Sunday, March 22, 2009

CHÍNH TRỊ TÀU CHIẾN HAY BINH PHÁP TÔN TỬ

Chính trị tàu chiến hay là Binh pháp Tôn Tử

Lê Phan
Thursday, March 19, 2009

http://www.nguoi-viet.com/absolutenm/anmviewer.asp?a=92347&z=97

“Gunboat diplomacy” tức chính trị tàu chiến là một danh từ đã được gán cho chính sách ngoại giao của Lord Palmerston, bộ trưởng ngoại giao, khi đế quốc Anh của Nữ Hoàng Victoria đang chế ngự thế giới. Tôn Tử Binh Pháp là tác phẩm nổi tiếng của chiến lược gia thời Xuân Thu Chiến Quốc. Sách lược của Tôn Tử cho đến ngày nay vẫn còn được các quân đội trên thế giới nghiên cứu học hỏi, song song với cuốn sách nổi tiếng của Clausewitz. Trong các bài bình luận nhân vụ đụng độ giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc tại biển Ðông, nhiều nhà bình luận đã viện đến những chiến lược này để giải thích tình hình.

Lord Palmerston là bộ trưởng ngoại giao và thủ tướng Anh trong thế kỷ thứ 19 khi đế quốc Anh đang ở giai đoạn hùng mạnh nhất. Là một nhà hùng biện nổi tiếng, Lord Palmerston đã có những lời nhận xét về ngoại giao mà cho đến nay vẫn thường được nhắc đến. Một trong những câu nói nổi tiếng nhất của ông, một lời cố vấn ông đưa ra khi Nữ Hoàng Victoria hỏi ông là “Anh Quốc có bạn không?” Ông đã trả lời nữ hoàng là “Anh Quốc không có bạn vĩnh viễn chỉ có quyền lợi vĩnh viễn”. Ngày nay, câu này đã nhiều lần được nhắc tới khi quyền lợi vi phạm những nguyên tắc hay hứa hẹn của một cường quốc. Ðã có nhiều người Việt quốc gia ngậm ngùi nghĩ rằng “Hoa Kỳ không có bạn vĩnh viễn mà chỉ có quyền lợi vĩnh viễn”.

Lord Palmerston, trong nhiều lần làm ngoại trưởng dưới nhiều chính phủ Tự do, đã đưa ra một chính sách ngoại giao dựa trên sức mạnh của Hải quân Anh trong giai đoạn mà “Britania” chế ngự biển cả. Ngày nay, trong chính trị quốc tế, Gunboat diplomacy được dùng để chỉ việc theo đuổi mục tiêu của chính sách ngoại giao với sự trợ giúp của một sự phô trương vũ lực quân sự áp đảo, nhiều khi ngầm ý, nhưng cũng có khi là một đe dọa chiến tranh nếu mục tiêu không đạt được bằng cách khác.

Nhưng đối với Lord Palmerston chính sách này quả thật là chính sách “ngoại giao tàu chiến”, bởi đây là thời đại mà gunboat là sức mạnh lớn nhất của khả năng quân sự, chẳng khác gì vũ khí hạch nhân của thời nay cả. Nổi tiếng nhất trong các vụ mà Lord Palmerston đã dùng đến gunboat là vụ Don Pacifico hồi năm 1850. Lord Palmerston đã gửi một tiểu hạm đội của hải quân Hoàng gia đến bao vây và phong tỏa hải cảng Piraeus của Hy Lạp để phản đối việc chính phủ Hoàng gia Hy Lạp đã gây thiệt hại cho một thần dân Anh gốc Do Thái cũng như việc chính phủ của Quốc Vương Otto không chịu bồi thường cho ông Pacifico. Trước sự phô trương lực lượng của Anh, chính phủ Hy Lạp đành chịu thua và kể từ đó Gunboat Diplomacy ra đời.

Ở một khía cạnh nào đó, hành động của Hoa Kỳ và Trung Quốc ở Biển Ðông cũng là một hình thức Gunboat Diplomacy. Khi Bắc Kinh gửi năm chiếc tàu đến bao vây và sách nhiễu chiếc tàu không vũ trang USNS Impeccable của hải quân Hoa Kỳ, Bắc Kinh cũng muốn nhắn gửi là vùng đặc quyền khai thác kinh tế (Exclusive Economic Zone-EEZ) mà họ nhận là của họ là bất khả xâm phạm kể cả với Hải Quân Hoa Kỳ. Và khi Tổng Thống Barack Obama cho gửi Khu Trục Hạm USS Chung-Hoon, vũ trang hỏa lôi và hỏa tiễn đạn đạo, thì đây cũng là một hình thức cảnh cáo Trung Quốc là Hoa Kỳ không chấp nhận lý lẽ của Bắc Kinh. Rồi khi Bắc Kinh gửi lại chiếc Ngư Chính 311, một loại tàu mà Bắc Kinh nói là để “tuần tra ngư trường” đến vùng biển này thì lại là một hình thức tái xác định những gì họ đã làm và tiếp tục từ chối quyền hoạt động của hải quân Hoa Kỳ trong vùng EEZ của họ.

Nhưng một chiến lược gia Hoa Kỳ, Hải Quân Trung Tá James Kraska, giáo sư về luật Quốc Tế tại Học Viện Hải Quân Hoa Kỳ, thì lại nói là điều Trung Quốc đang làm không phải là theo Gunboat Diplomacy mà là theo sách lược của Tôn Tử. Ông Kraska trích dẫn Thiên Mưu công của Tôn tử Binh pháp viết “Không cần đánh mà làm kẻ địch khuất phục mới gọi là sáng suốt nhất trong sự sáng suốt. Cho nên thượng sách trong việc dùng binh là lấy mưu lược để thắng địch, kế đó là thắng địch bằng ngoại giao, kế nữa là dùng binh thắng địch, hạ sách là tấn công thành trì.” Và theo ông, chiến lược của Bắc Kinh chính là muốn áp dụng sách lược nào vào việc chế ngự Biển Ðông.

Mặc dầu khả năng của hải quân Trung Quốc trên biển cả vẫn còn rất yếu tuy đang ngày càng mạnh lên, Bắc Kinh đã cố tình và thận trọng đưa ra một biện luận luật pháp để khiến cho sự hiện diện tiền phương của Hải quân Hoa Kỳ trong vùng mất chính nghĩa. Hành động nguy hiểm và táo bạo của năm tàu Trung Quốc nhằm phá hoại một sứ vụ thăm dò 75 hải lý cách bờ biển đảo Hải Nam là một thí dụ điển hình cho sách lược này. Vụ mà họ cố tình tạo ra này đã đưa ra một diễn dịch khác thường nhưng rất hữu hiệu về Luật Biển.

Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển, hiến chương về biển, công nhận quyền hoạt động quân sự rất rõ và giới hạn vào khu vực hải phận thật sự là 12 hải lý. Trong khu vực này, phi cơ ngoại quốc không có quyền bay qua nếu không được sự chấp thuận của nước chủ nhà, nhưng tàu bè ngoại quốc có quyền đi qua trong điều kiện “innocent passage” (tức là hành vi của họ không làm hại đến an ninh hay trật tự của quốc gia chủ nhà). Công ước cũng công nhận vùng đặc quyền EEZ đến 200 hải lý. Theo công ước, các quốc gia khác, không ký kết công ước, có quyền đi lại và bay qua cũng như đặt cáp ngầm, đường ống, và các “sử dụng theo luật biển liên quan đến các quyền tự do này.” Bắc Kinh nay muốn đổi căn bản của Luật Biển trong một diễn dịch rất dễ đưa đến chiến tranh.

Qua việc đánh lận con đen, đem luật áp dụng cho hải phận vào vùng EEZ, Bắc Kinh, và một số quốc gia khác, nhưng chỉ có Bắc Kinh, dám tìm cách áp đặt diễn dịch này ngay với cả hải quân Hoa Kỳ. Dựa trên điều 58 của luật Biển cho phép quyền tự do trên biển cả trong vùng EEZ, được chi tiết hóa ở điều 86-115. Như vậy có nghĩa là cộng đồng quốc tế có quyền hoạt động trong các EEZ như biển cả khi mà những hoạt động này không can thiệp vào các quyền lợi kinh tế và tài nguyên của các quốc gia duyên hải. Bắc Kinh lý luận là vì điều 88 bảo đảm biển cả “cho mục tiêu hòa bình” và điều 58 áp dụng cho EEZ, thành ra họ bảo là trong vùng EEZ của họ, quốc tế phải bảo đảm là hoạt động “hòa bình.” Nhưng hòa bình theo Hiến Chương Liên Hiệp Quốc ấn định là “tự chế không dùng đe dọa hay sử dụng vũ lực”, còn hòa bình theo Bắc Kinh có nghĩa là không được cả đến dọ thám hay nghiên cứu.

Hơn thế, Bắc Kinh còn đặt một vùng EEZ trong biển Ðông từ các hòn đảo, bãi đá ngầm của hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Theo luật Biển, các hòn đảo không thể có người ở không có quyền có vùng EEZ, và các bãi đá ngầm không được có cả đến hải phận 12 hải lý. Nhưng Bắc Kinh đã vẽ một vùng EEZ dựa trên các hòn đảo, bãi đá ngầm của hai quần đảo hiện đang tranh chấp chủ quyền này bao gồm đến 80% biển Ðông. Cái “lưỡi bò” này đang đe dọa vùng biển vốn là một hải lộ lớn của thế giới và là con đường dầu thô từ Trung Ðông sang Nhật Bản và các quốc gia Bắc Á.

Và đó chính là lý do tại sao Hoa Kỳ không thể chấp nhận lý luận của Bắc Kinh, nhường bước rút tàu Impeccable trở về không tiếp tục dọ thám đáy biển Ðông nữa. Bởi nếu chấp nhận điều đó là chấp nhận sự thay đổi luật chơi của Bắc Kinh và Bắc Kinh đã thành công trong việc “bất chiến tự nhiên thành”. Nếu cần thì Gunboat Diplomacy của Hoa Kỳ phải thắng Tôn Tử Binh pháp của Bắc Kinh.

Lê Phan

No comments: