Tùy bút
của Thạch Kiều
14.04.2016
Sinh ra
sau năm 1975, tôi lớn lên và trưởng thành gắn bó và chứng kiến với bao đổi thay
thăng trầm của dân tộc, của làng quê Việt Nam. Tuổi thơ chân đất, da khét nắng,
cưỡi trên lưng trâu từ năm lên 6. Tôi cũng như bao đứa trẻ trong làng, 6 tuổi
đã bắt đầu đi vào cuộc sống… Cha tôi nghiêm túc giao cho nhiệm vụ: một buổi đi
học, một buổi chăn trâu, làm sao đó làm, trâu phải ăn no, không để trâu ăn lúa
người ta. Một đứa trẻ vừa mới lớn lên, chưa kịp chơi đùa, chưa kịp thỏa lòng bởi
sự cưng chiều, nâng niu của cha mẹ đã bắt đầu nhận vụ nhiệm lao động của gia
đình. Ở cái tuổi hồn nhiên, tôi chỉ ngoan ngoãn vâng lời (chẳng biết thoái thác
như trẻ con bây giờ đâu).
Lần đầu
ra đồng chăn trâu thích thật. Một không gian thoáng đãng, tự do nô đùa với bọn
trẻ trong làng. Đồ chơi của chúng tôi là bùn, là đất, là nước, là dế mèn, cá rô
thia, bóng làm bằng rơm… Chơi đùa chưa thỏa thì đã trưa rồi, chúng tôi giục
nhau lùa trâu về, ăn cơm đi học. Ngoảnh lại nhìn, chẳng biết trâu mình ở đâu
trong bầy. Mấy đứa lớn cười rồi phỉnh: “Trâu mày đi lạc rồi. Về ba mày đánh cho
coi”. Thế là khóc, khóc trong sự hả hê trêu chọc của bọn chúng. Mẹ kịp đến đúng
lúc. Mẹ cũng cười rồi xoa đầu tôi, vỗ về.
Trẻ con
hiếu động, đêm về mệt, ngủ như chết. Tội nghiệp, sáng tinh mơ cha đã kêu dậy ăn
cơm đặng còn dắt trâu ra đồng chăn. Đang còn ngái ngủ, chưa chịu dậy ngay thì
cha cầm roi dọa đánh. Mẹ can thiệp cha, rằng “để nó ngủ thêm chút nữa”. Cuộc sống
cứ thế ngày ngày trôi qua, không ít lần thấm thía đòn roi của cha vì ngủ nướng,
vì ham chơi để trâu ăn lúa người ta, vì bẻ trộm ngô để nướng ăn ngoài đồng… Cha
đã rèn cho thói quen dậy sớm, thói quen nghe lời, chịu khó, thói quen không được
cãi lại người lớn. Mẹ cũng vài lần khóc khi thấy tôi bị cha đánh. Mẹ xoa dầu những
lằn roi, dỗ dành, hứa ngoan sẽ mua cho đôi dép, cây bút máy. Mẹ còn nói: Bác Hồ
nói “tuổi nhỏ làm việc nhỏ, tùy theo sức của mình”.
Lên lớp
2, cha giao thêm nhiệm vụ, đi chăn trâu gánh thêm đôi trạc (quang gánh) để nhặt
phân trâu bò về bón ruộng. Mấy đứa trẻ khác cũng như tôi thôi, cũng tìm nhặt
phân. Trẻ con bây giờ đâu có biết rằng, chúng tôi ngày ấy quý phân trâu bò lắm,
gặp bãi phân trâu bò thì rất mừng, bọn trẻ giành nhau, có khi giận nhau vì bãi
phân trâu!
Trâu bò
nhiều, cỏ lên không kịp. Ít cỏ, phân trâu bò cũng ít dần. Những buổi không có
phân trâu bò để nhặt, bọn trẻ chúng tôi xúm tát nước bắt cá, bắt cua đồng, mò
tôm, sò, ốc. Mùa hè thì té nước nhau, ra sông tắm thỏa thích. Mùa đông giá rét
thì đốt lá sưởi, đào trộm khoai người ta nướng ăn. Khoai nướng chẳng bao giờ được
chín mềm mà lựt sựt, bẻ chia mỗi đứa một miếng, nóng hổi, vừa xuýt xoa thổi, vừa
ăn, nhưng mà sao thấy ngon đáo để. Ngon vì vui nhưng cơ bản là vì đói.
Chưa
bao giờ cha hài lòng về tôi. Cha thường phàn nàn vì tôi ham chơi, vì tôi chăn
trâu đói, vì tôi không nhặt được nhiều phân trâu bò. Tôi sợ và ghét cha. Hồi ấy
tôi không hiểu sao cha ghét mình thế. Lớn lên, biết đọc sách, đầu óc mở mang dần
mới hiểu, mới thấy thương cha mẹ, thương mình, thương cho quê hương mình dưới
thời bao cấp. Dưới thời bao cấp, nhiều đứa trẻ nông thôn như tôi dường như
không có tuổi thơ …
Cha
nghiêm khắc với con là vì sợ đói, đói cả nhà. Cha chất phác, lam lũ chỉ biết
bán mặt cho đất, bán lưng cho trời. Với cha, chỉ có lao động mới khỏi đói
nghèo. Hoàn cảnh và môi trường sống không cho cha nghĩ rộng hơn, nghĩ đến chính
sách của nhà cầm quyền. Chính sách nó là thứ vô hình nhưng có thể cứu người hoặc
giết người.
Sự khốc
liệt của đói nghèo không kém gì sự khốc liệt của chiến tranh. Miền Trung cát trắng,
cây lúa ngọn khoai cũng oằn mình lớn lên như con người miền của mảnh đất ấy.
Cái xứ chưa nắng đã hạn, chưa mưa đã ngập này dưới thời bao cấp càng điêu đứng,
khốn khổ, điêu linh hơn nơi nào hết. Trẻ con kể từ khi biết cầm đôi đũa là phải
biết lao động, phải biết chăn trâu cắt cỏ, nhặt phân, mót lúa, hái rau, kiếm củi...
Ăn thì khoai, sắn thay cơm. Người ta nói rằng, không phải cơm độn khoai, sắn mà
khoai, sắn độn cơm!
Năm
1988, nghĩa là 13 năm sau ngày “giải phóng”, Bộ Chính trị mới cho ra đời Nghị
quyết 10 (gọi tắt là khoán 10) “cởi trói” cho nông nghiệp, giao đất lâu
dài cho nông dân sản xuất. Từ đây người nông dân mới được thoát cảnh sản xuất tập
thể, làm công điểm, cảnh tuốt lúa (hợp tác xã) cố ý quăng ra một mớ lúa chưa tuốt
sạch để cuối ngày mót lại vài nắm thóc.
Thoát
những cảnh đó, đồng lúa lại xanh tốt, nông dân Việt Nam mới có bát cơm trắng
thay cho sắn, ngô, khoai. Lịch sử ngợi ca, tự hào đây là một cuộc cách mạng
trong nông nghiệp. Lũ học trò học thuộc như những con vẹt. Đứa trẻ năm xưa may
mắn thoát khỏi lũy tre làng, không theo nghiệp cầm cuốc bảy đời của gia đình,
biết dùng Internet, mới biết rằng điều đó không có gì đáng tự hào, chẳng qua là
một cuộc sửa sai. Một ông giáo già nói đùa một câu chơi chữ mà tôi không bao giờ
quên được khi nghĩ đến chữ “sai”: “sai đâu sửa đấy, sửa đâu sai đấy, đấy sửa
đâu sai, đấy sai đâu sửa?”. Luẩn quẩn và bế tắc.
Lại tiếp
tục về câu chuyện về hạt lúa với vài số liệu hơi khô khan để xem hạt lúa Việt
Nam có tương lai sẽ ra sao.
Loại bỏ
mô hình kinh tế tập trung quan liêu bao cấp, với bản chất cần cù của hơn 80 triệu
nông dân, từ năm 1989, Việt Nam lần đầu tiên trở thành nước xuất khẩu gạo và từ
đó đến nay, xuất khẩu gạo liên tục tăng mạnh. Từ năm 2003, Quốc hội Việt Nam có
nghị quyết miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp cho nông dân, làm cho nông dân
càng phấn khởi sản xuất. Năm 2011, Việt Nam xếp thứ 2 sau Thái Lan và vượt xa
nước thứ 3 là Ấn Độ về xuất khẩu gạo. Từ năm 2003, Quốc hội Việt Nam có nghị
quyết miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp cho nông dân. Năm 2012 Việt Nam đứng thứ
2 sau Ấn Độ (thậm chí có thời điểm trong năm Việt Nam đã vươn lên vị trí số 1),
đã trở thành một trong những nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới.
Giá như
cứ thế, nông dân Việt Nam sẽ thoát nghèo bền vững. Đằng này sự thực diễn ra
không như mơ ước. Chính sách đô thị hóa không hợp lý đã thu hẹp diện tích trồng
lúa gần 370.000 ha trong 10 năm (2000-2010). Không phải đất hoang hóa, bạc màu
mà vô số “bờ xôi ruộng mật” đã bị xóa sổ để lập các khu công nghiệp và đô thị.
Cứ ven đường quốc lộ, tỉnh lộ, trục đường chính là nhà nước lấp ruộng đất, lấp
không thương tiếc. Lấp cho khu công nghiệp đã đành, thôi thì cái giá của công
nghiệp hóa đất nước. Nhưng còn có chuyện lấp để phân lô, để bán hoặc cho thuê đất
kiếm lời, quan chức theo đó mà trục lợi. Ở Việt Nam, đất là tài sản toàn dân,
nhà nước đại diện nhân dân quản lý nên nhà nước có quyền thu ruộng đất, dời nhà
dân bất kể lúc nào, đền bù với giá rẻ mạt. Nông dân mất đất, mất kế sinh nhai,
bị lùa vào các khu dân cư quy hoạch. Họ trở thành người nửa tỉnh nửa quê, nhận
được ít tiền đền bù rồi xây nhà, sắm xe, chẳng bao lâu hết sạch. Con cháu cố
chen vào các khu công nghiệp làm thuê, sống qua ngày. Vậy từ chỗ làm chủ ruộng
đất, một bộ phận nông dân trở thành làm thuê, thành giai cấp vô sản thực sự.
Ngành
nông nghiệp dự tính giai đoạn 2011- 2020 sẽ mất thêm khoảng 300.000 ha đất nữa
do phải chuyển cho các nhu cầu sử dụng khác và do ảnh hưởng của biến đổi khí hậu.
Như vậy diện tích trồng lúa mất đi 670.000 ha (từ 4,5 triệu ha xuống còn 3,8
triệu ha) tức trung bình mỗi năm mất khoảng 32.000 ha, tương ứng sản lượng lúa
giảm 320.000 tấn, trong khi nhu cầu trong nước tăng thêm 200.000 tấn/năm do
tăng dân số. Dự báo nếu năng suất vẫn duy trì như hiện tại thì sản lượng lúa
năm 2020 sẽ giảm khoảng 30% so với hiện nay (từ 45 triệu tấn xuống còn 30 triệu
tấn). Đến lúc đó, đảm bảo an ninh lương thực sẽ trở thành vấn đề không đơn giản
chứ chưa nói đến xuất khẩu.
Đó là
chưa kể từ năm nay về sau, đồng bằng sông Cửu Long, vựa lúa lớn nhất cả nước,
lâm vào nguy cơ hạn hán và nhiễm mặn, bị lệ thuộc nguồn nước, do Trung Quốc xây
đập thủy điện chặn đầu nguồn sông Mê Kông.
Quay lại
câu chuyện riêng của tôi. Hôm nay trở về thăm làng, thấy quán nhậu, quán cà phê
mọc lên như nấm. “Mất đất thì phải kinh doanh thôi chứ ế khách lắm”, một bác
nông dân phân trần.
Nhìn ra
cánh đồng của thời “trẻ trâu” năm nào, nay đang bị sang lấp nham nhở, chẳng bao
lâu nữa sẽ có một con đường xuyên qua và những lô đất hai bên đường sắp hình
thành, những người lắm tiền kinh doanh bất động sản sẽ xúm vào đấu giá.
Đột
nhiên có một làn gió mạnh bay qua, làm nhấp nhô những sóng lúa đang chín vàng ở
những thửa ruộng còn sót lại. Xa xa một đám bụi mịt mù bay bay theo làn gió.
Tùy bút
của Thạch Kiều
-------------------------
* Các bài viết
được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập
trường của Chính phủ Hoa Kỳ.
No comments:
Post a Comment