Posted on Oct 3, 2016
Viet Thanh Nguyen là nhà văn người Mỹ gốc Việt đầu
tiên đoạt giải Pulitzer cho cuốn tiểu thuyết đầu tay của anh, The Sympathizer, năm nay. Thành tựu của anh là một niềm hân hoan và nỗi
xúc động cho cộng đồng văn chương người Mỹ gốc Việt vì từ hơn hai mươi năm nay
anh đã làm việc hăng hái và tích cực với các nhà văn và nghệ sĩ khác để thúc đẩy
văn học, nghệ thuật tạo hình và văn hóa Việt Nam.
Ở đây, Nguyen tham gia cùng Andrew Lam (tác giả cuốn East Eats West: Writing in Two Hemispheres and Birds of
Paradise Lost) và Aimee Phan (tác giả cuốn We Should Never Meet và The
Reeducation of Cherry Truong) để thảo luận về việc viết văn, cảm hứng của họ,
về cộng đồng văn chương Việt Nam hải ngoại, và về tương lai của văn chương người
Mỹ gốc Việt. Cuộc phỏng vấn này được xuất bản lần đầu tại trang World Literature Today.
For the original article in English, click here.
Viet Thanh Nguyen
(photo by Bebe Jacobs), Andrew Lam, and Aimee Phan (photo by Julie Thi
Underhill), respectively.
Aimee
Phan: Mặc dù cuốn sách đầu tiên của Viet với tư cách là
người viết tiểu thuyết xuất bản năm ngoái, cả ba chúng ta đều đã viết và tham
gia hoạt động trong cộng đồng văn chương Việt Nam hải ngoại từ nhiều năm nay.
Các anh có thể chia sẻ về lần đầu tiên các anh nhận ra rằng mình muốn sáng tác?
Nỗ lực viết truyện đầu tiên của các anh là về chủ đề gì? Các anh có cuốn tiểu
thuyết đầu tay nào thất bại không? Việc viết văn của các anh đã phát triển như
thế nào?
Andrew
Lam: Tôi bắt đầu viết sau đại học, vào cùng khoảng thời
gian máy tính Apple Mac được chế tạo. Tôi mua máy tính đầu tiên của mình vào
năm cuối ở đại học California. Đó là thời điểm mà tôi, mặc dù đang học khoa dự
bị y khoa và hóa sinh, mơ mộng trở thành nhà văn. Nỗ lực viết văn đầu tiên của
tôi là về một chuyện tình không thành, dựa trên cuộc tình của chính tôi. Khi
đang làm việc ở phòng thí nghiệm nghiên cứu ung thư, tôi bắt đầu viết—Tôi cần
hiểu được ý nghĩa của những điều đã xảy ra. Ban ngày tôi dồn dập tấn công chuột
thí nghiệm với chất gây ung thư và theo dõi sự phát triển của ung thư, và ban
đêm tôi thả mình vào nỗi buồn. Tôi viết. Nhưng rồi tôi sớm nhận ra rằng nếu
trái tim một người vẫn đang đau khổ, anh ta không thể tạo dựng một cốt truyện
trọn vẹn cho câu chuyện về một cuộc tình tan vỡ. Nên tôi dừng truyện đó và viết
về tuổi thơ của tôi ở Việt Nam và về cuộc chiến tranh, và về ký ức làm một người
tị nạn của tôi. Về sau tôi viết khá hơn và chán khoa học, nên tôi quyết định
theo học một chương trình thạc sĩ mỹ thuật MFA. Tôi viết truyện ngắn, chủ yếu
là bởi vì chúng phù hợp với tính khí của tôi. Và, vâng, tôi có một cuốn tiểu
thuyết thất bại đang nằm đâu đó trong một đĩa mềm mà đã hơn hai thập kỷ rồi tôi
không ngó ngàng tới (tôi cũng không biết giờ cái đĩa mềm đời cổ đó còn đọc được
không?), nhưng tôi hiện đang viết một cuốn tiểu thuyết mới.
Là một nhà báo, chủ đề của tôi dao động từ các mối
quan tâm về môi trường đến quyền của người di cư, từ các khám phá khoa học đến
những thay đổi trong hành vi con người với sự ra đời của công nghệ thông tin
liên lạc, từ cuộc khủng hoảng tị nạn đang diễn ra đến không khí chính trị hiện
tại ở Hoa Kỳ—tức là tôi viết về mọi thứ. Tuy vậy, việc viết văn của tôi, như là
trong cuốn Birds of Paradise Lost, tập trung chủ yếu vào câu chuyện
của người di cư, người tị nạn đã vượt qua mọi thể loại biên giới—cả biên giới
trên đất, cát hay biên giới trong tâm trí họ—và nỗ lực của anh hay chị ta trong
việc làm mới bản thân. Điều này từ trước đến giờ vẫn không thay đổi, nhưng thời
gian đã giúp tôi hiểu sâu sắc hơn về bản thân, về bản sắc của tôi trong mối
quan hệ với người khác, và có thể cả về bản chất của những nỗi đau khổ của tôi
và việc điều này tiếp tục tác động đến tôi thế nào khi tôi viết.
Viet
Thanh Nguyen: Tôi thì lúc viết lúc không, phần nhiều là không, từ
khi tôi học lớp hai. Tôi viết truyện ngắn đầu tiên khi đang học trung học, và tất
cả những gì tôi nhớ về truyện này là lời bình luận của giáo viên về “lời văn
màu tím” của tôi. Tôi trở nên nghiêm túc hơn ở bậc đại học khi tôi theo học
sêmina về phi hư cấu sáng tạo của Maxine Hong Kingston ở đại học Berkeley.
Nhưng ở thời điểm tôi tốt nghiệp, tôi biết rằng tôi làm nghiên cứu khá hơn là
viết văn sáng tạo, do đó tôi tiếp tục làm tiến sĩ và viết truyện hư cấu trong
thời gian rảnh. Tôi viết truyện ngắn vì tôi nghĩ chúng dễ viết hơn và tôi có thể
hoàn thành chúng trong những khoảng thời gian tôi có. Nhưng hóa ra truyện ngắn
khá khó viết, và tôi dành một hai thập kỷ để viết chúng, với sự chú tâm thực sự
sau khi tôi được bổ nhiệm làm giáo sư. Thời gian sau khi được bổ nhiệm đó, khi
tôi tập trung viết truyện ngắn (trong khi vẫn làm nghiên cứu khoa học), rất là
khó khăn và đã rèn luyện cách viết, tính kiên trì và chịu đựng của tôi. Đó là một
sự chuẩn bị tuyệt vời cho việc viết tiểu thuyết.
Các truyện ngắn đó có nội dung về người tị nạn Việt Nam,
những người họ bỏ lại phía sau hay từng gặp gỡ. Khi viết tiểu thuyết, tôi cảm
thấy tôi không cần phải tiếp tục chủ đề đó. Hơn nữa, nhiều nhà văn đã xuất bản
sách về họ, như Andrew và Aimee. Nên trong cuốn tiểu thuyết tôi tập trung vào
chính cuộc chiến và hậu quả của nó. Lối viết cuốn tiểu thuyết hoàn toàn khác với
các truyện ngắn, vốn chủ yếu theo mạch chủ nghĩa hiện thực chuẩn mực. Tôi nghĩ
tôi có thể làm điều gì đó hoàn toàn khác biệt vì thể loại này bao quát hơn và tự
nhiên hơn, và vì tôi đã viết theo kiểu hiện thực và không thực sự hài lòng với
nó.
Aimee
Phan: Cách suy nghĩ và mối quan hệ của các anh với văn
chương và sáng tác đã thay đổi như thế nào? Các anh nhìn nhận ra sao về văn
chương Việt Nam ngày nay so với hai mươi năm về trước khi chúng ta chỉ có vài
nhà văn có tác phẩm xuất bản? Và các anh thấy vị trí của văn chương Việt Nam hải
ngoại như thế nào trong nền văn học thế giới đương đại?
Andrew
Lam: Khi tôi mới bắt đầu viết, chỉ có vài người có vẻ
ngoài giống tôi và có xuất xứ tương tự như tôi trong ngành. Thật sự, chỉ có một
hay hai nhà báo người Mỹ gốc Việt—chỉ vậy thôi. Khi tôi bắt đầu xuất bản,
tôi nhớ rằng tôi đã cảm nhận cả nỗi vui mừng lẫn sự sợ hãi: tất cả những người
trong cộng đồng đều muốn tôi kể câu chuyện của họ, nỗi buồn và nỗi thống khổ của
họ, trong đó có cả các thành viên trong gia đình tôi nữa. Điều này đôi khi khó
mà cưỡng lại được: “Sao con không viết điều này . . .” mẹ tôi vận động tôi.
“Sao con lại nói thế; điều đó không đúng,” bác tôi sẽ nhận xét thế. Khi đó tiếng
nói của tôi khá là đơn độc, và cộng đồng, vốn từ rất lâu vô hình và bị gạt bên
lề, đã muốn tôi trở thành người phát ngôn cho họ, và điều này khiến tôi không
thoải mái lắm. Bây giờ, tất nhiên, đã có cả một dàn đồng ca của nhiều tiếng
nói, và rất rất nhiều những góc nhìn và ý kiến tuyệt diệu về cùng một câu chuyện,
và điều này mang lại một công trình tập thể phong phú và mạnh mẽ.
Tôi nghĩ việc viết văn của mình đã thay đổi hoàn
toàn so với thời điểm khi tôi bắt đầu một phần tư thế kỷ về trước. Khi tôi mới
bắt đầu viết, tôi viết với một gánh nặng của ký ức, với lòng mong mỏi sâu sắc về
việc chia sẻ sự khó nhọc và nỗ lực của người Việt Nam sau cuộc chiến, cả ở Việt
Nam và hải ngoại. Theo một nghĩa nào đó tôi vừa đóng vai một người cổ vũ vừa
đóng vai một nhà văn. Tôi nghĩ một số yếu tố của điều này có thể được thấy
trong cuốn Perfume Dreams: Reflections on the Vietnamese Diaspora.
Nhưng rồi trên chặng đường, tôi phải lòng với chính bản thân việc sáng tác, với
văn chương và sức mạnh của Anh ngữ. Theo một nghĩa nào đó, nhà hoạt động trong
tôi đã nhường chỗ cho một tiếng nói mang tính văn chương nhiều hơn, bình thản
hơn, sáng suốt hơn. Đặc biệt, trong sáng tác hư cấu, tôi thích sáng tạo các
nhân vật với ý chí tự do—có nghĩa là, tự định hướng, và làm những điều có thể
khiến tôi kinh hoàng hay vui mừng, nhưng chủ yếu là họ sống thực với bản thân họ
chứ không phải theo đuổi chương trình nghị sự chính trị của tôi. Đó là điều tôi
đã không làm được khi mới bắt đầu cuộc đời viết văn. Việt Nam, cộng đồng hải
ngoại, kinh nghiệm là một người tị nạn có thể vẫn ảnh hưởng nhiều lên chủ đề,
nhưng lối viết của tôi rõ ràng đã thay đổi từ năm 1990.
Viet
Thanh Nguyen: Trước khi viết cuốn The Sympathizer,
tôi chủ yếu tập trung vào việc cố gắng tìm hiểu cách viết truyện ngắn. Dĩ nhiên
là tôi quan tâm đến các câu hỏi về lịch sử, chính trị, và học thuyết, và tôi
không hài lòng với chính hình thức truyện ngắn. Nhưng tôi đã bắt đầu một dự án
viết các truyện ngắn và tôi muốn hoàn thành nó, có nghĩa là hoàn thành và xuất
bản một tập truyện ngắn. Vì vậy lịch sử, chính trị và học thuyết trở thành thứ
yếu cho đến khi tôi hiểu được cách viết thứ truyện ngắn chết tiệt ấy. Khi viết
tiểu thuyết, bỗng dưng sự vật lộn vất vả với hình thức được khắc phục. Viết tiểu
thuyết vẫn là một sự thử thách, nhưng không bất mãn sâu sắc như là truyện ngắn,
và bởi vì tôi không phải lo về hình thức, tự nhiên tôi đã có thể thấy phải viết
như thế nào về lịch sử, chính trị, và học thuyết.
Văn học Việt Nam hải ngoại đã phát triển trong cùng
giai đoạn phát triển của tôi, và hiện nay chúng ta thấy nhiều nhà văn trẻ hơn,
cũng như những nhà văn thuộc độ tuổi của chúng ta hoặc xấp xỉ, những người
không viết về chiến tranh. Bich Minh Nguyen, Vi Khi Nao, Phong Nguyen, Dao
Strom. Tất nhiên, một số người vẫn viết về chiến tranh và di sản của nó, nhưng
với những hình thức mới như tiểu thuyết đồ họa—GB Tran, Thi Bui—hoặc thể loại mới,
như Vu Tran và tiểu thuyết trinh thám, hoặc Dao và các thể loại hỗn hợp thử
nghiệm. Hoặc có những tác giả đang rất được ca ngợi, như Ocean Vuong trong thi
ca. Đây thực sự là một lĩnh vực đang phát triển, vừa gắn liền cũng như không gắn
liền với lịch sử của cuộc chiến. Nó không dự đoán trước được, và đó là một điều
tốt. Còn về vị trí của văn chương Việt Nam hải ngoại trên phạm vi toàn cầu, điều
này đã bắt đầu diễn ra với những nhà văn đã đạt một mức độ nào đó về danh tiếng
quốc tế, như Monique Truong. Tôi không chắc liệu chúng ta đã có một nhà văn Việt
Nam với tầm vóc quốc tế hay chưa, trong khi đó chúng ta đã có những nhà văn Ấn
độ hải ngoại nổi danh toàn cầu, chẳng hạn thế.
Aimee
Phan: Tôi đang suy nghĩ về chuyến thăm Việt Nam của
Barack Obama gần đây. Trong khi mối quan hệ giữa Việt Nam và Mỹ đang được
nhắc đến nhiều trên báo chí quốc tế, các nhà văn người Mỹ gốc Việt được yêu cầu
chia sẻ suy nghĩ của họ về các vấn đề mang tính lịch sử và chính trị. Đây là một
trách nhiệm mà cả hai anh đều đã không né tránh. Hai anh nghĩ sao về những gì
những nhà văn người Mỹ gốc Việt đương đại có thể giúp ảnh hưởng những câu chuyện
về mối quan hệ giữa hai nước.
Viet
Thanh Nguyen: Tôi mang chuyện này ra thảo luận trên trang tác giả
của tôi trên Facebook, nơi đa số những người theo dõi là người Việt Nam sống tại
Việt Nam. Tôi viết bằng tiếng Anh; các thảo luận/tranh luận diễn ra bằng tiếng
Anh và tiếng Việt. Những người này theo dõi trang của tôi vì tin tức về giải
thưởng Pulitzer, và đa số họ đều chưa có cơ hội đọc cuốn tiểu thuyết của tôi.
Tôi không biết họ trông đợi điều gì ở tôi, nhưng tôi sử dụng các bài viết của
tôi về các đề tài như 30 tháng Tư, hòa giải, chuyến thăm của Obama, và cuộc
tranh cãi quanh việc bổ nhiệm Bob Kerrey vào vị trí chủ tịch ban quản trị Đại học
Fullbright Việt Nam để phát biểu rõ ràng và gãy gọn về những gì tôi hi vọng là
những quan điểm phê phán chống lại mọi hình thức quyền lực. Còn về chuyến thăm
của Obama, tôi đã chỉ ra tính chất sân khấu của nó, bản chất tìm kiếm sự hài
lòng của nó, đối lập lại với các vấn đề hóc búa về bãi bỏ lệnh cấm bán vũ khí
và vận động tiến đến một liên minh với Việt Nam để giới hạn và kiềm chế Trung
Quốc. Một số người Việt Nam đồng ý; một số người khác tỏ ra sẵn sàng theo đuổi
mô hình tư bản và quyền lực của Mỹ.
Nhưng như Andrew đã chỉ ra, các nỗ lực trên mạng xã
hội hoặc trong các bài viết thỉnh thoảng được dịch ra tiếng Việt chỉ có thể ảnh
hưởng một lượng độc giả nhỏ. Chúng ta cần dịch toàn bộ các cuốn sách của chúng
ta để mang chúng tới các độc giả nói tiếng Việt ở Việt Nam. Cuốn The
Sympathizer hiện đang trong quá trình dịch, nhưng tôi chưa biết chất
lượng bản dịch sẽ như thế nào, hoặc liệu bản dịch có vượt qua được vòng kiểm
duyệt một cách bình an vô sự hay không. Tôi sẽ không cho phép cuốn tiểu thuyết
này xuất bản với nội dung bị cắt xén ở Việt Nam, nên nếu nó bị kiểm duyệt, tôi
sẽ phải xuất bản nó trên mạng. Có thể là với thông tin trên báo chí về giải
Pulitzer, độc giả sẽ thực sự muốn đọc nó ngay kể cả khi nó không được bán ở các
hiệu sách. Cuốn sách phi hư cấu của tôi, Nothing Ever Dies: Vietnam and
the Memory of War, cũng sẽ được dịch ra tiếng Việt, và cũng sẽ gặp phải các
vấn đề tương tự. Nhưng trong trường hợp này, nhà xuất bản đang đề cập đến việc
mời tôi đến Việt Nam. Có lẽ nếu điều đó xảy ra, nó có thể là một phần của tình
trạng lắng dịu mà Andrew nói tới về việc trao đổi văn chương với Việt Nam.
Andrew
Lam: Tôi đã bỏ phiếu cho Obama, đã viết về ông ta một
cách trìu mến, nhưng thẳng thắn mà nói tôi đã khá thất vọng về chuyến thăm của
ông tới Việt Nam. Tôi rất có ý thức về quyền lực mềm phi thường toát ra từ ông
khi ông ở Việt Nam—ông đã gặp và thu hút được cảm tình của hàng chục ngàn người
xếp hàng đợi ông trên phố và vẫy cờ Mỹ. Đây quả là một điều đáng ghi nhận.
Nhưng đối với tôi việc ông dường như thờ ơ với cuộc tranh đấu cho cải cách
chính trị thực sự ở Việt Nam, trong khi chỉ nói lấy được với công chúng về nhân
quyền, là một tổn thất. Bán vũ khí sát thương mà không đặt điều kiện cải cách về
nhân quyền chỉ khích lệ Hà Nội tiếp tục đàn áp các nhà bất đồng chính kiến và
những nhà hoạt động về nhân quyền mà không sợ quốc tế chỉ trích hoặc Mỹ quở
trách. Điều này cũng gửi một thông điệp đến các nhà vận động cải cách chính trị
rằng họ không thể hi vọng vào hỗ trợ từ Washington. Một xã hội dân sự đang phát
triển mà không có sự hỗ trợ của quốc tế và không được chú ý đến sẽ gặp nhiều
gian nan trong một nhà nước công an trị.
Các bài viết của tôi đã được dịch sang tiếng Việt và
xuất bản ở báo chí Việt Nam khi chính quyền xem chúng là những bài viết tích cực
về đất nước, nhưng hầu hết các chỉ trích của tôi vẫn nằm trong các bài viết bằng
tiếng Anh, với một số bài thỉnh thoảng được báo chí của người Việt ở Mỹ dịch ra
tiếng Việt. Nhiều người ở Việt Nam bây giờ có thể đọc được tiếng Anh và sử dụng
Facebook—những người kết bạn với tôi hiện nay thường là những người Việt trẻ,
có giáo dục ở Việt Nam, những người muốn đọc các bài viết quốc tế—và qua họ tôi
thấy các bài viết của tôi đang đóng một vai trò nhỏ trong các thảo luận và trao
đổi tư tưởng. Nhưng trừ phi các bài viết của chúng ta được dịch và được phép xuất
bản ở Việt Nam, thật khó mà hình dung làm cách nào chúng ta thực sự có thể trò
chuyện trực tiếp với những người ở Việt Nam.
Một mặt, tôi làm việc với một vài thành viên Quốc hội
Hoa Kỳ về các vấn đề nhân quyền và, ở phía sau hậu trường, với các tổ chức
tranh đấu chống lại nạn buôn người ở Việt Nam. Tôi sẽ rất muốn thấy một xã hội
dân sự phát triển đến mức một hội thảo với các nhà văn người Mỹ gốc Việt được
phép diễn ra tại một hội chợ sách ở Hà Nội. Nhưng ngày này dường như còn rất
xa.
Aimee
Phan: Những nhà văn người Mỹ gốc Việt nào chúng ta nên đọc
ngày nay?
Andrew
Lam: Tất cả. Nhưng tôi nghĩ chúng ta cần mở rộng câu hỏi
thành “ai là những nhà văn và nghệ sĩ và nhà làm phim người Việt chúng ta cần
theo dõi trên toàn thế giới?” Có nghĩa rằng, có điều gì mới và lý thú về cộng đồng
ở hải ngoại và biểu hiện nghệ thuật của họ? Có những người làm việc một mình
nhưng thành công tuyệt vời, họ không nằm trong tầm ngắm ra-đa của tập thể nhưng
đang tiến những bước dài. Có một nghệ sĩ tên là An-My Lê, các bức hình chụp
phong cảnh bị chiến tranh và các hình thức hoạt động quân sự khác biến đổi của
cô chất chứa đủ loại tầng lớp ý nghĩa. Cô đã từng đoạt học bổng MacArthur. Binh
Danh là một nghệ sĩ khác, các tác phẩm của anh được trưng bày tại de Young và
Corcoran và nhiều bảo tàng khác ở Mỹ. Các bản in những tấm hình chiến tranh
trên lá của anh thật là ngoạn mục. Có các nghệ sĩ vẽ tranh biếm họa và nhà
làm phim tài liệu như Dustin Nguyen, người làm việc cho DC Comics, và Marcelino
Truong ở Paris, tập tranh biếm họa Such a Lovely Little War, của
anh mới được dịch gần đây. Duc Nguyen là một nhà làm phim đã từng đoạt một số
giải Emmy California cho bộ phim Bolinao 52 về những thuyền
nhân đã phải ăn thịt đồng loại để sống sót. Và nhà làm phim người Việt gốc Hoa
James Chan mới làm một bộ phim tài liệu về phố Trung Hoa, tức là không phải chủ
đề nào cũng phải là về chiến tranh hoặc ký ức chiến tranh. Và rồi có những người
trở về Việt Nam để gây dựng nên một cộng đồng sôi nổi của tập thể các nghệ sĩ ở
đó, với sự hỗ trợ của nghệ sĩ nổi danh toàn cầu Dinh Q. Lê, người có các tác phẩm
được trưng bày tại bảo tàng MoMA ở thành phố New York và có triển lãm solo đầu
tiên tại chính bảo tàng Mori Art Museum ở Tokyo.
Cũng có các nghệ sĩ nhạc rap và nhà làm phim và các
nghệ sĩ tiên phong ở Việt Nam nữa. Chị có thấy rapper Suboi, người mới hai mươi
sáu tuổi, tại buổi họp mặt cộng đồng với Obama? Tôi mới xem các video trên YouTube
của cô. Cô thật xuất chúng. Theo một nghĩa nào đó, tôi ghen tị với các nước như
Đài Loan, Singapore và Nhật Bản, nơi các nghệ sĩ hải ngoại được rộng tay chào
đón tại quê nhà để trao đổi tư tưởng với các nghệ sĩ địa phương, và ngược lại.
Nhưng trường hợp chúng ta là một cộng đồng còn non trẻ. Một nhà nước cộng sản
như Việt Nam vẫn còn đề phòng “thế lực nước ngoài.” Các bạn tôi nói với tôi rằng
họ đọc Perfume Dreams qua bản in lậu bán trên hè phố. Nhưng
khi trời mưa, mực bị nhòe đi. Nghe vừa buồn, vừa nên thơ.
Mà chị biết điều mà tôi thực sự muốn thấy là gì
không? Một loại tập san văn chương/nghệ thuật đăng tải lại các sáng tác nghệ
thuật của cộng đồng hải ngoại, kiểu như 100 Flowers Blooming (Trăm Hoa
Đua Nở) cùng với các bài phê bình văn học, điểm sách và phỏng vấn tinh
tế được đăng kèm. Và hãy thêm cả vào đó một số bản dịch xuất sắc nữa. Điều
này là tương tự như những gì trang diacritics.org đang làm nhưng ở phạm vi rộng
lớn hơn nhiều. Nếu tôi là một nhà triệu phú, đó sẽ là một trong những dự án tôi
sẽ tài trợ.
Viet
Thanh Nguyen: Tôi đã nhắc đến họ ở phía trên. Tôi sẽ nhấn mạnh
thêm về một số người mà hiện nay chưa được biết đến nhiều, bởi vì họ đang làm
những điều rất sáng tạo hoặc khác lạ, hoặc bởi vì các tác phẩm của họ mới ra đời
hoặc đang trong quá trình xuất bản. Cuốn The Best We Could Do của
Thi Bui là một cuốn hồi ký đồ họa về việc nghệ sĩ này làm mẹ và suy ngẫm về cha
mẹ của cô, những người đã sống qua hàng thập kỷ chiến tranh và xáo trộn ở Việt
Nam và rồi trở thành “thuyền nhân.” Tôi thấy cuốn sách này dễ đọc (toàn là hình
ảnh!) nhưng đồng thời cũng thực sự khiến tôi đau khổ khi đọc nó. Bất kỳ ai có
cha mẹ bị tổn thương vì chiến tranh hoặc là một người tị nạn và không thể nói
chuyện được với họ và băn khoăn về câu chuyện của họ—hoặc thật ra bất kỳ ai
quan tâm đến những câu chuyện rất người—sẽ xúc động khi đọc cuốn này. Fish
in Exile của Vi Khi Nao là một cuốn tiểu thuyết rất lạ về hai người
vĩnh viễn mất những đứa con của họ trong một tai nạn thảm thương. Cuốn này chẳng
liên quan gì đến Việt Nam hoặc người Mỹ gốc Việt, và đa phần là về thần thoại
Hy Lạp, thảm kịch, và thử nghiệm văn chương. Thật khó quên và có lẽ cũng khó hiểu
nữa. Nói tóm lại, đó không phải là “văn chương sắc tộc.”The Adventures of
Joe Harper của Phong Nguyen cũng làm lung lay những khái niệm về văn
chương người Mỹ gốc Việt, nếu chúng ta định nghĩa nó như là những gì được viết
bởi người Mỹ gốc Việt. Cuốn này là câu chuyện về Joe Harper, một nhân vật phụ
trong tiểu thuyết The Adventures of Tom Sawyer (Những cuộc phiêu lưu của
Tom Sawyer), và tưởng tượng một thế giới nơi Tom Sawyer bỏ chạy để trở
thành một hải tặc và một kẻ giết người máu lạnh. Như Bich Minh Nguyen
trong Pioneer Girl, Phong khẳng định sự kế thừa từ văn chương Mỹ chứ
không phải văn chương Việt Nam.
Aimee
Phan: Tôi quan tâm đến ý tưởng mà Viet đưa ra về nhà văn
người Việt mang tầm vóc quốc tế—điều chưa xảy ra nhưng có vẻ như sẽ không thể
tránh khỏi. Tôi cũng chú tâm đến việc những nhà văn người Việt bắt đầu tham gia
hợp tác trong công việc sáng tác, như các nghệ sĩ tạo hình người Việt đã và
đang làm. Viêt Lê, một nghệ sĩ tạo hình và thành viên của DVAN (The Diasporic
Vietnamese Artists Network – Mạng lưới các Nghệ sĩ Việt Nam Hải ngoại), đã tổ
chức các cuộc trưng bày và phòng triển lãm đặc biệt dành cho những nghệ sĩ Đông
Nam Á, mang lại những cơ hội hợp tác tuyệt vời cho một tập thể đa dạng của các
nghệ sĩ tạo hình. Gần đây, một nhóm các nhà văn nữ người Mỹ gốc Việt, dưới cảm
hứng và sự lãnh đạo của nhà văn Dao Strom, đã bắt đầu hợp tác trong các dự án
có tên gọi She Who Has No Master(s) (Người Đàn bà Không có Chủ), với sứ mệnh kết
nối các nhà văn và nghệ sĩ nữ trên khắp thế giới. Tôi thực sự ngạc nhiên khi chứng
kiến bản thân mình đã được truyền cảm hứng như thế nào khi làm việc cùng với những
người phụ nữ mà tôi hằng ngưỡng mộ và dõi đọc trong nhiều năm qua—và sự hợp tác
này đã ảnh hưởng đến việc sáng tác của tôi theo nhiều hướng bất ngờ và mang lại
sức sống mới. Tôi biết nhiều nhà văn coi việc sáng tác là một việc làm đơn độc,
nên chắc không phải người nào cũng muốn hợp tác sáng tác. Cả hai anh đều rất
năng động trong cộng đồng người Mỹ gốc Việt và trong các cộng đồng văn chương
và nghệ sĩ khác. Các anh có tìm thấy cảm hứng từ các sáng tác của đồng nghiệp
và bạn bè? Các anh có bao giờ hợp tác sáng tác nghệ thuật với các nghệ sĩ hoặc
nhà văn Đông Nam Á khác chưa? Các anh có ý định hợp tác cùng các nhà văn và nghệ
sĩ Việt Nam khác trong các công việc sáng tác không? Các dự án trong tương lai
của các anh là gì?
Andrew
Lam: Tôi theo học viết văn sáng tạo tại San Francisco
State University năm 1989, và tôi đã học hỏi được rất nhiều. Nhưng tôi là người
Mỹ gốc Á duy nhất trong cả trường, ngoài một nghệ sĩ biếm họa người Mỹ gốc Hoa.
Ba mẹ tôi đã sốc khi tôi không theo ngành y. “Hãy nêu cho ba tên một người Việt
Nam có thể kiếm sống được bằng nghề viết văn,” ba tôi, người có bằng MBA, đã
nói thế. Tôi đã không nêu được một cái tên nào. Bây giờ điều này đã khác. Tôi
có thể nêu tên vài người. Nhưng về việc tham gia một tập thể sáng tác, tôi
không thuộc về một tập thể nào như vậy ở thời điểm này. Tuy vậy, khi viết các đề
tài phi hư cấu, tôi thường sáng tác theo yêu cầu hoặc viết tự do, và thường thường
tôi làm việc cùng với một nhà biên tập. Tại New America Media, nơi tôi làm biên
tập, tôi làm việc cùng các đồng nghiệp cho nhiều bài viết báo chí khác nhau.
Nhưng khi viết văn hư cấu, hỡi ôi, tôi chủ yếu sáng tác một mình. Còn về các
sáng tác sắp tới? Một tập truyện ngắn khác và một cuốn tiểu thuyết tôi đang vật
lộn để viết, về một người đàn ông trẻ tuổi trong nỗ lực kiếm tìm một nơi để gọi
là nhà trong một thế giới đầy biến động, chỉ riêng chủ đề này đã đáng công sức
bỏ ra để hoàn thành cuốn sách.
Viet
Thanh Nguyen: Tôi đã hoạt động tích cực trong các tổ chức chính
trị, nghệ thuật và văn chương từ khi tôi còn học đại học, và tôi luôn tin rằng
bản thân văn chương không tự nó có tác động lên các thay đổi xã hội. Văn chương
chỉ làm được điều này khi kết hợp cùng với các phong trào chính trị và văn hóa.
Đó là một lý do quan trọng thúc đẩy các hoạt động cổ vũ của tôi và các nỗ lực đầu
tư không ngừng nghỉ cho DVAN và trang blog của chúng tôi, diacritics.org, một
nguồn bài trực truyến hàng đầu cho các sáng tác nghệ thuật, văn hóa và chính trị
của Việt Nam và hải ngoại. Đồng thời, tôi cũng thấy rất khó để cân bằng công việc
này với việc viết văn của tôi, đó là chưa kể các đòi hỏi của cuộc sống cá nhân
và các nghĩa vụ khác (như là công việc chuyên môn). Ở thời điểm này, tôi nghĩ
có lẽ The Sympathizer có vẻ như đã tác động đến thế giới nhiều
hơn là tất cả các hoạt động cổ vũ tôi đã từng làm. Nhưng, cũng cần phải nhớ rằng
một phần của tác động đó bắt nguồn từ việc cuốn sách ra đời trong một thế giới
đã thay đổi nhờ vào nỗ lực của các nhà hoạt động đi trước. Cho nên tôi vẫn đang
tìm hiểu cách cân bằng việc đầu tư thời gian giữa công việc của tôi và việc hợp
tác với những người khác.
Tập truyện ngắn của tôi, The Refugees, về
người Việt tị nạn và người Mỹ gốc Việt, sẽ được xuất bản vào tháng Hai năm
2017, và tôi đã viết được 50 trang đầu tiên của The Committed, cuốn
tiếp theo của The Sympathizer, với một trích đoạn đã được đăng tạiPloughshares và
một trích đoạn khác sẽ được Freeman’s đăng tải.
–
Người
dịch: Huong Nguyen (Nguyễn Thị Hường), nghiên cứu và dịch thuật tại New York.
Aimee
Phan là tác giả của hai tác phẩm hư cấu, We
Should Never Meet, từng được lựa chọn là một Cuốn sách Đáng chú ý bởi tổ chức
giải Kiriyama (Kiriyama Notable Book) và lọt vào vòng chung kết của Giải
Văn chương Mỹ gốc Á (the Asian American Literary Awards), và cuốn The
Reeducation of Cherry Truong, xuất bản năm 2012. Cô đã từng đoạt học bổng
từ NEA, MacDowell Arts Colony, và Hedgebrook. Các sáng tác của cô
đã được đăng tải trên New York Times, USA Today, Guernica, the Rumpus,
và the Oregonian, bên cạnh nhiều tạp chí khác. Hiện cô đang giảng dạy
sáng tác và văn chương tại Khoa văn Đại học California (California College of
the Arts).
Bạn có thích đọc diaCRITICS không? Nếu có thì
xin mời đăng ký nhận bài ở đây.
Vui lòng bỏ chút thời gian chia sẻ bài
này. Chia sẻ (qua email, Facebook, v.v.) giúp quảng bá diaCRITICS. Mời
bạn tham gia vào câu chuyện và để lại lời bàn.
RELATED
POSTS
- Tác phẩm đầu tay đạt giải thưởng: Inside Out & Back Again của Lại Thanh Hà
- BÀN VỀ VIỆC LÀ/ KHÔNG LÀ NGƯỜI VIỆT NAM
- Rapper Nah Nguyen’s “Địt Mẹ Cộng Sản” (DMCS) or “Fuck Communism,” Part 1
- Win a Copy of Viet Nguyen’s debut novel The Sympathizer
- diaCRITICIZE: On Ferguson
No comments:
Post a Comment