thế hệ lãnh đạo mới này đang ngày càng đưa Việt Nam gần đến hố thẳm giệt vong hơn. Xã hội ngày càng suy đồi hơn, giáo dục ngày càng xuống dốc hơn, phân cực giàu nghèo ngày càng lớn hơn, các món nợ nước ngoài ngày càng chồng chất hơn... Việt
Nếu thời ông Hồ Chí Minh, Thủ tướng Phạm Văn Đồng ký công hàm thừa nhận Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền của Trung Quốc, và chủ quyền đó chỉ có giá trị trên giấy tờ; thì sang thời Lê Khả Phiêu, Nông Đức Mạnh, tinh thần của công hàm đó đã trở thành hiện thực. Không những thế, giới lãnh đạo cộng sản Việt Nam càng về sau này càng “Hán hoá” Việt Nam một cách “đại trà” hơn, với nhịp độ nhanh chóng hơn bằng nhiều hình thức. Bên cạnh sự Hán hoá bằng tư tưởng văn hoá do chính các cơ quan văn hoá của nhà nước chủ động thực hiện, thì việc dâng đất, nhượng biển đến việc cho người Trung Quốc ồ ạt sang chiếm cứ những vùng đất trọng điểm của tổ quốc dưới hình thức như khai thác bô-xít, thuê rừng, thuê đất tại những địa bàn chiến lược quan trọng, cũng được chính giới lãnh đạo cộng sản Việt Nam xướng xuất. Bất chấp những phản đối của dân chúng, đặc biệt là của thành phần trí thức, những tiến trình Hán hoá vừa kể chỉ tăng chứ không hề giảm.
Sau thế hệ Lê Khả Phiêu, Nông Đức Mạnh, liệu rằng Việt
Những thực tế nêu trên cho thấy, nhân dân Việt Nam không thể trông chờ vào sự “tự hoàn thiện” của guồng máy lãnh đạo đảng cộng sản Việt Nam qua những thế hệ lãnh đạo mới. Không cần phải chờ 25 năm trong dự án khai thác bauxite, hay 50 năm cho thuê rừng, để người Hoa có đủ thời gian sinh sôi nảy nở và bám rễ thì những phần đất họ đang chiếm đóng của Việt Nam mới thuộc về nước Tàu. Ngay bây giờ người quyền uy như tướng Đồng Sĩ Nguyên mà cũng phải khó khăn lắm mới vào được tô giới của họ. Ngay bây giờ, tàu Trung Quốc vào đánh cá ngang nhiên sát bờ biển Việt Nam mà công an biển Việt Nam cũng chỉ dám “mời và hướng dẫn” họ ra khơi. Ngay trong hiện tại ngư dân Việt
.
.
.
No comments:
Post a Comment