Sunday, March 1, 2009

CỐ VẤN TQ VI QUỐC THANH (PHẦN II)

Hồi kí cố vấn Trung Quốc (3)
Dương Danh Dy
Cập nhật : 01/03/2009 23:17
http://www.diendan.org/the-gioi/hoi-ki-co-van-trung-quoc-3/

Vai trò của Vi Quốc Thanh (Wei Guoqing) qua lời kể của viên thư kí

ĐỒNG CHÍ VI QUỐC THANH TRONG VIỆN TRỢ VIỆT NAM ĐẤU TRANH CHỐNG PHÁP
Vu Hoá Thầm
bản dịch của DƯƠNG DANH DY

(PHẦN II)


Quyết chiến Điện Biên Phủ (thượng)

Sau thất bại nặng nề liên tiếp của quân Pháp ở Tây Bắc, Thượng Lào, Tổng chi huy quân viễn chinh Pháp ở Đông Dương lại thay ngựa. Raoul Salan kế nhiệm Jean de Lattre de Tassigny bị cách chức, thay thế ông ta là tướng Henri Navarre nguyên Tham mưu trưởng bộ đội Đức đóng ở Trung Âu. Hy vọng của chính phủ Pháp kết thúc một cách “ thể diện ” chiến tranh Đông Dương gửi gắm vào Navarre.
Sau khi lên nhậm chức, Navarre đã phân tích nghiên cứu tình thế chiến trường Đông Dương, nhanh chóng vạch ra một kế hoạch quân sự hòng thoát khỏi bị động, giành lại chủ động, làm cho chiến tranh xâm lược chuyển bại thành thắng trong vài ba năm. Những điểm chủ yếu của kế hoạch này là : 1. Gấp rút tổ chức và huấn luyện nguỵ quân Bảo Đại (Hoàng đế cuối cùng của triều Nguyễn, Việt Nam) chốt giữ cứ điểm để quân Pháp tập trung tổ chức thành tập đoàn chủ lực làm nhiệm vụ tác chiến cơ động ; 2. Thực hành phương châm quân sự nam trước bắc sau, mưu đồ chiếm đóng toàn bộ vùng giải phóng và vùng du kích Nam Bộ, Nam Trung Bộ, Việt Nam. Trước mùa xuân 1954 nhằm ổn định hậu phương chiến lược của quân Pháp. Mùa đông 1954 đến mùa xuân 1955, trên cơ sở tổ chức xong tập đoàn chủ lực, tập trung toàn bộ binh lực quyết chiến với chủ lực Việt Nam ở Bắc Bộ, giành thắng lợi có tính quyết định.
Để thực hiện kế hoạch Navarre, nước Pháp điều động từ bản quốc, Bắc Phi và Triều Tiên 12 tiểu đoàn bộ binh, pháo binh tăng viện cho quân viễn chinh xâm lược Việt Nam. Chính quyền bù nhìn Bảo Đại tiến hành tổng động viên, ra sức bắt lính bổ sung cho quân nguỵ, từ tháng 5/1953 đến tháng 3/1954, tổng cộng được 107 tiểu đoàn quân nguỵ. Đến mùa thu 1953 quân Pháp tập trung tổng cộng 84 tiểu đoàn binh lực cơ động tại chiến trường Đông Dương. Tháng 8/1953, quân Pháp điều chỉnh bố trí từ bỏ Nà Sản, không vận toàn bộ binh lực đóng ở Nà Sản đến đồng bằng Bắc Bộ, tăng cường lực lượng cơ động. Trong thời gian này quân Pháp ráo riết càn quét vùng địch hậu Nam Bộ, Trung Bộ và Bắc Bộ Việt Nam, hòng tiêu diệt chủ lực quân đội Việt Nam và du kích vũ trang.
Kế hoạch Navarre được đế quốc Mỹ tán thưởng và ủng hộ. Sau đình chiến ở Triều Tiên để thực hiện chiến lược toàn cầu của mình, Mỹ ráo riết can thiệp vào Đông Dương, quyết định tăng 50% viện trợ quân sự cho Pháp, chi 400 triệu USD để xây dựng nguỵ quân Việt Nam và cung cấp số lớn trang bị quân sự, để bổ sung cho quân Pháp và vũ trang quân nguỵ.
Pháp – Mỹ ra sức cấu kết, tích cực thúc đẩy hoạt động của kế hoạch Navarre, làm cho phía Việt Nam cảnh giác và coi trọng. Sau khi quân Pháp rút khỏi Nà Sản vào trung tuần tháng 8, cần phải thay đổi kế hoạch tác chiến mùa đông đã định trước đây mà mục tiêu chính là tấn công Nà Sản. Nhận định, tình hình mới như thế nào, chọn hướng tấn công quan trọng của tác chiến mùa đông ở đâu ? Trở thành vấn đề to lớn cần được nghiên cứu giải quyết. Ngày 13/8, Trung ương Đảng Lao động Việt Nam thông báo cho Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc tình hình mới quân Pháp rút khỏi Nà Sản và đề nghị Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc “giúp đề xuất ý kiến” đối với vấn đề nhận thức tình hình và phương hướng tác chiến từ nay về sau.
Lúc này, người lãnh đạo quân đội Việt Nam lại chuyển hướng tấn công chính của tác chiến mùa đông sang vùng đồng bằng sông Hồng, từ bỏ kế hoạch đã định đánh lấy Lai Châu, rút bộ đội bao vây Nà Sản về vùng Thanh Hoá, Trung Bộ Việt Nam. Ngày 22/8, Bộ chính trị Trung ương Đảng Lao động Việt Nam họp thảo luận vấn đề tác chiến. Trong cuộc họp, Võ Nguyên Giáp phát biểu nghiêng về tác chiến chính diện ở chiến trường đồng bằng Bắc Bộ. Không nhắc đến đánh lấy vùng Lai Châu, cũng không chủ trương mở thêm chiến trường Thượng Lào. Hội nghị không ra được quyết định vấn đề tác chiến mùa đông. La Quý Ba được mời tham gia hội nghị này và báo cáo Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc tình hình hội nghị này.
Ngày 27, 29 tháng 8, Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc hai lần điện trả lời La Quý Ba và Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, phân tích tình hình sau khi Navarre nhận thức, nêu ý kiến về biện pháp quân sự cần áp dụng. Nhất là trong điện ngày 29, đã trình bày rõ ràng với phương châm chiến lược cần áp dụng từ nay về sau. Bức điện viết : “ Trước hết tiêu diệt địch ở vùng Lai Châu, giải phóng miền Bắc và miền Trung nước Lào, sau đó từng bước đẩy chiến trường sang Nam Lào và Cao Miên, uy hiếp Sài Gòn. Làm như vậy, thì có thể rút thu hẹp nguồn lính nguỵ, nguồn tài chính, phân tán binh lực quân Pháp, đẩy chúng vào bị động, đồng thời mở rộng bản thân Quân đội Nhân dân, chủ động tiêu diệt địch ở khắp nơi và từng bước làm suy yếu địch. Đó là điều kiện tiên quyết để đánh lấy đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam. Thực hiện kế hoạch chiến lược này đủ để đánh bại ách thống trị thực dân của đế quốc Pháp ở Việt Nam, Lào, Cao Miên. Nhưng cần phải chuẩn bị khắc phục mọi khó khăn, cần phải tính toán lâu dài ”.
Hồ Chí Minh hoàn toàn tán thành phương châm chiến lược của Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc nêu ra. Trong tháng 9, Bộ Chính trị Trung ương Đảng Lao động Việt Nam một lần nữa thảo luận vấn đề tác chiến mùa đông của Quân đội Nhân dân. Tổng Quân uỷ QĐNDVN nêu ra hai phương án; một là đặt hướng chủ công vào vùng Tây Bắc và Thượng Lào, hai là tập trung chủ lực vào tác chiến ở vùng đồng bằng Bắc Bộ. Qua hội nghị thảo luận, Hồ Chí Minh rút ra kết luận phương hướng chiến lược không thay đổi tiếp tục tấn công vùng Tây Bắc và Thượng Lào, phủ định phương án tập trung chủ lực vào tác chiến ở đồng bằng Bắc Bộ. Vấn đề hướng tác chiến mùa đông cơ bản đã được giải quyết. Bộ Tổng Tham mưu quân đội Việt Nam căn cứ vào đó một lần nữa nghiên cứu vạch ra kết hoạch tác chiến, nhưng kế hoạch này chần chừ mãi không vạch ra được.
Ngày 10/10/1953, Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc điện cho Trung ương Đảng Lao động Việt Nam: “ Năm 1950 chúng tôi đáp ứng đề nghị của các đồng chí lần lượt cử hai đồng chí La Quý Ba, Vi Quốc Thanh dẫn đầu một số cán bộ quân đội và cán bộ đảng địa phương sang Việt Nam làm công tác giúp đỡ có tính chất cố vấn. Về sau đồng chí Vi Quốc Thanh mắc bệnh về nước điều trị, nhất thời không thể trở lại Việt Nam công tác cho nên đồng chí La Quý Ba thống nhất phụ trách giúp các đồng chí tiến hành công tác. Nay sức khoẻ đồng chí Vi Quốc Thanh khá hơn năm ngoái, chúng tôi vẫn cử đồng chí trở lại Việt Nam công tác. Đồng thời quyết định Vi Quốc Thanh làm Tổng cố vấn quân sự, phụ trách công tác giúp chỉ đạo chiến tranh và xây dựng quân đội. Đồng chí La Quý Ba làm Tổng cố vấn chính trị, phụ trách công tác giúp xây dựng đảng, địa phương và chính sách ”. Bức điện nói : “ Vi Quốc Thanh và 4 cán bộ định trung tuần tháng này lên đường sang Việt Nam, ngày 21/10 có thể đến Bằng Tường, xin cho người đến Bằng Tường liên lạc với đồng chí ”.
Sau khi nhận nhiệm vụ Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc hai lần tạm thời cử đồng chí sang Việt Nam giúp quân đội Việt Nam tổ chức chỉ huy chiến dịch Tây Bắc và chiến dịch Thượng Lào, Vi Quốc Thanh lại được bổ nhiệm làm Tổng cố vấn quân sự, lại gánh vác nhiệm vụ nặng nề, lãnh đạo Đoàn cố vấn quân sự giúp Việt Nam tổ chức chỉ huy tác chiến và xây dựng quân đội. Trước khi sang Việt Nam, đồng chí được Mao Trạch Đông tiếp và truyền đạt trực tiếp đối sách tình huống. Mùa thu Bắc Kinh trời cao lồng lộng, nắng gió chan hoà. Trong Phong Trạch Viên – Trung Nam Hải những cây tùng bách cao vút thẳng tắp xanh tốt um tùm, tràn đầy sức sống. Chiều một ngày trung tuần tháng 10, Mao Trạch Đông đi đi lại lại trong phòng sách của Người, đang suy nghĩ tình hình chiến sự Việt Nam, suy nghĩ tình hình Việt Nam La Quý Ba điện về phản ánh.
Tiếng báo cáo của cán bộ bảo vệ cắt ngang luồng suy nghĩ của Người : “ Chủ tịch, Bành tổng và đồng chí Vi Quốc Thanh đến ”.
“ Mời các đồng chí vào ”. Mao Trạch Đông nói.
Vi Quốc Thanh theo sát Bành Đức Hoài bước vào phòng sách cũng là phòng tiếp khách của Mao Trạch Đông. Mao Trạch Đông bắt tay từng đồng chí và mời họ ngồi. Bành Đức Hoài nói : “ Chủ tịch, đồng chí Vi Quốc Thanh gần đây sắp trở lại Việt Nam, lần này đến xin Chủ tịch chỉ thị trực tiếp ”.
Mao Trạch Đông : “ À ! Tôi cũng đang muốn gặp các đồng chí cùng bàn tình hình và chiến sự của Việt Nam ”. Sau đó, Người nói với Vi Quốc Thanh : “ Đồng chí đã xem kế hoạch quân sự của Navarre chưa ? ”.
Vi Quốc Thanh trả lời : “ Bộ Tổng Tham mưu có cho tôi xem rồi ”. Mao Trạch Đông lại hỏi : “ Đồng chí có ý kiến gì không ? ”. Vi Quốc Thanh trả lời : “ Đây là sự tiếp tục của kế hoạch De Lattre, tiền nhiệm của ông ta. Điểm chung của họ là ra sức phát triển nguỵ quân, thay quân Pháp chốt giữ cứ điểm, dùng người Việt đánh người Việt, làm cho quân Pháp có thể tập trung tổ thành lực lượng đột xuất làm nhiệm vụ tác chiến cơ động, để giành lại quyền chủ động chiến tranh. Ông ta nêu ra, trước hết giành thế thủ ở Bắc Bộ và ráo riết càn quét và tiến công ở Nam Bộ và Trung Bộ, sau khi ổn định hậu phương chiến lược, ông ta sẽ tập trung binh lực quyết chiến với chủ lực quân đội Việt Nam ở Bắc Bộ. Phương châm quân sự Nam trước Bắc sau này là sự phát triển của Navarre cũng là do tình thế bắt buộc ông ta như vậy ”.
Mao Trạch Đông hỏi tiếp : “ Cuối tháng 8 Trung ương có điện cho La Quý Ba, đồng chí đã xem chưa ? ”. Bành Đức Hoài trả lời : “ Tôi đã cho người đưa đồng chí xem rồi ”. Vi Quốc Thanh nói : “ Phương châm chiến lược của Trung ương vạch ra cho Việt Nam mâu thuẫn gay gắt với kế hoạch của Navarre. Thực thi phương châm chiến lược này sẽ hoàn toàn đập tan tính toán chỉ tính đến một phía của Navarre ”.
Mao Trạch Đông nói : “ La Quý Ba điện về nói Hồ Chí Minh tán thành kiến nghị đó, Bộ Chính trị cũng đã ra quyết định, nhưng kế hoạch tác chiến mùa đông của quân đội Việt Nam vẫn chần chừ chưa vạch ra được là sao ? ”.
Vi Quốc Thanh nói : “ Trước chiến dịch Tây Bắc năm ngoái, trong cán bộ trung, cao cấp quân đội Việt Nam, có thể nói là đa số người không muốn đi Tây Bắc tác chiến. Chủ yếu là sợ gian khổ, sợ khó khăn, thiếu tầm nhìn chiến lược, cho rằng Tây Bắc đất rộng người thưa, là nơi nghèo, có giải phóng cũng không có ý nghĩa lớn bao nhiêu. Người phụ trách chủ yếu Tổng cục hậu cần quân đội Việt Nam lại nói Đoàn cố vấn tích cực chủ trương giải phóng Tây Bắc là vì có lợi cho Trung Quốc, có thể tiêu diệt tận sào huyệt tàn quân phỉ Quốc dân đảng ở đó, không quấy rối biên giới Vân Nam Trung Quốc nữa. Họ cho rằng, chỉ có giải phóng đồng bằng sông Hồng thì mới đã nghiện, mới có thể giành được kháng chiến thắng lợi. Qua làm công tác tư tưởng này lúc bây giờ về cơ bản được uốn nắn. Bây giờ quân địch đã rút khỏi Nà Sản, họ lại để mắt chằm chằm vào sông Hồng. Đó là bệnh cũ tái phát ”.
Mao Trạch Đông nói : “ Chà ! Họ muốn đi đường thẳng. Nhưng e rằng đường này không đi nổi. Trước mất điều kiện đánh đồng bằng sông Hồng chưa chín muồi. Vẫn phải đi một ít đường quanh co khúc khuỷu, mới có thể đến đích. Điều đó đã được thực tiễn mấy chục năm cách mạng của Trung Quốc chứng minh. Tôi thấy cách mạng Việt Nam cũng không thể đi đường thẳng. Sau khi đồng chí trở sang, phải làm nhiều công tác giải thích thuyết phục cán bộ cao cấp của Quân đội Nhân dân ”.
Vi Quốc Thanh chú ý lắng nghe mỗi lời nói của Mao Trạch Đông, và ghi lại vào quyển nhật ký bằng những từ ngữ giản đơn mà chỉ có đồng chí mới hiểu hết được ý nghĩa. Mao Trạch Đông nói tiếp : “ Tôi thấy hướng tác chiến của Việt Nam trong suốt thời kỳ từ nay về sau là nên hướng vào Trung, Nam Bộ ”. “ Để thực hiện kế hoạch chiến lược này, trước mắt cần áp dụng một số biện pháp thiết thực. Tôi nghĩ đến ba biện pháp thế này : một là dùng hai đại đoàn bộ binh và nửa đại đoàn pháo binh, trước tiên giải quyết địch ở Lai Châu, giải phóng toàn bộ vùng Tây Bắc, căn cứ chiến lược quan trọng này. Sau đó chuyển quân sang Thượng Lào, mở thêm chiến trường Thượng Lào. Đồng thời với tiến quân lên Tây Bắc, đưa một bộ phận binh lực xuống Trung Lào và Hạ Lào. Hai là kiên quyết khai thông con đường Nam tiến (chỉ con đường từ nam Liên khu 4 Trung bộ lên Trung, Thượng Lào, qua quốc lộ 9 đến Tây Nguyên), đó là đường giao thông huyết mạch của bộ đội, đánh xuống phía nam sau này, quan hệ rất lớn đến tình hình chiến sự tương lai. Nên đo đạc thật nhanh, xây dựng kế hoạch, chia giai đoạn hoàn thành. Có thể nói với các đồng chí Việt Nam, thái độ đối với làm đường tức là thái độ đối với chiến tranh. Làm đường không tích cực, không nghiêm túc tức là không tích cực, không nghiêm túc giành lấy thắng lợi chiến tranh. Ba là liên khu Việt Bắc, Liên khu 3, 4 mỗi nơi nên điều động một số cán bộ đảng, chính quyền, quân đội đến Trung, Hạ Lào và Nam Bộ Việt Nam làm công tác mở vùng mới, làm cho bộ đội đánh được nơi nào, thì củng cố nơi ấy. Giống như thời kỳ sau chiến tranh giải phóng, chúng ta điều động cán bộ miền Bắc theo Đại quân xuống miền Nam. Nói tóm lại, ba biện pháp này tức là 12 chữ : hai đại đoàn rưỡi, một đường quốc lộ, ba lớp cán bộ ”.
Nói xong Mao Trạch Đông đưa ánh mắt thăm dò nhìn vào hai người Bành Đức Hoài và Vi Quốc Thanh. Vi Quốc Thanh nói : “ Chỉ thị của Chủ tịch rất quan trọng. Sau khi tôi sang, sẽ truyền đạt tỉ mỉ cho phía Việt Nam và các đồng chí cố vấn, nghiêm chỉnh quán triệt chấp hành ”. Mao Trạch Đông nói : “ Có thể nói với các đồng chí Việt Nam, đó là kiến nghị của tôi ”. Mao Trạch Đông quay sang Bành Đức Hoài nói : “ Bành Tổng cũng nói ý kiến đi chứ ! ”.
Bành Đức Hoài nói : “ Tôi đã nói với đồng chí Quốc Thanh ý kiến của tôi về tình hình chiến tranh Việt Nam và tác chiến Tây Bắc rồi. Xin nói thêm một việc. Bản tiếng Pháp kế hoạch quân sự Navarre mà Cục tình báo Bộ tổng tham mưu lấy được, có thể mang sang cho các đồng chí Việt Nam xem, điều đó giúp ích cho các đồng chí ấy tìm hiểu kẻ địch, phân tích tình hình. Có điều phải chú ý bảo mật ”.
Hai ngày sau Mao Trạch Đông tiếp kiến, Vi Quốc Thanh cùng mấy cán bộ mới bổ nhiệm cố vấn quân sự đáp tàu hoả đi xuống phía Nam. Trong toa xe ghế mềm thoải mái, đồng chí nhìn thấy cảnh sắc cuối thu trên đồng bằng miền Bắc không ngừng lướt qua ngoài cửa sổ, trong lòng lại nghĩ đến tình hình chiến sự Việt Nam. Trong thời gian hơn ba tháng rời Việt Nam, trong bức điện La Quý Ba gửi Trung ương mà đồng chí Tổng tham mưu trưởng cho đồng chí xem, Vi Quốc Thanh hiểu được sự thay đổi to lớn của hai bên địch – bạn trên chiến trường Việt Nam. Đồng chí cảm thấy thấm thía phương châm chiến lược và mấy biện pháp quan trọng của Mao Trạch Đông nêu ra là rất kịp thời, rất chính xác. Đồng chí trù tính với đầy lòng tin là sau khi đến Việt Nam, triển khai công tác như thế nào, làm cho những kế hoạch, ý tưởng này trở thành hiện thực, mở ra cục diện mới cho cuộc chiến tranh chống Pháp của Việt Nam.
Sau khi đến Nam Ninh, dừng lại có chút việc, Vi Quốc Thanh và các đồng chí cùng đi lại lên ôtô ra Mục Nam Quan (nay gọi là Hữu Nghị Quan), về nơi ở của Đoàn cố vấn quân sự trong rừng Việt Bắc. Khi đến nơi đã là ngày 25/10. Vi Quốc Thanh lập tức thông qua Võ Nguyên Giáp xin gặp chào Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh nghe nói Vi Quốc Thanh trở lại Việt Nam rất phấn khởi, liền sắp xếp gặp đồng chí vào ngày 27.
Ngày 26/10, trước hết Vi Quốc Thanh truyền đạt chỉ thị của Mao Trạch Đông, Bành Đức Hoài cho La Quý Ba, Mai Gia Sinh, Đặng Dật Phàm và cố vấn quân sự, đồng thời nghe các cố vấn báo cáo tình hình. Đồng chí được biết thêm sau khi quân Pháp chủ động rút khỏi Nà Sản ngày 12/8, quân đội Việt Nam từ trên xuống dưới đều thở phào nhẹ nhõm, tưởng rằng không cần lên Tây Bắc tác chiến. Họ nhằm vào tình hình mới quân Pháp tập trung binh lực cơ động ở Bắc Bộ, lại đặt trọng điểm tác chiến vào vùng đồng bằng Bắc Bộ, chủ trương phân tán tập kích, chia quân ứng phó, bố trí phân tán bộ đội chủ lực ở các nơi Phú Thọ, Thái Nguyên, Thanh Hoá, Nho Quan v.v... để đối phó tấn công có thể của quân địch. Do họ bỏ Tây Bắc, nên nguỵ quân, đặc vụ ở đấy thừa cơ phát triển, gây trở ngại cho việc lại tiến quân lên Tây Bắc. Cùng với chuyển biến của tư tưởng chiến lược này, vật tư hậu cần bố trí ở Thái Nguyên và tuyến bắc Bắc Giang – Bắc Ninh, điều đó ảnh hưởng rất lớn đến hành động tiếp theo.
Sau hội nghị Bộ Chính trị Đảng Lao động Việt Nam tháng 9 ra quyết định không thay đổi phương châm chiến lược tiến quân lên Tây Bắc, bắt đầu công tác chuẩn bị cho chiến dịch Tây Bắc lần thứ hai. Nhưng những người lãnh đạo quân đội thiếu thống nhất với chuyển biến nhận thức này, hành động tương đối chậm chạp, công việc tiến triển không nhanh. Tóm lại, việc tiến quân lên Tây Bắc còn rất nhiều vấn đề chờ giải quyết.
Ngày 27, Vi Quốc Thanh được Võ Nguyên Giáp đi cùng, cưỡi ngựa đến “dinh rừng trúc” của Hồ Chí Minh, cách hàng chục dặm. Hồ Chí Minh vừa thấy Vi Quốc Thanh lập tức ôm hôn thắm thiết. Cùng dự có Trường Chinh cũng ôm hôn đồng chí, Vi Quốc Thanh chuyển kiến nghị của Mao Trạch Đông về chiến lược Nam tiến và mấy biện pháp quan trọng và ý kiến của Bành Đức Hoài về phương pháp tác chiến và vấn đề xây dựng quân đội trong tình hình chiến tranh hiện nay, đến Hồ Chí Minh, Trường Chinh và Võ Nguyên Giáp và trực tiếp đưa cho Hồ Chí Minh bản tiếng Pháp kế hoạch kế hoạch quân sự Navarre.
Cách một hôm, Hồ Chí Minh hành trang gọn nhẹ, bất ngờ đến thăm Vi Quốc Thanh. Người hồ hởi nói với Vi Quốc Thanh : “ Cám ơn đồng chí từ Bắc Kinh mang đến cho chúng tôi hai món quà rất tốt. Một là kiến nghị của Mao Chủ tịch đối với tác chiến về sau, giúp chúng tôi rất lớn. Tôi và các đồng chí Bộ Chính trị đều cho rằng ý kiến của Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc là đúng đắn. Thực hành những phương châm và biện pháp đó nhất định có thể đập tan kế hoạch Navarre. Tôi đã gửi điện cho đồng chí Mao Trạch Đông, tỏ rõ thái độ của chúng tôi, kiên quyết làm theo. Hai là bản tiếng Pháp kế hoạch quân sự Navarre, cũng rất giúp ích chúng tôi, làm cho chúng tôi càng hiểu địch hơn trên toàn cục. Đồng chí Võ Nguyên Giáp sau khi xem kế hoạch Navarre bị chấn động mạnh, tỏ ra thông suốt tư tưởng, hoàn toàn ủng hộ phương châm chiến lược giải phóng Tây Bắc, Thượng Lào trước rồi từng bước tiến về phía Nam ”. Hồ Chí Minh ngừng một lát rồi nói tiếp : “ Đồng chí Vi theo đồng chí trước mắt nên nắm những việc nào trước ? ”.
Vi Quốc Thanh trả lời rằng : “ Tôi cho rằng điều chủ yếu nhất trước mắt là vạch kế hoạch tác chiến tấn công mùa đông. Dựa vào kế hoạch đó để thống nhất tư tưởng, thống nhất hành động, thì các công việc dễ triển khai ”. Hồ Chí Minh nói luôn : “ Rất tốt, rất tốt, hoàn toàn nhất trí với suy nghĩ của tôi ; đồng chí phải giúp đồng chí Võ Nguyên Giáp vạch ra kế hoạch tác chiến thật nhanh, đưa Bộ chính trị thảo luận thông qua. Việc này giao cho đồng chí ”.
Vi Quốc Thanh nói : “ Xin Hồ chủ tịch yên tâm, tôi sẽ cùng đồng chí Võ Nguyên Giáp bàn bạc kỹ lưỡng, vạch ra kế hoạch này nhanh nhất ”. Hồ Chí Minh cám ơn và từ chối mời cơm của Vi Quốc Thanh, vội ra về. Với sự giúp đỡ trực tiếp của Vi Quốc Thanh và Mai Gia Sinh, kế hoạch tác chiến tấn công mùa đông 1953-1954 của quân đội Việt Nam được vạch ra rất nhanh. Ngày 3/11, Bộ Chính trị Trung ương Đảng Lao động Việt Nam thảo luận thông qua kế hoạch này. Vi Quốc Thanh điện báo cho Quân uỷ Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc nội dung chủ yếu của kế hoạch này và được đồng ý. Những điểm chủ yếu của kế hoạch tác chiến này là :
Hướng chủ yếu của tác chiến mùa đông là vùng Lai Châu – Tây Bắc. Sử dụng đại đoàn 308, 316 (thiếu 1 trung đoàn) và trung đoàn 148 của vùng Tây Bắc cùng 4 tiểu đoàn pháo binh và 2 tiểu đoàn công binh, tất cả binh lực là 25.000 người, ngày 10/1/1954 bắt đầu tấn công Lai Châu. Sau thắng lợi, dùng binh lực của hai trung đoàn, đầu tháng 2 tiến quân lên Phong Xa Lì – Thượng Lào. Cuối tháng 2, hai đại đoàn này lần lượt tiến sát Luông PraBang và xem tình hình đánh chiếm Huộc Xãi. Một trung đoàn khác cắm giữa Xiêng Khoảng và Luông Prabang triển khai đánh du kích.
Phần lớn binh lực của các đại đoàn 312, 304 lần lượt kín đáo tập kết ở vùng Tây Bắc và Tây Phú Thọ, đại đoàn 320 tập kết giữa phủ Nho Quan và Thanh Hóa chuẩn bị khi bộ đội cơ động của quân Pháp ở đồng bằng sông Hồng, tiến theo hướng Phú Thọ, Yên Bái, Thái Nguyên, Thanh Hoá v.v.. dụ địch vào sâu, tiêu diệt một bộ phận của chúng.
Đồng thời với tiến quân lên Tây Bắc, 1 trung đoàn thuộc đại đoàn 304 và 1 trung đoàn thuộc đại đoàn 325 lần lượt tiến quân sang Trung Lào theo quốc lộ 8 và quốc lộ 12. Sau khi hai trung đoàn hợp lại, xem tình hình tấn công chiếm Thà Khẹt, thị trấn quan trọng ở Trung Lào cắt đứt phòng tuyến của địch trên quốc lộ 13 và sông Mêkông.
Đồng thời với tiến quân lên Thượng Lào, cử một tiểu đoàn tăng cường để phối hợp với cán bộ đảng, chính quyền quân đội triển khai công tác ở vùng mới, cắm vào vùng đồng cao nguyên Bô Lô Ven – Hạ Lào. Đồng thời, hai trung đoàn của Liên khu 5 đánh chiếm vùng bắc cao nguyên Tây Nguyên, sau đó tiến về phía tây tạo nên thế Nam Bắc đánh kẹp Hạ Lào.
Kế hoạch tác chiến này thể hiện tương đối đầy đủ kiến nghị của Mao Trạch Đông về kế hoạch chiến lược đặt cơ sở thắng lợi cho toàn bộ tác chiến tấn công mùa đông và trận quyết chiến Điện Biên Phủ về sau :
Để thực hiện thuận lợi kế hoạch tác chiến mùa đông này, từ 19-24 tháng 11, Tổng Quân uỷ QĐNDVN họp hội nghị cán bộ cấp cao. Đây là cuộc hội nghị quân sự quy mô lớn nhất trong chiến tranh chống Pháp của Việt Nam, đến dự hội nghị không chỉ có cán bộ cao cấp của bộ đội tham gia chiến đấu mà còn có các đồng chí phụ trách các chiến khu Trung Bộ và Nam Bộ. Lãnh đạo và cố vấn của Đoàn cố vấn quân sự cũng được mời dự hội nghị.
Tại hội nghị, Võ Nguyên Giáp trước tiên tuyên bố kế hoạch tác chiến tấn công mùa đông, và động viên ngắn gọn. Sau đó đi vào thảo luận. Trong thảo luận, những người dự hội nghị tuy nhất trí bày tỏ ủng hộ kế hoạch tác chiến này, nhưng vẫn bộc lộ tư tưởng ngại khó của một số người nhận thức mơ hồ và nhấn mạnh khó khăn quá mức. Ngày thứ hai hội nghị, tức 20/11, không quân Pháp thả lính dù chiếm đóng Điện Biên Phủ. Được tin, vấn đề đối xử với tình hình sau đấy như thế nào, trở thành vấn đề được mọi người quan tâm chú ý.
Vi Quốc Thanh và Mai Gia Sinh cho rằng, mục đích địch nhảy dù xuống Điện Biên Phủ là âm mưu ngăn chặn quân đội Việt Nam giải phóng hoàn toàn Tây Bắc và tiến quân lên Thượng Lào. Đây là một việc tốt, tạo thời cơ có lợi cho quân đội Việt Nam, cũng làm cho lực lượng cơ động của địch càng phân tán hơn. Qua trao đổi với Võ Nguyên Giáp, đi đến nhận thức nhất trí. Ngày 23, Võ Nguyên Giáp phát biểu tổng kết hội nghị. Đồng chí sắp xếp phát biểu hôm kết thúc hội nghị. Vi Quốc Thanh tuân theo chỉ thị của Mao Trạch Đông muốn đồng chí làm nhiều công tác tư tưởng đối với cán bộ cao cấp quân đội Việt Nam, đã chuẩn bị đầy đủ.
Ngày 24, hội nghị vào tiến hành trong hội trường lều tre của Bộ Tổng Tham mưu quân đội Việt Nam. Võ Nguyên Giáp nói mấy câu mở đầu, sau đó mời Vi Quốc Thanh lên phát biểu. Vi Quốc Thanh mỉm cười, gật đầu đứng dậy bước lên bục phát biểu với giọng nói chắc nịch rõ ràng : “ Thưa các đồng chí ! Tại hội nghị này kế hoạch tác chiến mùa đông được Trung ương Đảng Lao động phê chuẩn, Võ Tổng tư lệnh tuyên bố và hai lần phát biểu của đồng chí đều rất tốt, nói rất toàn diện, tôi hoàn toàn tán thành ”.
Tiếp đó, đồng chí nêu lên ngắn gọn chủ đề của bài phát biểu lần này : “ Trung ương Đảng Lao động quyết định đặt hướng chính của tác chiến mùa đông này ở vùng Tây Bắc, tiêu diệt địch ở Lai Châu, giải phóng hoàn toàn Tây Bắc, quyết sách này rất đúng đắn ”.
Khi phiên dịch tiếng Việt dịch đoạn này, đồng chí liếc nhìn quanh hội trường. Hội trường rất yên lặng. Đồng chí biết mọi người đang chờ nghe đồng chí nói tiếp. Đồng chí không có bài viết sẵn, cũng không có đề cương, nội dung muốn nói hoàn toàn nằm trong đầu đồng chí. Đây là thói quen được rèn luyện từ bao nhiêu năm. Vi Quốc Thanh nói tiếp : “ Vùng Tây Bắc tuy núi cao vực sâu, đất đai cằn cỗi, dân cư thưa thớt, nhưng đó là một căn cứ chiến lược quan trọng. Giải phóng hoàn toàn Tây Bắc, thì có thể nối liền với liên khu Việt Bắc lưng dựa vào Trung Quốc, nam tiếp giáp Lào, có lợi cho mở chiến trường Thượng Lào, tiến tới tiến xuống Trung Lào, Hạ Lào cho đến Cao Miên và Nam Bộ Việt Nam, có thể đập tan mộng tưởng của Navarre âm mưu củng cố hậu phương chiến lược của ông ta, tiến tới tập trung binh lực quyết chiến với chúng ta ở Bắc Bộ. Nếu Mỹ nhúng chân thêm vào Đông Dương, tiến hành can thiệp quân sự thì chúng ta có khu vực xoay sở khá rộng lớn để đọ sức với chúng. Có thể nói, giải phóng hoàn toàn Tây Bắc là một bước then chốt quan hệ đến phát triển của toàn bộ cuộc chiến từ nay về sau là một bước then chốt đánh bại bọn xâm lược Pháp, đập tan âm mưu can thiệp của đế quốc Mỹ ”.
Nói đến đây, đồng chí chuyển đầu đề câu chuyện : “ Nghe nói có những đồng chí còn có tư tưởng này nọ đối với việc lên vùng biên cương xa xôi Tây Bắc, Thượng Lào tác chiến, nhấn mạnh khó khăn này nọ. Cho rằng nên đặt lực lượng chủ yếu vào tấn công cứ điểm boong ke của địch ở châu thổ sông Hồng (công sự bê tông cốt thép địch xây xung quanh châu thổ sông Hồng), đánh chiếm vùng châu thổ sông Hồng, mới thực hiện được tổng phản công, giành thắng lợi chiến tranh chống Pháp. Ý muốn của các đồng chí đó rõ ràng là rất tốt. Các đồng chí đó muốn đi đường thẳng, sớm giành thắng lợi kháng chiến. Nhưng con đường này e khó đi lọt. Đây là chỗ mạnh nhất của quân Pháp ở Đông Dương, không chỉ có số lớn bộ đội tinh nhuệ, mà còn giao thông thuận tiện, có lợi cho bộ đội cơ giới hoá của địch vận động. Điều kiện trang bị kỹ thuật hiện nay của quân đội nhân dân rất bất lợi cho tiến hành tác chiến công kích quy mô tương đối lớn. Chúng ta đã có bài học kinh nghiệm về mặt này. Tránh chỗ mạnh đánh chỗ yếu, tránh chỗ thực, đánh chỗ hư là một nguyên tắc quan trọng của các nhà quân sự các thời đại trước.
Rất nhiều địa phương Tây Bắc, Thượng, Trung Hạ Lào, cho đến Cao Miên và Nam Bộ, Trung Bộ Việt Nam, đều là những vùng phòng ngự của địch mỏng yếu, chúng ta chĩa mũi nhọn tấn công vào những địa phương trên, biến hậu phương chiến lược của địch thành chiến trường mới thì có thể điều động địch, phân tán lực lượng cơ động của địch, không ngừng tiêu diệt và tiêu hao địch, từ đó thay đổi hơn nữa tình thế chiến lược của địch, tạo điều kiện cuối cùng tấn công đánh lấy đồng bằng sông Hồng. Thưa các đồng chí đó là con đường quanh co khúc khuỷu, nhưng nó là con đường tất yếu để đi đến thắng lợi cuối cùng ”.
Tiếp đó, Vi Quốc Thanh nói đến kinh nghiệm của cách mạng Trung Quốc : “ Cách mạng Trung Quốc đã đi con đường quanh co khúc khuỷu như thế. Căn cứ địa Tỉnh Cương Sơn và căn cứ địa Trung ương lấy Thụy Kim làm trung tâm do Mao Chủ tịch lãnh đạo mở ra đều ở vùng núi xa xôi, nghèo nàn giáp giới mấy tỉnh. Năm 1935, Hồng quân trải qua cuộc Trường chinh hai vạn năm nghìn dặm đến Thiểm Bắc thành lập khu Thiểm Cam Ninh lấy Diên An làm trung tâm. Nơi đây là cao nguyên hoàng thổ, đất đai cằn cỗi, nhân dân nghèo khó, nhưng Mao Chủ tịch, Trung ương đảng ở Diên An 13 năm liền, ở đây lãnh đạo toàn bộ cuộc chiến tranh chống Nhật và chiến tranh giải phóng thời kỳ đầu, về sau chỉ cần thời gian hơn một năm đã đánh bại Tưởng Giới Thạch, giành thắng lợi trong cả nước. Đó là con đường thành công nông thôn bao vây thành thị, cuối cùng đánh lấy thành thị ”.
Vi Quốc Thanh tiếp tục nói : “ Kháng chiến của Việt Nam cũng đi con đường như thế. Theo bố trí tác chiến mùa Đông năm nay của Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, quyết định vạch ra chính là thể hiện cụ thể con đường này, giải phóng Tây Bắc trước, rồi tiến quân sang Thượng Lào và từng bước tiến xuống Trung – Hạ Lào, cho đến Cao Miên và Nam Bộ, Việt Nam, ở đấy làm cho chúng đảo điên nghiêng ngả, làm cho Navarre một ngày cũng không được yên, không thể không phân tán binh lực cơ động của y, như vậy sẽ xuất hiện rất nhiều cơ hội tiêu diệt địch, có thể từng bước làm suy yếu địch, làm cho mình mạnh lên cải thiện trang bị kỹ thuật của quân đội nhân dân, nâng cao tố chất quân chính của bộ đội. Đến lúc đó, có thể chắc chắn tiêu diệt địch ở đồng bằng sông Hồng, giành thắng lợi hoàn toàn của cuộc kháng chiến ”.
Cuối cùng, Vi Quốc Thanh nói : “ Thưa các đồng chí ! Được sự ủng hộ đế quốc Mỹ, Navarre đang từng bước thực thi, ông ta được Mỹ viện trợ nhiều hơn, tăng cường trên trăm tiểu đoàn quân nguỵ, tổ chức hơn 80 tiểu đoàn bộ đội cơ động, đang tiến hành càn quét qui mô lớn tại các vùng chiếm đóng ở Nam bộ, Trung bộ và Bắc bộ và chuẩn bị tiến vào vùng giải phóng. Mấy ngày gần đây, Navarre lại cho lính nhảy dù xuống Điện Biên Phủ, khí thế hung hăng. Nhưng y mừng quá sớm. Sắp tới đây cuộc tấn công chúng ta bắt đầu thì sẽ đánh cho hắn không kịp trở tay, rối loạn lung tung, hết phương ứng phó. Nếu Navarre kiên quyết giữ Điện Biên Phủ, tất nhiên cũng không thoát khỏi số phận bị tiêu diệt. Mà điều đó phải dựa vào người chỉ huy các cấp chỉ huy tài tình, dựa vào cán bộ chiến sĩ bộ đội anh dũng thiện chiến. Chúng tôi tin tưởng các đồng chí dũng cảm gánh vác nhiệm vụ nặng nề này. Chúng tôi xin chúc các đồng chí thắng lợi dễ dàng, mã đáo thành công ”.
Phát biểu của Vi Quốc Thanh thỉnh thoảng nổi lên từng tràng vỗ tay nhiệt liệt. Ý kiến sâu sắc, phân tích thấu đáo đó của Vi Quốc Thanh không thể không làm cho các đồng chí có tư tưởng này nọ chân thành cảm phục. Buổi nói chuyện của đồng chí Vi Quốc Thanh có tác dụng tích cực với thống nhất tư tưởng của cán bộ cao cấp quân đội Việt Nam. Sau khi kết thúc hội nghị quân sự, Vi Quốc Thanh được biết quân Pháp tiếp tục tăng viện binh lực cho Điện Biên Phủ, gấp rút xây công sự, mở sân bay, tích trữ vật tư quân sự, đồng thời tăng 6 tiểu đoàn cho Thượng Lào, đánh chiếm các nơi Mường Khè, Mường Khay v.v.. xây dựng phòng tuyến sông Mã Việt Nam để tiếp ứng cho quân đóng giữ Điện Biên Phủ.
Dấu hiệu bọn địch cố giữ Điện Biên Phủ là rất rõ ràng. Sau khi Vi Quốc Thanh và Võ Nguyên Giáp bàn tính, quyết định điều chỉnh kế hoạch tác chiến tiến quân lên Tây Bắc. Chia toàn bộ cuộc tác chiến Tây Bắc làm hai bước : đánh Lai Châu trước, đánh Điện Biên Phủ sau. Đồng thời quyết định điều thêm bộ binh, trọng pháo, cao xạ pháo, công binh v.v.. dự trù vật tư tác chiến để bảo đảm nhu cầu tấn công Điện Biên Phủ. Vi Quốc Thanh điện báo kế hoạch điều chỉnh cho Quân uỷ Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc. Quân uỷ Trung ương lập tức trả lời tán thành và đồng ý giải quyết vấn đề cung cấp vật tư cần thiết cho tấn công Điện Biên Phủ.
Ngày 6/12, Bộ Chính trị Trung ương Đảng Lao động Việt Nam triệu tập hội nghị, thảo luận quyết định mở chiến dịch Điện Biên Phủ, phê phán kế hoạch tác chiến nói trên của Tổng Quân uỷ và quyết định thành lập Đảng uỷ và Bộ chỉ huy tiền phương Điện Biên Phủ do Võ Nguyên Giáp làm Bí thư và Tổng chỉ huy. Sau khi kết thúc hội nghị quân sự, các bộ đội chủ lực quân đội Việt Nam lần lượt tiến vào vùng tác chiến đã định. Trên đường hành quân lên Tây Bắc, dại đoàn 316 được biết bọn địch ở Lai Châu ngày 7/12 rút về Điện Biên Phủ, lập tức tuân theo mệnh lệnh của Bộ chỉ huy tiền tuyến quân đội nhân dân truy kích bọn địch, lần lượt tiêu diệt tổng cộng 24 đại đội. Tàn quân địch chạy về Điện Biên Phủ toàn bộ vùng Lai Châu được giải phóng. Tiếp đó, Bộ chỉ huy tiền phương QĐNDVN ra lệnh cho các đại đoàn 316, 308 tiến xuống phía Nam bao vây Điện Biên Phủ.
Trung đoàn 66 đại đoàn 304 tiến xuống phía Tây dọc quốc lộ 8 và trung đoàn 101 đại đoàn 325 thiếu một tiểu đoàn được đưa xuống Hạ Lào tiến xuống phía tây dọc quốc lộ 12, ngày 21, 22 tháng 12 lần lượt tấn công cứ điểm của địch ở Trung Lào, trong mấy ngày ngắn ngủi, tiêu diệt hơn 3 tiểu đoàn cơ động Âu – Phi, tất cả hơn 2200 tên. Quân địch ở Trung Lào khiếp đảm kinh hoàng, bỏ trận địa lũ lượt tháo chạy. Bộ đội Việt Nam rất nhanh tiến đến quốc lộ 13 và sông Mêkông. Lúc này bọn địch ở Thà Khẹt tỉnh lỵ của Khăm Muộn bỏ chạy về phía nam. Quân đội nhân dân lập tức giải phóng Thà Khẹt và phần lớn vùng Trung Lào, buộc quân Pháp nhanh chóng điều động binh lực tăng viện cho Trung Lào, xây dựng tập đoàn cứ điểm ở Xơ Nua và chiếm lại Thà Khẹt. Sau đó quân đội nhân dân chuyển sang củng cố vùng mới giải phóng và làm đường xuống phía nam, đồng thời thừa cơ xuất binh diệt địch.
Ngày 20/1/1954, quân Pháp dùng binh lực của sáu trung tâm cơ động mở cuộc tấn công lớn vào Phú Yên của Liên khu 5 Trung Bộ Việt Nam, hòng thực hiện mục đích của chúng chiếm toàn bộ Nam Trung Bộ. Liên khu 5 điều động số ít binh lực ứng phó với quân địch chính diện, tập trung 2 trung đoàn chủ lực, theo bố trí sẵn của Bộ Tổng Tham mưu, ngày 24/1 mở cuộc tấn công vào quân địch ở bắc Tây Nguyên. Trận đấu thắng lợi, sau khi tấn công phá liền ba cứ điểm, nhanh chóng mở rộng chiến quả. Bọn địch đóng giữ lũ lượt bỏ chạy. Ngày 5/2, quân đội nhân dân giải phóng thị xã Kon Tum, tiêu diệt toàn bộ quân địch ở bắc Tây Nguyên. Sau đó tiếp tục tiến xuống phía nam tiến sát quốc lộ 19, và tập kích thị xã Pleiku. Đến đây quân đội nhân dân đã giải phóng 16.000 km2 đất và 200.000 dân. Quân Pháp không thể không ngừng tấn công Phú Yên, cấp tốc điều động binh lực tăng cường lực lượng phòng ngự cho thị xã Pleiku và các cứ điểm ở nam Tây Nguyên để ngăn chặn quân đội nhân dân tiếp tục tiến xuống phía Nam.
Tiểu đoàn tiền trạm của trung đoàn 101 được lệnh tiến xuống Hạ Lào, cuối tháng 1/1954 tấn công Attopeu tỉnh lỵ của Mường May, một tiểu đoàn đóng giữ ở đây bị tiêu diệt hoàn toàn. Quân địch đóng giữ các nơi ở Hạ Lào chỉ có viên chỉ huy là người Pháp, còn lại đều là nguỵ quân Lào, sức chiến đấu rất yếu. Quân đội nhân dân thừa thắng tiến lên, nhanh chóng giải phóng toàn tỉnh Mường May và phần lớn tỉnh Saravan (chiếm khoảng 2/3 tổng diện tích Hạ Lào) và hơn 200.000 dân làm cho nơi đây nối liền với vùng bắc Tây Nguyên Liên khu 5 mới giải phóng, hình thành tình thế chiến lược vô cùng có lợi.
Ban đầu khi nghiên cứu bố trí tác chiến mùa đông, Đoàn cố vấn từng nêu ra đưa một trung đoàn binh lực xuống Hạ Lào. Phía Việt Nam sợ nơi đó thiếu lương thực, bộ đội khó sống, chỉ đưa 1 tiểu đoàn, không ngờ 1 tiểu đoàn này lại giành được thành tích chiến đấu như vậy, thương vong lại rất ít, cung cấp lương thực cũng hoàn toàn không có vấn đề gì. Điều đó làm cho Võ Nguyên Giáp tăng thêm lòng tin ra lệnh điều động thêm đoàn bộ trung đoàn 101 và 1 tiểu đoàn khác đang hoạt động ở Trung Lào xuống Hạ Lào, để tăng cường sự lãnh đạo thống nhất đối với lực lượng vũ trang Hạ Lào, giúp chính phủ kháng chiến Lào xây dựng chính quyền, củng cố vùng mới giải phóng và tiếp tục phát triển xuống phía Nam.
Vi Quốc Thanh tán thành chủ trương này. Sau khi trung đoàn 101 đến Hạ Lào, tiếp tục tiến quân xuống phía nam, giải phóng vùng đồng bằng Cao Miên bao gồm VeunSai và SiemBang, nối liền vùng này với vùng mới giải phóng Hạ Lào. Trong thời gian này, một bộ phận chủ lực quân đội nhân dân ở địch hậu đồng bằng Bắc Bộ, Trung – Nam Bộ Việt Nam phối hợp với bộ đội địa phương dân quân; du kích tích cực bắt đầu chống càn quét, và chủ động đánh địch, nhổ các cứ điểm của địch, phá đường giao thông và cơ sở quân sự, đạt được thắng lợi không nhỏ.
Tấn công mùa đông của quân đội Việt Nam đạt được thắng lợi rất lớn : vùng Tây Bắc trừ ốc đảo Điện Biên Phủ đã hoàn toàn được giải phóng với binh lực có hạn, trong một thời gian rất ngắn, đã giải phóng một vùng rộng lớn bắc Tây nguyên, Trung, Hạ Lào và đồng bằng Cao Miên có ý nghĩa chiến lược quan trọng, tiêu diệt được rất nhiều quân địch, thu được số lớn vật tư quân sự, cơ bản thực hiện được kế hoạch khai thông tuyến giao thông chiến lược Nam Bắc Đông Dương, kiểm soát đông tây đường số 6, 7, 8, 9, 12, 19 của Việt Nam thông sang Trung, Hạ Lào và Campuchia đến quốc lộ 6. Tuyến giao thông chiến lược của quân Pháp ở Đông Dương hầu như bị cắt đứt toàn bộ. Điều đó làm rối loạn hoàn toàn bố trí chiến lược của Navarre, buộc ông ta không ngừng phân tán binh lực cơ động, ứng phó bị động, mệt bở hơi tai, làm cho kế hoạch quân sự của ông ta giải quyết vấn đề Đông Dương nam trước bắc sau trở thành bong bóng. Điều đó đã tạo điều kiện hết sức thuận lợi về chiến lược cho quân đội nhân dân giành thắng lợi chiến dịch Điện Biên Phủ.

Quyết chiến Điện Biên Phủ (trung)

Điện Biên Phủ là vùng lòng chảo nam bắc dài khoảng 18km, đông tây rộng khoảng 6-8 km. Nam cách Lào khoảng 30km, đông cách Hà Nội hơn 300 km. Sau khi quân Pháp nhảy dù xuống đây ngày 20/11/1953, chúng đuổi hết cư dân yên lành sống ở đây, lần lượt tăng thêm binh lực, dùng máy bay vận chuyển vật liệu xây dựng, chặt phá cây rừng bừa bãi, xây đắp công sự làm cho Điện Biên Phủ trở thành tập đoàn cứ điểm có hệ thống phòng ngự hoàn chỉnh. Nơi đây có tất cả 49 cứ điểm, chia làm 8 cụm cứ điểm, 3 phân khu phòng ngự : phân khu trung tâm Mường Thanh là trụ sở cơ quan chỉ huy của quân Pháp nằm giữa thung lũng, trận địa chính của pháo binh, kho hậu cần, sân bay chủ yếu và 2/3 binh lực đều tập trung ở đây.
Phân khu bắc bao gồm hai cụm cứ điểm ở đồi Độc Lập và Bản Kéo ở bắc và tây bắc Mường Thanh, cùng với cụm cứ điểm Him Lam ở đông bắc phân khu trung tâm Mường Thanh trở thành bình phong phía bắc của Điện Biên Phủ. Vùng Hồng Cúm cách nam Mường Thanh khoảng 5km là phân khu nam, cũng có sân bay trận địa pháo binh, làm nhiệm vụ ngăn chặn quân đội nhân dân tấn công từ phía Nam. Mỗi cụm cứ điểm của quân Pháp có nhiều tầng hỏa lực hỗ trợ, đào giao thông hào chằng chịt. Xung quanh cứ điểm có một vùng làm vật cản 40-200m, trong vùng đó chằng nhiều lớp dây thép gai và lưới điện và chôn mìn dầy đặc. Đầu tháng 3/1954, địch lần lượt tăng thêm binh lực lên 12 tiểu đoàn và 7 đại đội bộ binh, lính dù, cùng với 2 tiểu đoàn pháo 105 ly, 1 đại đội pháo 155 ly, 2 đại đội súng cối 120, 1 tiểu đoàn công binh và 1 đại đội xe tăng (10 chiếc), 1 phi đội máy bay (14 chiếc), tổng binh lực khoảng 13.000 tên. Xây 2 sân bay bắc, nam. Hằng ngày địch sử dụng 100-200 lần chiếc máy bay chờ 100-300 tấn vật tư quân dụng đến Điện Biên Phủ.
Một số tướng lĩnh cao cấp của Pháp – Mỹ từng thị sát Điện Biên Phủ cho đây là “một pháo đài bất khả xâm phạm” là “Verdun của Đông Nam Á”. Quân địch cậy thế bộ đội tinh nhuệ đông, hoả lực mạnh, công sự kiên cố, bố phòng nghiêm ngặt nên không lo sợ gì. Navarre, Tổng chỉ huy quân Pháp ở Đông Dương lên tiếng phải “giữ vững cứ điểm này bằng bất cứ giá nào”, phải “nghiền nát” bộ đội Việt Nam ở Điện Biên Phủ.
Trung hạ tuần tháng 12/1953, đại đoàn 316 và 308 quân đội Việt Nam nối tiếp nhau đến và bao vây Điện Biên Phủ. Tiếp theo, do Bộ Tổng Tham mưu QĐNDVN điều thêm bộ đội trọng pháo, bộ đội cao xạ pháo được Trung Quốc trang bị huấn luyện cũng lục tục tiến về Điện Biên Phủ. Vi Quốc Thanh và Mai Gia Sinh dẫn nhân viên Ban chỉ huy cố vấn cũng theo Bộ chỉ huy tiền phương quân đội Việt Nam ra tiền tuyến. Từ tây Yên Bái chỉ có một con đường lên Điện Biên Phủ. Pháo binh ra trận, dân công vận tải đều đưa vào con đường này. Để đề phòng máy bay địch, bộ đội và dân công đều ngày nghỉ đêm đi. Chiều xuống người gánh, xe chở rất chen chúc. Vi Quốc Thanh mang theo phiên dịch và bảo vệ ngồi trên xe jeep, chỉ có thể lăn bánh từ từ. Mỗi lần gặp máy bay địch bắn phá, ôtô phải tắt đèn giảm tốc độ. Gặp phải đoạn đường nguy hiểm chưa gỡ hết bom nổ chậm do máy bay địch ném xuống, phải xuống xe đi vòng. Vì vậy, xe đi một đêm không nổi 100 dặm. Trời vừa hừng sáng phải chui vào rừng sâu ẩn nấp. Vi Quốc Thanh là người nóng tính, hết sức sốt ruột với tốc độ hành quân này, nhưng không biết làm sao được.
Khi sắp đến gần tiền tuyến, có một đoạn đường, pháo tầm xa của địch thỉnh thoảng bắn vài phát để phong toả. Phía Việt Nam sắp xếp ôtô chở vật tư của đoàn cố vấn băng qua đoạn đường này, còn người thì đi vòng theo đường mòn, để bảo đảm an toàn. Để đi nhanh ra tiền tuyến, Vi Quốc Thanh kiên trì ngồi xe băng qua. Khi xe băng qua chỗ phong toả này bỗng nhiên có tiếng nổ to, một phát đạn pháo nổ ở gần đó. Vi Quốc Thanh bình tĩnh ra lệnh cho lái xe không nên hoảng hốt, lái nhanh đi qua. Sau khi đến đích, kính cửa sau ôtô bị mảnh đạn xuyên một lỗ. Khi Võ Nguyên Giáp đến thăm, nghe được chuyện này, vội nói : “ Quá nguy hiểm ! từ nay về sau bố trí hành động không thể nghe đồng chí nữa, đồng chí phải tuyệt đối nghe tôi ”. Vi Quốc Thanh cười nói : “ Vâng ! Vâng ! Từ nay về sau tuân lệnh ”.
Thượng tuần 1/1954, bộ đội được Bộ Tổng Tham mưu quân đội Việt Nam điều thêm tiếp tục đến mặt trận Điện Biên Phủ. Lúc này lực lượng QĐND Việt Nam bao vây Điện Biên Phủ có các đại đoàn bộ binh 308, 312, 316 và 304 (thiếu 1 trung đoàn) và đại đoàn công pháo binh 351 (gồm 1 trung đoàn lựu pháo, 1 trung đoàn sơn pháo, 1 trung đoàn công binh, 4 đại đội súng cối, 1 tiểu đoàn pháo cao xạ, 2 tiểu đoàn súng máy cao xạ), tổng binh lực hơn 40.000 người, chiến ưu thế tuyệt đối về binh lực. Quân đội nhân dân vừa trải qua chỉnh quân chính trị và huấn luyện quân sự, tố chất quân chính nâng cao rõ rệt. Quân địch đóng giữ Điện Biên Phủ tuy lực lượng tinh nhuệ đông, công sự khá kiên cố, nhưng xa hậu phương, bị bao vây bốn bề, rất cô lập. Vì vậy, quân đội nhân dân có điều kiện cơ bản rất tốt để giành thắng lợi chiến dịch. Nhưng do quân đội nhân dân lâu nay chưa đánh công kiên quy mô lớn nên đứng trước tập đoàn cứ điểm kiên cố của đich, có những cán bộ kể cả cán bộ cao cấp nào đó, thấy quá nhiều khó khăn, thiếu lòng tin. Căn cứ vào tình hình đó, Vi Quốc Thanh dẫn đầu Đoàn cố vấn quân sự đã làm công tác chuẩn bị trước khi chiến đấu.
Thông qua trao đổi riêng với Võ Nguyên Giáp và tham gia hội nghị của Bộ Tổng Tham mưu quân đội Việt Nam, Vi Quốc Thanh giúp phân tích tình hình, nghiên cứu cách đánh, đi đến thống nhất tư tưởng, xác định mục đích quyết tâm tác chiến. Đồng thời lợi dụng mọi cơ hội, làm công tác tư tưởng đối với cán bộ trung cao cấp quân đội Việt Nam. Tại hội nghị cán bộ trung đoàn trở lên các đơn vị tham gia tác chiến, do Bộ chỉ huy tiền phương QĐND Việt Nam triệu tập ngày 14/1/1954, khi được mời phát biểu ý kiến, Vi Quốc Thanh nêu lên sự thật đầy đủ, nói rõ phương châm tác chiến của Trung ương Đảng Lao động Việt Nam và Tổng Quân uỷ là hoàn toàn đúng đắn. Đồng chí nêu ví dụ nói từ khi Pháp chiến tranh xâm lược Việt Nam đến nay đã thay 7 Tổng chỉ huy, còn Tổng Tư lệnh của chúng ta vẫn là Tổng Tư lệnh. Điều đó nói lên địch nhiều lần thất bại, chúng ta liên tiếp thắng lợi. Nói lên sự lãnh đạo của Trung ương Đảng và Tổng Quân uỷ là hoàn toàn có thể tin cậy được. Đồng chí vạch rõ, quân đội nhân dân có điều kiện, có khả năng giành thắng lợi của chiến dịch công kiên qui mô chưa từng có này. Đồng chí nói – các đơn vị bộ đội chủ lực quân đội nhân dân đã trải qua rèn luyện chiến đấu thực tế và huấn luyện quân chính. Sức chiến đấu đều được nâng cao rõ rệt, nhất là đại đoàn 308 và 312 càng trưởng thành là bộ đội có sức chiến đấu kiên cường, có thể nói một là bộ đội thép, một là bộ độ sắt, chúng ta có bộ đôi sắt thép sẽ đánh đâu thắng đó. Đồng chí cổ vũ cán bộ các cấp khắc phục mọi khó khăn, đánh tốt trận này, làm cho quân đội nhân dân tiến lên một bước lớn. Phát biểu của Vi Quốc Thanh có tác dụng cổ vũ ý chí chiến đấu, tăng thêm lòng tin.
Lúc này, khí thế của quân Pháp ở Điện Biên Phủ vẫn rất hung hăng. Một hôm, phiên dịch của Võ Nguyên Giáp cầm mấy tờ truyền đơn của máy bay quân Pháp rải xuống đến gặp Vi Quốc Thanh. Truyền đơn là lá thư viết bằng tiếng Việt của De Castries gửi Đại tướng Võ Nguyên Giáp, nội dung đại ý là : “ Tôi biết bộ đội của ông đã bao vây Điện Biên Phủ, nhưng vì sao không tiến công ? Tôi đã kiên nhẫn chờ đợi. Nếu ông có gan dám mở tấn công, thì xin bắt đầu đi ! Tôi đang chờ đón những thách thức của ông, quyết một phen thắng bại với ông ! ”
Vi Quốc Thanh nghe người phiên dịch đọc hết tờ truyền đơn cười nói : “ Lão De Castries này ! Ngông cuồng lắm ! Hãy đợi đấy. Đến lúc chiến dịch mở màn, là lúc hắn khóc đấy ”. Phiên dịch báo cáo nói : “ De Castires là một danh tướng của Lục quân Pháp là cấp dưới cũ của Navarre, đã qua trường quân sự, là học viên ưu tú. Hắn vốn quân hàm Đại tá, gần đây
8 vừa được phong Thiếu tướng ”. Vi Quốc Thanh nói : “ Thế thì hãy để xem chúng ta học được gì ở học viên ưu tú này có tài chỉ huy đến đâu ”.
Đứng trước kẻ địch điên cuồng, vận dụng cách đánh nào mới giành thắng lợi ? Khi quân địch đóng giữ không quá 10 tiểu đoàn, cấu trúc công sự chưa hoàn thiện lắm, Vi Quốc Thanh từng nghĩ, quân đội Việt Nam có trọng pháo và pháo cao xạ trong điều kiện khống chế được sân bay địch và kiềm chế hỏa pháo của địch có thể áp dụng cách đánh nhanh thắng nhanh, chủ lực một cú đột phá, chọc thẳng vào trong lòng đich, tiêu diệt trước cơ quan chỉ huy, trận địa pháo binh và quân dự bị của Pháp “nở hoa từ trung tâm”, sau đó đóng từ trong đánh ra, giải quyết quyết nhanh chống cuộc chiến đấu. Võ Nguyên Giáp tán thành ý kiến này. Bộ Tổng Tham mưu QĐND Việt Nam lập tức tiến hành bố trí chiến dịch theo ý đồ đó, dự định khoảng 20/1 mở cuộc tấn công.
Nhưng khi bộ đội trọng pháo của quân đội Việt Nam đến gần Điện Biên Phủ, trước mặt không có con đường nào để đi, không thể nào tiến vào trận địa. Mặc dù Võ Nguyên Giáp ra lệnh đại đoàn 312 giúp mở đường kéo pháo, nhưng do núi cao vực sâu, địa hình phức tạp, tiến triển chậm chạp, vẫn không thể nào tiến vào trận địa trước 20/1, do đó không thể không lùi thời gian bắt đầu chiến đấu. Bộ đội trọng pháo của quân đội Việt Nam được sự giúp đỡ rất lớn của đại đoàn 312 suốt ngày đêm đạp bằng mọi chông gai, mở đường, kéo pháo. Lúc này, Vi Quốc Thanh lại nảy ra ý nghĩ mới.
Vùng Tây Bắc Việt Nam dân cư thưa thớt không có nhà dân có thể làm nơi nghỉ quân. Bộ đội Việt Nam ngày đêm đều đóng quân ngoài trời, chỉ có Đoàn cố vấn được chiếu cố đặc biệt, công binh chặt tre dựng nhà lá đơn sơ, để tránh gió mưa. Vi Quốc Thanh ở trong nhà lá mười mấy mét vuông trên sàn hầu như trải đầy bản đồ. Đồng chí thường nhìn chăm chú vào bản đồ suy nghĩ rất lâu.
Một cú đột phá, chọc thẳng vào trong lòng địch tiêu diệt cơ quan đầu não của địch, làm rối loạn hệ thống chỉ huy của chúng, làm cho địch không đánh mà bị rối loạn, từ đó đánh nhanh thắng nhanh, giành toàn thắng, đó là một cách đánh áp dụng nhiều lần và nhiều lần thành công trong chiến tranh giải phóng. Nhưng cách đánh này vận dụng ở Điện Biên Phủ có thích hợp hay không ? Sau khi tìm hiểu kỹ hơn tình hình địch ở mặt trận, trong đầu Vi Quốc Thanh lúc nào cũng lởn vởn vấn đề này. Mắt chăm chú nhìn vào cứ điểm chi chít ở Điện Biên Phủ trên bản đồ, trong lòng Vi Quốc Thanh tưởng tượng ra một tình huống phức tạp về cơ sở phòng ngự của địch. Đồng chí nghĩ, quân đội Việt Nam thiếu kinh nghiệm đánh công kiên qui mô lớn, theo tình hình địch ta hiện nay, áp dụng cách đánh này thì không nắm chắc phần thắng. Đánh không tốt, còn phải chịu thiệt hại lớn. Vì vậy, cần thay đổi phương châm tác chiến.
Biến đánh nhanh thắng nhanh thành đánh chắc thắng chắc, từ ngoại vi vào trung tâm, tiêu diệt địch từng cứ điểm một. Đợi điều kiện chín muồi, mới mở tổng công kích tiêu diệt toàn bộ quân địch đóng giữ. Như vậy, có thể làm cho quân đội Việt Nam ở vị thế chủ động và rút kinh nghiệm từ trong từng trận đánh. Muốn như vậy phải chuẩn bị tác chiến thời gian dài, các công tác chuẩn bị phải làm thêm, không thể mở tấn công ngay. Xung quanh Điện Biên Phủ hiện nay, có nhiều bộ đội như thế, làm thế nào mới có thể phát huy tác dụng? Ánh mắt của Vi Quốc Thanh lọt vào vùng Ô Giang nam Thượng Lào, phía tây nam Điện Biên Phủ. Đây là một phòng tuyến hỗ trợ cho quân đóng giữ Điện Biên Phủ mà địch mới chiếm gần đây. Chiến tuyến tương đối dài, phòng ngự tương đối yếu, cách Điện Biên Phủ không xa lắm. Lệnh cho đại đoàn 308 ở tây Điện Biên Phủ đi đánh vùng này, rất nhiều điều lợi : tiêu diệt bộ phận sinh lực địch, phân tán binh lực cơ động của địch, giải phóng một vùng rộng lớn, càng cô lập Điện Biên Phủ.
Vi Quốc Thanh nghĩ đến đây trong lòng bỗng nhiên phấn chấn, lập tức bước ra khỏi nhà, đến chỗ Mai Gia Sinh. Đồng chí và Mai Gia Sinh bàn tính tỉ mỉ ý nghĩ của mình, Vi Quốc Thanh liền gọi điện thoại cho Võ Nguyên Giáp, nói có việc cần muốn bàn. Võ Nguyên Giáp đến ngay. Vi Quốc Thanh trình bày khá tỉ mỉ ý nghĩa mới của mình với Võ Nguyên Giáp. Võ Nguyên Giáp tỏ ý hoàn toàn tán thành thay đổi phương châm tác chiến. Nhưng việc cử đại đoàn 308 đi đánh thượng Lào, thì ngỏ ý để đồng chí sau khi suy nghĩ hãy quyết định.
Đại đoàn 308 là đại đoàn chủ lực số 1 của quân đội Việt Nam. Võ Nguyên Giáp suy nghĩ đại đoàn 308 đi Thượng Lào là một nước cờ hay cũng nắm chắc thắng lợi, nhưng ở Điện Biên Phủ có hơn 10.000 quân Pháp, trang bị tốt, khí thế hung hăng, liên tục chủ động xuất kích nếu biết được đại đoàn 308 đi Thượng Lào, chúng xuất kích toàn diện thì làm thế nào ? Quân ta có thể trụ nổi không ? Phần lớn đại pháo đã chuyển lên rồi, để tránh bị tổn thất cần phải đưa xuống, bộ đội sẽ có lời ta thán cũng sẽ ảnh hưởng đến tinh thần binh sĩ. Đồng chí mất ngủ, suy nghĩ một đêm. Ngày hôm sau, đồng chí đến gặp Vi Quốc Thanh, bày tỏ đồng ý đại đoàn 308 đi Thượng Lào tác chiến, đồng thời cũng nói rõ nỗi lo lắng của mình. Nghe xong, Vi Quốc Thanh nói : “ Tôi thấy dù địch biết đại đoàn 308 đi Lào, chưa chắc dám xuất kích toàn diện. Nếu địch xuất kích toàn diện, chúng ta cũng có cách đối phó. Để tránh tổn thất có thể rút một số đại pháo đã chuyển lên là cần thiết, có thể nói rõ với bộ đội đại đoàn 312 vẫn phải tích cực mở đường chuẩn bị đưa đại pháo vào, nhất thiết không được lơ là. Bộ chỉ huy mặt trận cũng lùi về một ít, để bảo đảm an toàn ”. Võ Nguyên Giáp yên tâm, tỏ ý tán thành sự sắp xếp đó. Đồng chí lập tức ra lệnh.
Thay đổi phương châm tác chiến đánh nhanh thắng nhanh sang đánh chắc thắng chắc, rất nhanh được Trung ương Đảng Lao động Việt Nam phê chuẩn và Quân uỷ Đảng Cộng sản Trung Quốc đồng ý. Ngày 27/1, Quân uỷ Trung ương điện trả lời Vi Quốc Thanh nêu rõ : “ Tấn công Điện Biên Phủ nên áp dụng chia cắt bao vây, tiêu diệt địch từng toán một. Mỗi lần tiêu diệt khoảng 1 tiểu đoàn, chỉ cần có thể tiêu diệt hoàn toàn bốn, năm tiểu đoàn thì địch ở Điện Biên Phủ có thể dao động hoặc rút chạy về phía nam, hoặc tiếp tục tăng viện. Cả hai trường hợp đều có lợi cho chúng ta ”
9.
Cách đánh, đánh chắc thắng chắc từng bước tiêu diệt địch này, lúc bấy giờ gọi một cách hình ảnh là “bóc măng”, tức là bóc từng lớp một, ăn từng miếng một, cuối cùng tiêu diệt toàn bộ quân địch. Ngày 26/1, đại đoàn 308 tiến đến Thượng Lào, có nhiệm vụ tiêu diệt địch đóng giữ dọc bờ nam Ô Giang, xem tình hình đánh lấy Luông Prabang. Bọn địch ở phòng tuyến nam Ô giang nghe phong thanh tháo chạy. Đại đoàn 308 đuổi đánh dữ dội, trong 10 ngày tiêu diệt hơn 5 tiểu đoàn, giải phóng toàn bộ vùng lưu vực nam Ô Giang, tiến sát Luông Prabang. Navarre cấp tốc điều quân bằng máy bay từ đồng bằng Bắc Bộ và Điện Biên Phủ sang Luông Prabang và Mường Xay để chống đỡ. Đại đoàn 308 đã đạt mục đích tấn công Thượng Lào vì binh lực địch tăng thêm, cung cấp lương thực khó khăn, nên không tấn công Luông Prabang nữa, hạ tuần tháng 2 trở về vùng tây Điện Biên Phủ.
Đồng thời với đại đoàn 308 đi đánh Thượng Lào, Trung đoàn 148 quân đội Việt Nam tiến quân lên Phong Xa Lì, Thượng Lào, trung tuần tháng 2 giải phóng toàn bộ tỉnh Phong Xa Lì. Đến đây diện tích vùng giải phóng Thượng Lào lại mở rộng thêm 10.000 km2, nối liền với vùng Tây Bắc, Việt Nam. Quân địch đóng giữ Điện Biên Phủ càng thêm cô lập. Quân địch đóng giữ Điện Biên Phủ bố phòng nghiêm ngặt, công sự kiên cố hoả lực mạnh mẽ, làm thế nào mới có thể chia cắt bao vây địch, nuốt gọn từng miếng một ? Đó là vấn đề Vi Quốc Thanh ngày đêm suy nghĩ. Vi Quốc Thanh có kinh nghiệm tác chiến phong phú và đã làm Tiểu đoàn trưởng công binh thời kỳ trường chinh, nghĩ đến biện pháp thao tác áp sát và hào sâu tiếp cận địch. Tức tổ chức bộ đội đào hào sâu, lợi dụng hào sâu chia cắt, bao vây, áp sát cứ điểm địch. Sau đó bất ngờ tấn công. Như vậy có thể giảm thương vong bộ đội, lâu ngày đánh chắc, thắng chắc. Mai Gia Sinh cũng tán thành phương pháp này. Vi Quốc Thanh nói : “ Hãy bàn với các cố vấn xem sao ”.
Lúc này, vừa may cố vấn đại đoàn 308 Vu Bộ Huyết đến Ban chỉ huy báo cáo tình hình. Vu Bộ Huyết báo cáo tóm tắt tình hình đại đoàn 308 tác chiến ở Thượng Lào. Vi Quốc Thanh hỏi đồng chí : “ Đồng chí có cách gì đánh Điện Biên Phủ không ? ”. Vu Bội Huyết nói : “ Tôi nghĩ có thể dùng biện pháp áp sát. Tôi và Vương Thừa Vũ (đại đoàn trưởng 308), Lê Quang Đạo (chính uỷ 308) sau khi từ Thượng Lào trở về, ngày nào cũng tâm niệm làm thế nào để gặm cục xương cứng Điện Biên Phủ này. Tôi nêu ra trước biện pháp này, được các đồng chí ấy đồng ý, để bộ đội làm thí nghiệm trong ruộng lúa. Họ càm thấy biện pháp này được, chúng tôi lần lượt báo cáo lên ”. Mấy ngày hôm nay, Vi Quốc Thanh lại mắc bệnh đau đầu, trên trán mang một máy giải nhiệt bằng nhôm, tinh thần mệt mỏi. Lúc này đồng chí phấn khởi đứng lên nói không ngớt lời : “ Thế thì tốt rồi ! Đồng chí nói tỉ mỉ xem nào ”. Tiếp đó, đồng chí lại tập trung tinh thần lắng nghe báo cáo tỉ mỉ của Vu Bộ Huyết trong lòng đã nắm chắc.
Ngày hôm sau, Vi Quốc Thanh chính thức đưa ra kiến nghị nói trên với Võ Nguyên Giáp. Võ Nguyên Giáp phấn khởi tiếp nhận, chỉ nêu ra, quân đội Việt Nam ngoài số ít công binh ra, lâu nay chưa trang bị công cụ thao tác áp sát, đó là một khó khăn thực tế. Vi Quốc Thanh điện gấp cho Quân uỷ Trung ương Trung Quốc, yêu cầu nhanh chóng điều động số lượng lớn cuốc xẻng để đáp ứng nhu cầu khẩn cấp. Bộ Tổng Tham mưu quân đội Việt Nam tuân theo chỉ thị của Võ Nguyên Giáp vạch ra kế hoạch công trình xây dựng toàn bộ trận địa và truyền đạt cho bộ đội. Vi Quốc Thanh triệu tập họp cố vấn các đại đoàn, yêu cầu họ giúp bộ đội tổ chức thực hiện. Đồng chí còn kết hợp tình hình địch trước mắt, giới thiệu với phía Việt Nam kinh nghiệm tác chiến công kiên của Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc giúp giải quyết các vấn đề chiến thuật cụ thể, để tăng thêm niềm tin thắng lợi cho bộ đội.

Quyết chiến Điện Biên Phủ (hạ)

Đến thượng tuần tháng 3/1954, quân đội Việt Nam bao vây Điện Biên Phủ đã gần 3 tháng. Trong thời gian này, ngoài việc tiến hành chuẩn bị chiến đấu quân đội nhân dân còn nhiều lần đánh lui các cuộc xuất kích quy mô nhỏ của địch đóng giữ Điện Biên Phủ, qua đó rèn luyện bộ đội. Vào lúc này, để chuẩn bị cho 5 nước Xô, Mỹ, Anh, Pháp, Trung và đại biểu các nước có liên quan tham gia hội nghị Genève thảo luận vấn đề Triều Tiên và vấn đề Đông Dương, triệu tập vào giữa tháng 4, Chu Ân Lai nêu ra với Đoàn cố vấn quân sự : “ Để giành chủ động về ngoại giao, có thể tổ chức đánh mấy trận thắng đẹp ở Việt Nam như trước khi đình chiến ở Triều Tiên không ? ”. Ngày 3/3, sau khi nhận được điện chỉ thị đó của Chu Ân Lai do Bộ Tổng Tham mưu chuyển đến, Vi Quốc Thanh cho rằng, để phối hợp với đấu tranh đàm phán ở hội nghị Genève, cần phải nỗ lực lớn nhất, tiêu diệt toàn bộ quân địch ở Điện Biên Phủ.
Lúc này, các mặt chuẩn bị của quân đội Việt Nam đã tương đối đầy đủ, lựu pháo và pháo cao xạ đã vào trận địa dự định điều kiện tấn công Điện Biên Phủ đã chín muồi. Sau khi Vi Quốc Thanh và Võ Nguyên Giáp bàn bạc, quyết định ngày 13/3 bắt đầu nổ súng tấn công Điện Biên Phủ.

Toàn bộ chiến dịch trải qua ba đợt.

Tác chiến đợt 1, phát triển thuận lợi. Vi Quốc Thanh cho rằng, trận đầu có thể giành được thắng lợi hay không vô cùng quan trọng đối với sự phát triển của toàn bộ chiến dịch và đối với quân đội nhân dân lâu nay chưa đánh công kiên quy mô lớn như thế này mà nói, thì ảnh hưởng càng to lớn hơn. Vì vậy đồng chí dày công giúp đỡ Việt Nam tổ chức tác chiến đợt 1. Mục tiêu tác chiến là tấn công cụm cứ điểm ở Him Lam và đồi Độc Lập bắc Điện Biên Phủ mỗi nơi có 1 tiểu đoàn địch đóng giữ. Vi Quốc Thanh và phía Việt Nam nghiên cứu nhiều lần việc bố trí tác chiến, quyết định đại đoàn 312 và 308 với binh lực ưu thế tuyệt đối gấp nhiều lần địch, có pháo binh phối hợp và pháo binh của Bộ Tổng Tham mưu chi viện hoả lực, ngày 13 và đêm ngày 14/3 theo chỉ thị của Vi Quốc Thanh giúp đỡ cụ thể các bộ đội tấn công từ quan sát đến bố trí, từ chiến thuật đến kỹ thuật, từ chọn điểm xuất kích đến xây trận địa xuất phát, đều đã chuẩn bị đầy đủ, do đó cuộc chiến đấu phát triển thuận lợi.
Đêm 13, hàng trăm khẩu đại bác của quân đội Việt Nam cùng gầm lên một lúc, đạn pháo gào thét bay tới sân bay, cụm pháo binh và cứ điểm Him Lam của quân Pháp. Máy bay địch bị lật ngửa, đường bay bị phá nát, trọng pháo bị kiềm chế, từng lô cốt một trên đồi Him Lam bị phá sập. Sau đợt pháo gầm, các đội viên đột kích của đại đoàn 312 qua thao tác áp sát đã đào hào đến tận mũi quân địch, lập tức xung phong, nhanh chóng đột phá tiền duyên. Trải qua giành giật tại trung tâm, 11g30’ đêm 13 đánh chiếm toàn bộ đồi Him Lam, tiêu diệt sạch một tiểu đoàn địch.
Đêm 14, một trung đoàn bộ binh của đại đoàn 308 và một trung đoàn bộ binh của đại đoàn 312 tấn công đồi Độc Lập. Chiến đấu đến rạng sáng hôm sau, quân đội Việt Nam đã cắm lá cờ mang dòng chữ “quyết chiến quyết thắng” trên đỉnh đồi Độc Lập, tiêu diệt thêm một tiểu đoàn địch, đánh lui 1 tiểu đoàn viện binh địch, phá huỷ 1 xe tăng, bắt hơn 30 tù binh. Trận đầu kết thúc thắng lợi, quân đội Việt Nam trên dưới đều rất hân hoan. Trong lúc phấn khởi, Vi Quốc Thanh bình tĩnh trù tính tác chiến bước tiếp theo. Đêm 15, đồng chí điện báo cáo Quân uỷ Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc : “ Hai trận chiến đấu đợt 1, đêm ngày 13 và 14 liên tiếp tấn công chiếm hai cụm cứ điểm ở bắc và đông bắc Điện Biên Phủ, tiêu diệt hoàn toàn hai tiểu đoàn Lê dương. Đây là lần đầu tiên quân đội Việt Nam sử dụng hoả lực trọng pháo có vai trò có tính quyết định đối với việc kiềm chế pháo binh địch, phối hợp tấn công. Trong ba ngày, bắn hỏng 16 máy bay địch, làm cho máy bay địch không dám hạ cánh xuống sân bay và bay thấp, trong chiến đấu nhấn mạnh thao tác áp sát và bộ pháo hiệp đồng, nên thương vong không lớn. Niềm tin của bộ đội tiếp tục vây diệt địch ở Điện Biên Phủ nâng cao hơn trước một bước. Muốn tiêu diệt toàn bộ quân địch ở Điện Biên Phủ còn phải mấy trận chiến đấu công kiên nữa, và trận sau khó khăn hơn trận trước. Để bảo đảm sử dụng pháo không gián đoạn khống chế sân bay và liên tục kiên trì chiến đấu tương đối dài, cần phải tiếp thêm lương thực và xăng dầu. Xin đưa thêm 3000 quả đạn pháo (cỡ 105 kiểu Mý), 3000 quả sơn pháo, 3000 thùng lớn xăng dầu đến Bằng Tường trước ngày 25/3 ”.
Quân uỷ Trung ương Trung Quốc luôn luôn dốc toàn lực chi viện cho chiến dịch Điện Biên Phủ hễ Vi Quốc Thanh nêu yêu cầu, là theo đó cấp đủ, cấp đúng.
Mấy ngày qua, tin vui liên tiếp truyền về. Viên trung tá chỉ huy pháo binh quân Pháp ở Điện Biên Phủ vì bị tổn thất nặng nề trong trận đấu pháo, mất lòng tin, dùng lựu đạn tự sát
10. Điều đó giáng một đòn vào tinh thần binh lính quân Pháp. Cứ điểm Bản Kéo rơi vào cô lập do đồi Him Lam, Độc Lập thất thủ, một tiểu đoàn lính Thái đóng giữ cứ điểm này hoang mang cực độ, ngày 27/3 ra hàng Quân đội Nhân dân. Đến đây Quân đội Nhân dân đã chiếm giữ 3 cụm cứ điểm án ngữ phía bắc Điện Biên Phủ, mở cánh cửa thông sang khu trung tâm Điện Biên Phủ. Tác chiến đợt 1 của Quân đội Nhân dân đã vượt mục tiêu dự kiến, tinh thần binh sĩ phấn chấn, niềm tin tăng lên gấp bội.
Để cứu vãn tình thế thất bại, sau tác chiến đợt 1, Navarre tiếp tục cho ba tiểu đoàn nhảy dù xuống Điện Biên Phủ (về sau trong chiến đấu đợt 2, 3 lần lượt nhảy dù thêm 2 tiểu đoàn nữa).

Tác chiến đợt 2, giành giật quyết liệt
Sau khi tổng kết kinh nghiệm trận đầu và chuẩn bị cho trận đánh tiếp theo, đêm 30/3 Quân đội Nhân dân bắt đầu tác chiến đợt 2, tấn công quân địch ở phân khu trung tâm Mường Thanh, trụ sở cơ quan chỉ huy của quân Pháp. Bố trí tác chiến của Vi Quốc Thanh và phía Việt Nam nghiên cứu xác định là : ngoài hai trung đoàn của đại đoàn 308, 312, sư 316 và toàn bộ hỏa lực pháo binh tấn công tiêu diệt địch ở điểm cao phía đông phân khu trung tâm và vùng Tây bắc sân bay, để thít chặt vòng vây, khống chế điểm cao, khống chế sân bay, cắt đường không vận của địch. Nếu phát triển thuận lợi, thì liên tục tấn công, tiêu diệt toàn bộ quân địch.
Sau khi cuộc chiến đấu bắt đầu, đột phá tiền duyên địch tương đối thuận lợi, nhưng sau khi đi vào sâu lòng địch thì phát triển rất chậm. Quân Pháp dựa vào công sự kiên cố, hoả lực dày đặc, ngoan cố chống cự và tổ chức đánh trả. Cán bộ quân đội Việt Nam thiếu khả năng ứng biến, bộ đội thương vong tăng nhiều, tấn công gặp trở ngại. Qua một tuần chiến đấu, quân đội Việt Nam hạ được 5 cứ điểm địch, tiêu diệt binh lực hơn 3 tiểu đoàn, không chế phần lớn điểm cao quan trọng phía đông Điện Biên Phủ, và hình thành tình thế có lợi đứng trên cao nhìn xuống bọn địch ở Mường Thanh. Nhưng khi tấn công cứ điểm A1 bảo vệ Mường Thanh, do quân địch lợi dụng hầm hào và nhà dưới dất ngoan cố chống cự, không thể đánh hạ được toàn bộ, hình thành thế giằng co, mỗi bên chiếm một nửa. Sau khi cao điểm C1, cứ điểm quan trọng bảo vệ Mường Thanh bị đánh hạ, quân Pháp tổ chức đánh trả, chiếm lại hơn một nửa. Hai bên giành giật nhiều lần, cuộc chiến đấu vô cùng ác liệt. Trong tác chiến hơn một tuần, các bộ đội tấn công của quân đội Việt Nam đều bị thương vong không ít.
Vi Quốc Thanh ngày đêm theo dõi phát triển của chiến cuộc. Tin tức từ tiền tuyến về có lúc hỗn loạn. Lúc thì nói hạ được một cứ điểm, sau vài giờ lại nói chưa hạ được. Tình hình tấn công cứ điểm A1 càng như thế. Lúc thì nói gặp đường hầm hào của địch đang đánh bộc phá, lúc thì lại nói, cách đường hầm còn rất xa, không thể nào đánh bộc phá được. Lúc thì nói đường hào không lớn, chỉ có số ít địch ngoan cố chống cự. Một lát sau lại nói, nhà hầm của địch rất lớn, có thể chứa hàng trăm tên. Điều đó một lần nữa phản ánh cái tật của viên chỉ huy cơ sở nào đó không đích thân theo dõi tuyệt một. Vi Quốc Thanh rất bực tức, kiến nghị phía Việt Nam nghiêm túc ra lệnh cho bộ đội tấn công điều tra rõ tình hình thực tế, để nghiên cứu đối sách. Cuối cùng rõ ra là, quân địch ở A1 lợi dụng đường hào và nhà hầm xây dựng thời kỳ quân Nhật chiếm đóng để ngoan cố chống cự và thỉnh thoảng tiến hành phản kích quân đội Việt Nam không thể nào đối phó. Vi Quốc Thanh điện gấp về Quân uỷ Trung ương Trung Quốc, báo cáo tình hình này, Quân uỷ Trung Quốc cấp tốc điều một số cán bộ từng tác chiến ở Triều Tiên có kinh nghiệm đánh đường hào, đi nhanh ra tiền tuyến Điện Biên Phủ. Họ giúp bộ đội Việt Nam đào hầm ngầm thông đến đường hào cứ điểm A1, chuẩn bị dùng thuốc nổ phá huỷ nó.
Lúc này Võ Nguyên Giáp hơi sốt ruột chưa đánh hạ được A1, liền ra lệnh tấn công C1. Đồng chí chưa bàn với Vi Quốc Thanh quyết định điều trung đoàn 102 của đại đoàn 308, ngày 11/4 tấn công đồi C1, kết quả bị hoả pháo địch sát thương nặng, toàn trung đoàn thương vong trên 700 người, không thể tiếp tục chiến đấu. Trung đoàn 102 là trung đoàn chủ lực của đại đoàn 308, là bộ đội từ khi bắt đầu chiến dịch cho đến nay chưa bị tổn thất, lần này bị trọng thương, ảnh hưởng rất lớn đến phát triển của trận đánh. Chỉ huy “quả đoán” của Võ Nguyên Giáp lần này bị không ngờ vấp váp. Vi Quốc Thanh lựa lời an ủi đồng chí, nêu ra kiến nghị tạm ngừng tiến công chuyển sang tổng kết chỉnh đốn. Võ Nguyên Giáp tiếp nhận kiến nghị này. Lúc này, hội nghị Genève sắp triệu tập, Điện Biên Phủ trở thành một điểm nóng khiến cả thế giới dõi theo sau khi Triều Tiên đình chiến, Quân uỷ Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc rất quan tâm theo dõi tác chiến Điện Biên Phủ, luôn luôn hỏi Vi Quốc Thanh tình hình chiến sự và có nhiều chỉ thị cụ thể đối với chiến thuật tấn công Điện Biên Phủ.
Vi Quốc Thanh theo chỉ thị của Quân uỷ Trung ương Trung Quốc, kết hợp tình hình thực tế quân đội Việt Nam thương vong tương đối lớn trong tác chiến đợt hai, một mặt giúp Việt Nam tổng kết kinh nghiệm chiến đấu, cải tiến chỉ huy tác chiến bổ sung quân lính, chỉnh đốn tổ chức, khôi phục và tăng cường sức chiến đấu, để có lợi cho tiếp tục chiến đấu, đồng thời kiến nghị quân đội Việt Nam áp dụng biện pháp hữu hiệu, tăng cường bao vây và tấn công quân Pháp sau đó quân đội Việt Nam chủ động áp dụng các biện pháp sau đây :
Một là, tổ chức bộ đội đào hầm hào từng bước thắt chặt vòng vây, chia cắt quân địch ở phân khu trung tâm Mường Thanh với phân khu nam bằng hầm hào, cắt đứt liên hệ trên mặt đất giữa chúng. Đồng thời, từ các hướng đào đến tận tung thâm phân khu trung tâm Mường Thanh. Lúc này đào hầm hào trở thành phương tiện tấn công tích cực, không ngừng thu hẹp địa bàn quân Pháp chiếm đóng. Quân Pháp tuy thường xuyên pháo kích và phá hoại, nhưng các chiến sĩ quân đội Việt Nam không sợ đổ máu, mồ hôi, càng đào càng hăng, càng đào càng nhanh. Chiến hào cứ mỗi ngày một vươn dài lên phía trước, chiến hào chính, chiến hào nhánh đan xen ngang dọc, chia cắt quân Pháp từng mảnh. Đúng như miêu tả trong cuốn sách Lịch sử Quân đội Nhân dân Việt Nam của Việt Nam xuất bản những năm 70 : “ Chiến hào như những chiếc thòng lọng, mỗi ngày một xiết chặt cổ của địch ”.
Hai là, khống chế hơn nữa sân bay, cắt đứt vận chuyển hàng không của địch. Quân địch đóng giữ Điện Biên Phủ cách xa hậu phương, bị bao vây bốn bề, mọi cung ứng đều dựa vào vào vận chuyển hàng không, hằng ngày phải có trên trăm lượt chiếc máy bay chở các loạt vật tư quân sự, mới có thể duy trì nhu cầu sinh hoạt cần thiết và tiêu hao chiến đấu của hơn 10.000 quân đóng giữ. Vi Quốc Thanh coi việc cắt đứt vận chuyển hàng không là một điều kiện quan trọng để giành toàn thắng của chiến dịch. Chiến dịch bắt đầu, bộ đội cao xạ quân đội Việt Nam lần đầu tiên bước vào chiến đấu đánh cho máy bay địch bay thấp ném bom bắn phá điên cuồng bị trọng thương. Hoả lực trọng pháo của quân đội Việt Nam bắn vào sân bay buộc máy bay địch chở người và vật tư không dám thả dù phải chuyển sang thả từ trên máy bay xuống. Quân đội Việt Nam chỉnh đốn bổ sung sau khi chuẩn bị đầy đủ, liên tục công phá mấy cứ điểm địch gần sân bay, và lợi dụng ban đêm đào hào cắt ngang lưng sân bay, làm cho sân bay hoàn toàn không sử dụng được. Đi theo chiến hào của quân đội Việt Nam không ngừng vươn dài tới trước, vòng vây ngày càng hẹp lại, vật tư của máy bay địch ném xuống ngày càng nhiều (thậm chí phần lớn) rơi xuống trận địa quân đội Việt Nam. Đây là một hỗ trợ lớn đối với quân đội Việt Nam, nhưng lại là đòn đánh hết sức nặng nề với quân Pháp.
Ba là, tổ chức bộ đội triển khai hoạt động đánh chặn. Các bộ đội rất nhanh tổ chức thành nhóm diệt địch do các tay súng thần, pháo thần tham gia, bắn lén, bắn tỉa vào các mục tiêu hoạt động trên trận địa địch, không ngừng sát thương địch, buộc quân Pháp không dám hoạt động ngoài công sự, đánh mạnh vào tinh thần của quân Pháp.
Bốn là, tổ chức bộ đội triển khai tấn công chính trị. Thành phần binh lính Pháp phức tạp, nhiều loại quốc tịch. Nhằm vào tình hình này, quân đội Việt Nam dùng loa phóng thanh, bằng nhiều ngôn ngữ phát thanh, kêu gọi binh lính địch trên trận địa, có tác dụng làm suy yếu tinh thần chiến đấu của binh lính địch, tiến tới làm tan rã quân địch, thường có lẻ tẻ lính nguỵ, lính nước ngoài và lính da đen ra đầu hàng quân đội Việt Nam.
Biện pháp đấu tranh quân sự chính trị phối hợp cả hai cùng tiến hành song song với tiếp thu được hiệu quả rất tốt. Đến hạ tuần tháng 4, tình cảnh của quân Pháp hết sức khó khăn. Diện tích trong vòng vây không đầy 2 km2, toàn bộ tập đoàn cứ điểm của quân Pháp bị chia cắt thành nhiều đoạn, sân bay cũng bị quân đội Việt Nam chiếm một nửa. Do sợ quân đội Việt Nam tấn công, sĩ quan, binh lính Pháp suốt ngày co ro trong công sự. Trong nhà hầm chật ních thương binh, bốc mùi khó thở. Tinh thần quân Pháp sa sút cực độ. Lúc này, tập đoàn thống trị Mỹ không muốn nhìn thấy quân Pháp ở Điện Biên Phủ thất bại, đồng thời với tăng cường viện trợ cho Pháp, tiến hành đe doạ trắng trợn đối với Việt Nam, đưa hạm đội 7 đến Vịnh Bắc Bộ “diễn tập”, đánh tiếng sắp sử dụng máy bay ném bom B29 ném bom xuống trận địa quân đội Việt Nam ở Điện Biên Phủ, thậm chí để ngỏ ý muốn ném bom nguyên tử cỡ nhỏ.
Vào thời gian này quân đội Việt Nam cũng gặp một số vấn đề và khó khăn mới : do bộ đội đóng quân ngoài trời lâu ngày, số người không trực tiếp chiến đấu tăng lên, tác chiến liên tục nhiều tháng, người chỉ huy nảy sinh tư tưởng mệt mỏi, nhất là tư tưởng tiêu cực hữu khuynh trỗi dậy trong cán bộ. Có những cán bộ, tinh thần trách nhiệm yếu, tính tích cực chiến đấu không cao, thậm chí xuất hiện hiện tượng nghiêm trọng kiếm cớ rời khỏi vị trí chiến đấu, báo cáo láo tình hình, không chấp hành mệnh lệnh trong tình hình chiến đấu khẩn cấp v.v... Do máy bay địch bắn phá điên cuồng và mùa mưa đến, vận tải hậu cần cũng ngày càng khó khăn. Đứng trước tình hình Mỹ đe doạ, quân Pháp giãy giụa hung hăng, trong số cán bộ cao cấp quân đội Việt Nam có những người dao động niềm tin giành toàn thắng chiến dịch, thậm chí sợ Mỹ ném bom nguyên tử, cho rằng không nên đánh tiếp nữa. Vào giờ phút then chốt quan hệ đến tiêu diệt hoàn toàn quân địch hay là công dã tràng này, Vi Quốc Thanh đã bình tĩnh suy nghĩ và phân tích khách quan cho rằng, quân đội Việt Nam tuy gặp rất nhiều khó khăn, nhưng quân Pháp càng khó khăn hơn, hơn nữa không có cách gì khắc phục được chỉ cần quân đội Việt Nam không sợ hăm doạ, không sợ khó khăn, cắn chặt răng lại, kiên trì chiến đấu, nắm chặt nhược điểm của địch, liên tục tác chiến thì có thể khắc phục được khó khăn, giành toàn thắng cho chiến dịch. Đồng chí nói với các cố vấn : “Hiện tại toàn thế giới đều nhìn về Điện Biên Phủ, chúng ta không có đường lui. Chỉ có hạ quyết tâm tiêu diệt toàn bộ quân địch. Tạm thời chưa đánh được, mùa mưa đến nước dìm chết chúng. Nước không dìm chết, thì khốn khó lâu ngày, chúng cũng chết. Không lấy được Điện Biên Phủ quyết không lui quân. Các đồng chí phải chuẩn bị tư tưởng này”.
Vi Quốc Thanh trao đổi chân tình với Võ Nguyên Giáp, trình bày tỉ mỉ ý nghĩ trên đây của mình để thống nhất nhận thức, kiên định lòng tin. Hai người còn nghiên cứu biện pháp giải quyết vấn đề tư tưởng cán bộ và khắc phục khó khăn thực tế. Lúc này, Bộ Chính trị Trung ương Đảng Lao động Việt Nam triệu tập hội nghị mở rộng, phân tích tình hình tác chiến Điện Biên Phủ, vạch rõ thêm ý nghĩa quan trọng của chiến dịch, nhấn mạnh phải kiên quyết khắc phục tư tưởng tiêu cực hữu khuynh trong cán bộ, giành thắng lợi hoàn toàn cho chiến dịch. Cuối tháng 4, đảng uỷ tiền phương Quân đội Nhân dân triệu tập hội nghị mở rộng để quán triệt tinh thần của hội nghị mở rộng của Bộ Chính trị Trung ương Đảng Lao động Việt Nam. Võ Nguyên Giáp báo cáo tại hội nghị chú trọng phê bình nghiêm khắc các biểu hiện của tư tưởng tiêu cực hữu khuynh trong cán bộ, đặc biệt là hành vi vô kỷ luật không chấp hành mệnh lệnh kiếm cớ rời bỏ nhiệm vụ, báo cáo láo tình hình v.v... Các cố vấn phản ánh, đây là cuộc nói chuyện chống khuynh hướng sai lầm với lập trường quan điểm rõ ràng ít có của Tổng Tư lệnh. Hội nghị này đã đặt nền móng tư tưởng cho tác chiến đợt 3, giành toàn thắng của chiến dịch.

Tác chiến đợt 3, giành toàn thắng
Từ hạ tuần tháng tư, quân Pháp có dấu hiệu tăng quân cho Thượng Lào, hòng tiếp ứng cho địch đóng giữ Điện Biên Phủ chạy xuống phía nam. Vi Quốc Thanh lập tức cùng phía Việt Nam nghiên cứu, kịp thời bố trí đề phòng địch phá vây. Quân uỷ Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc căn cứ vào tình hình quân Pháp tập trung mấy tiểu đoàn lính dù ở Hà Nội, cuối tháng 4 đầu tháng 5 hai lần điện cho Vi Quốc Thanh, nhắc đồng chí đề phòng địch nhảy dù xuống nút giao thông quan trọng ở hậu phương quân đội nhân dân, để cắt đường tiếp tế, làm rối loạn hậu phương, và hiệp đồng với quân địch ở Thượng Lào giải vây Điện Biên Phủ.
Theo chỉ thị của Quân uỷ Trung ương Trung Quốc, Vi Quốc Thanh lại bàn với Võ Nguyên Giáp, tăng cường hơn nữa bố trí đề phòng quân địch giải vây ở hai hướng nam, bắc. Đồng thời quyết định : các đại đoàn 308, 312, 316 đêm 1/5 mở tấn công cứ điểm tây và đông sở chỉ huy Mường Thanh của quân Pháp, xiết chặt vòng vây hơn nữa. Trước hết tiêu diệt địch ở các cứ điểm đông sông Nạm Rốn rút binh lực cơ động để đối phó tình huống bất trắc. Sau khi chiến đấu bắt đầu, quân đội nhân dân rất nhanh tiêu diệt địch ở cánh sườn cứ điểm C1 và tấn công cứ điểm 505, 505A v.v.. chiến đấu đến ngày 3/5, lại tấn công tiếp cứ điểm 311A, 311B. Đến đây quân đội nhân dân đã áp sát sở chỉ huy Mường Thanh của địch.
Vi Quốc Thanh cho rằng, thời cơ tổng công kích Điện Biên Phủ đã chín muồi. Cùng với phía Việt Nam nghiên cứu, quyết định đêm 6/5 mở tổng công kích. Lúc này, đã đào xong đường ngầm thông sang đường hào cứ điểm A1, và chôn 1 tấn thuốc nổ. Sau tiếng nổ rền trời của một tấn thuốc nổ ở cứ điểm A1, cuộc tổng công kích trên toàn tuyến bắt đầu. Tất cả hoả pháo của quân đội Việt Nam kể cả pháo tên lửa 17 nòng của Trung Quốc trang bị vừa trở ra tiền tuyến cùng nã vào trận địa quân Pháp, với uy lực to lớn làm sát thương và choáng váng quân địch. Bọn địch dưới nhà hầm A1 bị thuốc nổ xé xác, bọn tàn quân trên mặt đất rất nhanh bị quét sạch. Đến sáng 7, tiêu diệt toàn bộ quân địch ở cứ điểm Châu Ôn, Na Nông, 506, làm cho Mường Thanh mất bình phong cuối cùng. Quân Pháp thấy rõ thế cờ, tiêu tan hy vọng, lúc 14g ngày 7, lục tục kéo cờ trắng, nộp vũ khí đầu hàng Quân đội Nhân dân. Thiếu tướng De Castries viên chỉ huy quân Pháp đã từng hùng hổ một thời cuối cùng cúi đầu, chắp hai tay cùng nhân viên Bộ Tham mưu của y ra làm tù binh của Quân đội Nhân dân.
Ngày hôm đó, đại đoàn 304 tấn công quân địch ở Hồng Cúm, phân khu nam. Hơn 2000 tên địch đêm tối phá vây chạy xuống phía nam, bị quân đội Việt Nam truy đuổi tiêu diệt vào nửa đêm. Đến đây, chiến dịch Điện Biên Phủ trải qua 55 ngày đêm, kết thúc với thắng lợi to lớn của quân đội Việt Nam. Thành quả chiến thắng Điện Biên Phủ rực rỡ, tiêu diệt tất cả 17 tiểu đoàn bộ binh, lính dù, 3 tiểu đoàn pháo binh, kể cả bộ đội công binh, thiết giáp, vận tải v.v... tất cả là 16.200 tên địch. Trong đó có 10.903 tù binh, bao gồm 41 sĩ quan cấp tướng tá, 1.749 sĩ quan cấp uý, bắn rơi bắn hỏng 62 máy bay thu 30 khẩu trọng pháo, 6 xe tăng hơn 30.000 chiếc dù và số lớn vũ khí đạn dược và vật tư quân dụng khác.

Chiến thắng Điện Biên Phủ như đã làm chấn động thế giới, càng chấn động nước Pháp. Chính phủ Pháp treo cờ rủ để tang cho các tướng sĩ trận vong ở Điện Biên Phủ, tập đoàn thống trị thốt lên tiếng ai oán và lời than vãn, còn những người tiến bộ trên toàn thế giới thì reo hò mừng vui. Ngày thứ hai kết thúc thắng lợi chiến dịch Điện Biên Phủ, tức ngày 8/5/1954, chính là ngày hội nghị Genève bắt đầu thảo luận vấn đề Đông Dương. Sự trùng hợp lịch sử này lại bao hàm nhân tố tất nhiên. Chiến thắng Điện Biên Phủ đã phối hợp mạnh mẽ với đấu tranh ngoại giao ở hội nghị Genève, nó làm cho đoàn đại biểu Chính phủ Việt Nam không chỉ ở vào vị thế của người chống xâm lược, chính nghĩa, mà còn ở vào vị thế của người chiến thắng.
Đoàn đại biểu chính phủ Pháp không chỉ ở vào vị thế của kẻ xâm lược mà còn ở vào vị thế của kẻ thất bại. Chiến thắng Điện Biên Phủ đã mở đường cho hội nghị Genève cuối cùng đi đến hiệp định lập lại hoà bình ở Đông Dương. Nhưng sau khi hội nghị Genève bắt đầu thảo luận vấn đề Đông Dương, đoàn đại biểu Pháp lại ra sức vẽ vời, xuyên tạc sự thật, vu khống công kích Việt Nam vấn đề đưa thương binh về nước, làm cho hội nghị trước tiến triển khai đấu tranh xoay quanh vấn đề phóng thích thương binh Pháp. Do đoàn đại biểu Việt Nam không có điện đài liên hệ trong nước, nên Trung ương đoàn, đoàn đại biểu chính phủ Trung Quốc Chu Ân Lai điện hỏi Vi Quốc Thanh về tình hình liên quan đến vấn đề phóng thích thương binh. Ngày 13/5 Chu Ân Lai gửi điện cho Vi Quốc Thanh nói : “Các nước phương Tây đang lợi dụng vấn đề thương binh ở Điện Biên Phủ để chỉ trích Liên Xô. Phía nhân sĩ tiến bộ và bạn bè mong muốn kịp thời có được tư liệu liên quan đến tình hình xử lý thương binh của phía địch ở Điện Biên Phủ, có thể điện cho biết bất cứ vào lúc nào về tình hình hai bên thương lượng thả thương binh binh nặng của phía địch và tình hình tiến triển cụ thể trong việc chuyên chở thương binh được thả để chuyển cho Phạm Văn Đồng và đoàn đại biểu Liên Xô, để có căn cứ tuyên truyền, đập tan âm mưu của địch”. Sau đó, Chu Ân Lai căn cứ và tình hình phía Pháp nói phía Việt Nam chỉ thả thương binh người nước ngoài, không thả thương binh người Việt Nam, công kích Việt Nam “kỳ thị dân tộc”, ngày 15/5 một lần nữa Chu Ân Lai điện cho Vi Quốc Thanh hỏi : “ Trong đợt đầu thả thương binh nặng có thương binh nguỵ quân Việt Nam hay không, và nếu có, nếu đợt này không có, thì trong danh sách đợt hai nên có thương binh nguỵ quân Việt Nam, và cho công bố ”.

Lúc này, ở Điện Biên Phủ cũng tiến hành cuộc đấu tranh xoay quanh vấn đề thả tù binh, bị thương nặng của quân Pháp. Theo yêu cầu của Bộ Tổng Tham mưu quân đội Việt Nam cho phép phía Pháp chở tù binh bị thương nặng của họ và cử đoàn đại biểu đến Điện Biên Phủ để bàn cách chở cụ thể, ngày 13/5 phía Pháp cử đoàn đại biểu do giáo sư Huard dẫn đầu đến Điện Biên Phủ, thương lượng với phía Việt Nam và đạt được thoả thuận như sau : “ Vì sân bay khó sửa chữa nên phía Pháp dùng máy bay trực thăng và máy bay vận tải cỡ nhỏ để chuyên chở tù binh bị thương. Trong thời gian này, phía Pháp bảo đảm ngừng hoạt động máy bay oanh tạc xung quanh Điện Biên Phủ 10 km và trên tuyến đường từ Điện Biên Phủ đi Tuần Giáo dọc quốc lộ số 41 đến Sơn La ”. Ngày hôm sau, thoả thuận được Bộ chỉ huy hai bên phê chuẩn có hiệu lực. Đợt đầu tiên tù binh bị thương nặng được chở về Hà Nội.
Phía Pháp lập tức phát hiện thoả thuận trên có lợi cho Việt Nam, phía Việt Nam có thể nhân cơ hội này vận chuyển số lớn vật tư đã thu được ra ngoài Điện Biên Phủ. Vì thế phía Pháp bác bỏ thoả thuận trước, ngày 16/5 đổi lại cử đoàn đại biểu do thiếu tá Jamis dẫn đầu đi Điện Biên Phủ đưa ra kiến nghị mới với phía Việt Nam, yêu cầu sửa chữa sân bay, để máy bay vận tải cỡ lớn vận chuyển thương binh, thay đổi điều khoản máy bay quân Pháp ngừng hoạt động bắn phá quốc lộ 41. Khi Việt Nam chưa trả lời, phía Pháp đã đơn phương ngừng chuyên chở thương binh nặng của họ và khôi phục hoạt động của máy bay trên tuyến quốc lộ 41. Phía Việt Nam lập tức vạch trần đầy đủ hành vi lật lọng đó của phía Pháp.
Vi Quốc Thanh tuân theo chỉ thị của Chu Ân Lai, trên đường từ Điện Biên Phủ trở về hậu phương, nhiều lần cùng phía Việt Nam nghiên cứu vấn đề thả tù binh bị thương, áp dụng một số biện pháp quan trọng và thuyết phục phía Việt Nam thả một số tù binh bị thương của quân nguỵ Việt Nam. Vi Quốc Thanh đã điện báo kịp thời cho Chu Ân Lai những biện pháp của phía Việt Nam thả tù binh bị thương, tình hình tiến triển thả tù binh hằng ngày và cả tài liệu Bộ Tổng tham mưu quân đội Việt Nam vạch trần phía Pháp phá hoại thoả thuận chuyên chở tù binh bị thương, từ đó làm cho đoàn đại biểu Việt Nam có sự thực xác đáng vạch trần mạnh mẽ âm mưu của phía Pháp lấy vấn đề tù binh bị thương làm cái cớ để phá hoại đàm phán hoà bình Genève.

Trải qua hơn hai tháng đấu tranh đàm phán, cuối cùng ngày 20/7, hội nghị Genève đạt được Hiệp định lập lại hoà bình ở Đông Dương. Hiệp định quy định : “ Các bên có liên quan ở Việt Nam, Lào, Campuchia chấm dứt hành động thù địch, thực hiện ngừng bắn trên toàn cõi Đông Dương, chính phủ Pháp sẽ tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, Lào, Campuchia, rút quân đội của mình ra khỏi Đông Dương, lấy vĩ tuyến 170 Bắc làm giới tuyến quân sự tạm thời, lực lượng vũ trang Việt Nam tập kết ở phía bắc giới tuyến quân đội Pháp tập kết ở phía nam giới tuyến ”.

Ngày 22/7, hai bên Việt – Pháp ra lệnh ngừng bắn. Cuộc chiến tranh chống Pháp của Việt Nam trải qua hơn 8 năm kết thúc thắng lợi, hoà bình được lập lại ở Đông Dương. Đến đây, nhiệm vụ của Vi Quốc Thanh lãnh đạo đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc giúp Việt Nam đấu tranh chống Pháp hoàn thành thắng lợi.

Trong thời gian công tác ở Việt Nam, Vi Quốc Thanh được Chủ tịch Hồ Chí Minh quan tâm nhiệt tình và tín nhiệm rất lớn. Một số kiến nghị trọng đại của đồng chí liên quan đến tác chiến và xây dựng quân đội Việt Nam đều do Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì hội nghị. Bộ Chính trị Trung ương Đảng Lao động Việt Nam thảo luận quyết định. Sau đó Tổng Quân uỷ và cơ quan Bộ Tổng Tham mưu tổ chức thực hiện. Hồ Chí Minh nhiều lần đến nơi ở của Đoàn cố vấn thăm Vi Quốc Thanh và các cố vấn, thăm hỏi ân cần, quan tâm hết mực, có lúc còn mời Vi Quốc Thanh và Mai Gia Sinh, Đặng Dật Phàm cùng đến chỗ ở của Người ăn cơm, luận bàn chiến sự, kể chuyện gia đình, tự do thoải mái giãi bày tâm sự. Hồ Chí Minh còn tặng thơ cho Vi Quốc Thanh. Đó là một ngày sau chiến dịch Biên Giới, Hồ Chí Minh bất ngờ đến thăm đoàn cố vấn, gặp lúc Vi Quốc Thanh không có nhà. Ngày hôm sau, Hồ Chí Minh cho người đưa đến cho Vi Quốc Thanh một bài thơ chữ Hán
Bách lý tầm quân vi ngộ quân,
Mã đề đạp toái lĩnh đầu vân.
Quy lai ngẫu quá sơn mai thụ,
Mỗi đoá hoàng hoa nhất điểm xuân.
(Trăm dặm tìm bạn nhưng không gặp,vó ngựa dẫm nát mây đỉnh núi.Quay về tình cờ gặp cây mai rừng,mỗi đoá hoa vàng một điểm xuân)
Bày tỏ tình nghĩa sâu nặng của Người đối với Vi Quốc Thanh – cũng là đối với nhân dân Trung Quốc. Khi Vi Quốc Thanh hoàn thành nhiệm vụ giúp Việt Nam sắp về nước, Hồ Chí Minh và mấy vị thành viên Bộ Chính trị Trung ương Đảng Lao động Việt Nam : Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp và Nguyễn Chí Thanh chiêu đãi Vi Quốc Thanh tại phủ Chủ tịch Hà Nội. Trước đó phía Việt Nam đã gửi giấy mời Vi Quốc Thanh và thư ký Vương Chấn Hoa. Tối hôm đó Vi Quốc Thanh dẫn thư ký đến dự tiệc. Trong phủ Chủ tịch ánh đèn sáng choang. Khi Vi Quốc Thanh đến, Hồ Chí Minh và từng người ôm hôn đồng chí. Ngồi ở phòng khách rộng rãi sáng sủa một lát, rồi chủ khách 7 người đi vào phòng tiệc ngồi vây quanh chiếc bàn hình chữ nhật.
Hồ Chí Minh ngồi chính giữa phía chiều dài, bên phải là Vi Quốc Thanh, bên trái là Tổng Bí thư Trường Chinh. Buổi tiệc bắt đầu, Hồ Chí Minh chúc mấy câu ngắn gọn bằng tiếng Việt, ngỏ ý thư ký phiên dịch. Thư ký dịch được mấy câu thì ấp úng. Vi Quốc Thanh vội đỡ lời nói : “ Phiên dịch Hầu Hàn Giang đã về nước. Người thư ký này học được ít tiếng Việt, khó hoàn thành nhiệm vụ này lắm ! ” Hồ Chí Minh nghe xong cười nói : “ À ! Chẳng sao, tôi sẽ nói tiếng Hán vậy, lát nữa khi đồng chí nói chuyện với Trường Chinh, Nguyễn Chí Thanh, tôi làm phiên dịch ! ” Trong 5 thành viên phía Việt Nam, Hồ, Phạm, Võ đều biết chữ Hán và nói được tiếng Trung Quốc, Trường Chinh chỉ biết chữ Hán, không biết nói tiếng Trung Quốc, Nguyễn Chí Thanh biết chút ít chữ Hán cũng không nói được tiếng Trung Quốc. Vì thế sau lời chúc Hồ Chí Minh đích thân làm phiên dịch.
Mọi người và Vi Quốc Thanh trò chuyện chân tình nồng nhiệt, thể hiện tình hữu nghị chiến đấu lưu luyến bịn rịn. 34 năm sau, tức tháng 9 năm 1990, khi Bắc Kinh tổ chức Á vận hội, Võ Nguyên Giáp nhận lời mời đến Bắc Kinh khai mạc. Lúc này Vi Quốc Thanh đã qua đời hơn một năm. Võ Nguyên Giáp có nhã ý gặp thăm Hứa Kỳ Thanh, phu nhân của Vi Quốc Thanh, và con gái Vi Tiểu Nhạn. Khi Hứa Kỳ Thanh mời Võ Nguyên Giáp nói đôi lời về Vi Quốc Thanh, đồng chí trầm tư một lát rồi đánh giá như sau : “ Đồng chí Vi Quốc Thanh là con người kiên định. Thời kỳ tôi cùng làm việc với đồng chí là thời kỳ hoàng kim trong lịch sử của tôi. Chúng tôi sống với nhau trong những ngày Việt Nam gian khổ nhất. Đồng chí rất kiên định. Khi đồng chí nói sắp rời Việt Nam, chúng tôi cùng nhìn lại công tác mấy năm qua, quan hệ giữa chúng tôi rất tốt. Đồng chí tặng tôi một bức hoành xinh đẹp “ Gió đông đón khải hoàn ” vẫn treo trong phòng làm việc của tôi, người bạn tri kỷ nhất của tôi là đồng chí Vi Quốc Thanh ”.
Công tác của đồng chí Vi Quốc Thanh dẫn đầu Đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc tại Việt Nam và những đóng góp của đồng chí cho cuộc chiến tranh chống Pháp của Việt Nam là một trang vẻ vang trong lịch sử Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc. Tình hữu nghị chiến đấu gắn bó giữa nhân dân và quân đội hai nước Trung – Việt sẽ trường tồn trong lịch sử hai nước Trung – Việt, nhân dân hai nước mãi mãi không bao giờ quên.

Vu Hoá Thầm
(đăng trong Thượng tướng phong vân lục
nhà xuất bản Đại Bách Khoa toàn thư xuất bản năm 2000.
Khi đưa vào tập sách này có sửa chữa đôi chữ cá biệt ;
tác giả là Vương Chấn Hoa, bút danh là Vu Hóa Thầm)

----------------------------------------------------------------

1 Légion Etrangère (chú thích của Diễn Đàn)
2 Đúng hơn, đó là những binh đoàn Âu-Phi, gồm thiểu số là bính lính Pháp, đa số là người Bắc Phi (Ả rập, Kabyle) và Tây Phi (da đen).
3 Xem hồi kí của La Quý Ba
4 Đây bắt đầu quá trình Mao hoá Quân đội Nhân dân, gạt bỏ các thành phần “không cơ bản”. Trong một hồi ký, Võ Nguyên Giáp kể lại rằng trong các lớp huấn luyện, cố vấn Trung Quốc thấy cán bộ Việt Nam ghi chép rất nhanh, bèn kết luận đây là nhừng phần tử “phức tạp”…
5 Theo những thông tin của chúng tôi, lần này Stalin không tiếp Hồ Chí Minh, một cách để làm sức ép. Trong một bức thiệp gửi Stalin, chủ tịch Hồ Chí Minh tỏ ý tiếc không được gặp Stalin và hứa sẽ tiến hành cải cách ruộng đất.
6 Nội dung cuộc trao đổi này thực ra là nội dung cuộc găp Stalin – Hồ Chí Minh tháng 2.1950 (xem hồi kí của Khrushev và Võ Nguyên Giáp). Cách trình bày của tác giả hàm ý giảm nhẹ trách nhiệm của Trung Quốc trong cuộc cải cách ruông đất.
7 Dịch giả Dương Danh Dy phiên âm từ Trung văn. Có lẽ là Tou Samouth, chủ tịch Mặt trận Issarak Thống nhất, bị chính quyền Sihanouk ám sát năm 1962 (cũng có nguồn tin cho rằng Pol Pot cũng nhúng tay vào cái chết của lãnh tụ Tou Samouth).
8 Sự thực đến cuối trận đánh, De Castries mới được phong thiếu tướng.
9 Ở đây, tác giả hoàn toàn viết sai sự thật. Quyết định thay đổi cách đánh là của đại tướng Võ Nguyên Giáp ngày 25.1.1954 (“quyết định khó nhất đời tôi”), giờ chót có sự ủng hộ của Vi Quốc Thanh. Bộ chính trị ĐCSVN ở xa, mấy ngày sau mới được báo cáo và tán thành. Năm 2004, trong dịp kỉ niệm 50 năm chiến thắng Điện Biên Phủ, phía Trung Quốc có rò rỉ tin đồn là quyết định ấy dã được chính Mao Trạch Đông chuẩn y cho Vi Quốc Thanh. Nhưng cuối cùng, tại cuộc hội thảo ở Bắc Kinh, họ đã phải thừa nhận là bức điện này, ngày 27.1, Vi Quốc Thanh mới nhận được (bài viết này cũng thừa nhận ngày 27.1, nhưng trước đó lại trình bày lươn lẹo0. Có thể tham khảo tường trình về cuộc tranh luận này của nhà sử học Pháp Pierre Journoud Paris, Ha Noi, Pekin
10 Trung tá Charles Piroth (1906-1954) đã tham gia chiến đấu chống Đức. Ba lần sang Việt Nam trong hàng ngũ quân đội thực dân. Lần đầu, trong một trận đánh ở Thủ Dầu Một (tháng 12-1946) bị thương, phải cưa cụt cánh tay trái (không gây mê). Trước khi trận Điên Biên Phủ bắt đầu, Piroth cam đoan sẽ dập tắt ‘đại bác của Giáp’ ngay từ giờ đầu (điều này chắc sẽ xảy ra nếu Võ Nguyên Giáp không sáng suốt và dũng cảm thay đổi phương châm tiến công ngày 25.1.1954). Ngày 15.3, sau hai đêm và một ngày, pháo binh của Piroth hoàn toàn bất lực trước hoả lực của QĐND, không làm sao bảo vệ được các cứ điểm Him Lam và Độc Lập. Trung tá Piroth đi một vòng xin lỗi chiến hữu (C’est ma faute !), trở về boong-ke, rút chốt lựu đạn đeo trước ngực. Bộ chỉ huy của đại tá Christian de Castries giấu nhẹm tin Piroth tự tử vói binh sĩ ở Điện Biên Phủ, chôn cất Piroth ngay trong hầm. Nhưng báo chí Pháp được tin (do một nguồn tin “ẩn danh” báo qua vô tuyến) và khi báo Pháp được thả dù tiếp tế xuống Điện Biên Phủ, tin này đã lan ra các đơn vị “quân dội Liên Hiệp Pháp”, tác động như một tiếng sét giáng vào tinh thần binh sĩ.

----------------------------------------------

Vu Hoá Thầm là bút danh của Vương Chấn Hoa, thư kí của Vi Quốc Thanh. Bài này, do đó, là cách viết lại lịch sử từ quan điểm của trưởng đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc. Đầy là phần 3 của tập hồi ký GHI CHẾP THỰC VỀ VIỆC ĐOÀN CỐ VẤN QUÂN SỰ TRUNG QUỐC VIỆN TRỢ VIỆT NAM CHỐNG PHÁP (nxb Lịch sử Đảng Cộng sản Trung Quốc, Bắc Kinh, 2002, do Dương Danh Dy dịch và hiệu đính). Đã xuất bản trên Diễn Đàn :
(*) Phần (1) : hồi kí của
La Quý Ba
(*) Phần (2) : Quyết sách trọng đại....


No comments: