Ông
Nguyễn Gia Kiểng trả lời phỏng vấn của nhà báo Trần Quang Thành
Posted
by adminbasam on
26/04/2016
Lời
giới thiệu:
Biến cố 30/4/1975 xảy ra cách đây 41 năm. Gần nửa thế kỷ đã trôi qua, biến
cố đó vẫn để lại nhiều nhận thức, nhiều thái độ, nhiều cách đánh giá khác nhau.
Người Việt Nam vẫn chưa đạt tới đồng thuận về ý nghĩa của biến cố lịch sử này.
Chúng
ta còn nhớ cách đây một năm vào dịp kỷ niệm 40 năm ngày 30/4/1975 thủ tướng cộng
sản Nguyễn Tấn Dũng còn tung hô ngày 30/4/1975 như một ngày chiến thắng
huy hoàng của “toàn Đảng, toàn dân và toàn quân Việt Nam” và
hô to khẩu hiệu “đánh cho Mỹ cút đánh cho ngụy nhào”. Ông Nguyễn
Tấn Dũng đã bị ngay một số đảng viên cộng sản kỳ cựu phê phán là lạc điệu.
Kỷ niệm
41 năm biến cố 30/4/1975, từ Paris ông Nguyễn Gia Kiểng, thường trực ban lãnh đạo Tập
Hợp Dân Chủ Đa Nguyên, một nhân chứng của biến cố đó và cũng là người
đã viết nhiều bài gây chú ý về biến cố lịch sử này đã có cuộc trò chuyện với
nhà báo Trần Quang Thành. Nội dung như sau – Mời quí vị cùng theo dõi:
VIDEO :
Về biến cố 30/4/1975
Thành Trần
Quang Published on Apr 22, 2016
Trần
Quang Thành: Xin chào ông Nguyễn Gia Kiểng
Nguyễn
Gia Kiểng: Chào ông Trần Quang Thành.
*
TQT: Biến cố 30/4/1975 diễn ra đến nay đã được 41
năm. 41 năm qua cộng sản đã đặt ách thống trị lên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam sau
khi đã xâm chiếm được Việt Nam Cộng Hòa. Ngày đó ông Nguyễn Gia Kiểng mới ở tuổi
ngoài 30. Ông từng làm phụ tá tổng trưởng kinh tế tức là chức thứ trưởng. Ngày
30/4/1975 đó ông quan sát thấy điều gì, cảm nghĩ ra sao và hiện nay trong đầu
óc ông còn điều gì đáng suy tư thưa ông?
NGK: Những ngày trước và
sau 30/4, nhất là ngày 30/4/1975, phải nói là những kỷ niệm “sống để bụng, chết
mang theo”. Đó là những ngày cực kỳ đen tối mà không một ngôn từ nào có thể diễn
tả nổi. Lúc đó chúng tôi bồn chồn, hốt hoảng, thất vọng, tuyệt vọng. Mỗi một
ngày thêm một tin khủng khiếp sau khi Buôn Mê Thuột bị thất thủ vào tay quân cộng
sản, nhất là sau cuộc tháo chạy hỗn loạn của quân và dân miền Nam trên quốc lộ
7B; sau đó là Đà Nẵng, Qui Nhơn, Nha Trang … lần lượt theo nhau rơi vào tay
quân đội cộng sản hầu như không có một sự kháng cự nào, bởi vì quân đội Việt
Nam Cộng Hòa đã rã hàng và không còn sức kháng cự nữa. Ở miền Nam nói chung và
nhất là ở Sài Gòn những người có khả năng, có phương tiện thì tìm cách chạy trốn
ra nước ngoài. Cả nước sống trong một không khí tháo chạy hỗn loạn. Không có
ngôn ngữ nào có thể tả được.
Cũng
như nhiều anh em khác, tôi không ngủ được trong hơn một tháng. Khi nào mệt quá
thì thiếp đi, rồi lại thức dậy và bồn chồn, lo lắng. Ngày 30/4/1975 Dương Văn
Minh tuyên bố đầu hàng. Quân cộng sản tràn vào Sài Gòn trong những tiếng reo hò
vui mừng cộng với những tiếng súng chào mừng chiến thắng. Phải nói rằng lúc đó
sự hân hoan của họ chỉ có thể so sánh được với sự buồn tủi của anh em chúng
tôi. Tất cả chúng tôi đều không biết những gì sẽ xảy ra cho mình trong những
ngày sắp tới. Bởi vì không nên quên rằng trước đó hai tuần lễ, chiến thắng của
quân Khơ-me Đỏ tại Campuchia đã khởi đầu cho một cuộc tàn sát rất dã man các
viên chức của chế độ cũ. Riêng cá nhân tôi còn có một lý do đặc biệt để lo sợ
hơn người khác bởi vì khi còn ở Paris, trước khi trở về Việt Nam, tôi là một
người lãnh đạo phong trào chống cộng tại Pháp và Âu châu; tôi đã từng tranh luận
với nhiều người cộng sản, kể cả những người sau này trở thành những viên chức
cao cấp của chế độ. Nhưng có một điều rất là lạ sau 30/4/1975 tôi thấy mình ngủ
được. Tôi thấy mình bình tĩnh trở lại. Có lẽ vì nghĩ rằng đã mất tất cả rồi,
không còn gì để mất nữa, cái gì đến cứ đến. Tôi tự nghĩ mình đã làm tất cả những
gì mình có thể làm và cũng không làm điều gì sai trái, không có gì để tự trách
mình cả.
Kỷ niệm
sinh động nhất mà tôi còn nhớ rất rõ là vào sáng ngày 30/4/1975, lúc Dương Văn
Minh tuyên bố đầu hàng, tôi đã lấy lá cờ vàng ba sọc đỏ úp vào mặt khóc rất
lâu. Tôi không khóc cho chế độ Việt Nam Cộng Hòa mà tôi chưa bao giờ đánh giá
cao. Tôi đã chỉ muốn dựa vào nó để ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản mà tôi cho là rất
độc hại cho dân tộc Việt Nam, để rồi sau đó xây dựng một nước Việt Nam khác. Thế
nhưng vào ngày 30/4/1975 tôi thấy hy vọng đó đã hoàn toàn tiêu tan. Tôi khóc cho
lý tưởng của đời mình. Tôi cũng khóc cho đất nước Việt Nam vì tôi ý thức rất rõ
ràng vào lúc đó rằng đất nước Việt Nam bắt đầu đi vào một thảm kịch rất lớn.
Hôm nay
nhân dịp nhắc lại những kỷ niệm của ngày 30/4, tôi cũng xin nói lên một điều mà
một cách kỳ lạ chưa thấy người Việt Nam nào nói đến. Đó là chế độ Việt Nam Cộng
Hòa trong thất bại thê thảm của nó cũng đã làm được một điều rất phi thường.
Lúc đó tôi đang là chủ tịch ủy ban vật giá và tiếp tế ở bộ kinh tế. Anh em
chúng tôi đã cố gắng hết sức giữ cho vật giá được ổn định và chúng tôi đã thành
công. Cho đến ngày 30/4/1975 sinh hoạt kinh tế vẫn gần như bình thường, vật giá
vẫn ổn định. Có thể nói đây là một điều chưa từng có trong lịch sử thế giới. Bởi
vì nếu chúng ta nhìn các chế độ sắp sửa bị đánh gục vì chiến tranh trên thế giới,
thì luôn luôn trước đó vật giá tăng lên gấp trăm lần, thậm chí gấp ngàn lần. Thế
nhưng đồng tiền Việt Nam Cộng Hòa vẫn còn ổn định, ổn định đến nỗi chế độ cộng
sản không thay thế nó và họ còn giữ nó trong gần sáu tháng nữa, đến cuối tháng
9/1975 họ mới thay thế nó bằng một đồng tiền mới. Có thể nói tuy mặt trận quân
sự tan rã nhưng mặt trận kinh tế vẫn ổn vững. Sau này tôi có gặp lại một số bạn
bè người ngoại quốc có mặt ở Sài Gòn lúc đó, họ cũng nói với tôi rằng đó là một
điều không thể tưởng tượng được và làm cho họ rất ngạc nhiên.
*
TQT: Thưa ông Nguyễn Gia Kiểng. Ông vừa nói kinh tế
miền Nam trong cuộc chiến khá ổn định và vật giá không bị leo thang một cách bất
thường. Điều đó cũng làm cho ông rất tự hào. Bây giờ nhìn lại cuộc chiến 1945 –
1975, trong cuộc chiến 30 năm đó mỗi người có một nhận thức khác nhau. Người cộng
sản họ bảo đó là cuộc kháng chiến cứu nước. Lúc thì là chống thực dân Pháp, lúc
thì là chống Mỹ xâm lược. Nói chung đây là cuộc kháng chiến cứu nước. Họ tự hào
đã giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Bây giờ họ đặt ách thống trị cộng
sản lên toàn cõi Việt Nam. Nhưng nhiều người Việt Nam lại cho đây là một cuộc
chiến tranh huynh đệ tương tàn. Một cuộc chiến tranh mà những người cộng sản
làm tay sai cho Quốc Tế Cộng Sản, như chính ông Lê Duẩn đã thừa nhận là “đánh
cho Liên Xô và đánh cho Trung Quốc”.
Ông Nguyễn Gia Kiểng có
bình luận gì về cuộc chiến tranh kéo dài 30 năm, 1945 – 1975, ở Việt Nam
ta ?
NGK: Lập luận của Đảng Cộng
Sản là môt lập luận tự đắc và tuyên truyền trắng trợn mà ta phải bác bỏ. Phải
trả lời một cách rất dứt khoát đây là một cuộc nội chiến. Cả hai giai đoạn mà họ
gọi là “chống Pháp” và “chống Mỹ” đều chỉ là hai giai đoạn trong một cuộc nội
chiến kéo dài 30 năm, bởi vì khi người trong một nước bắn giết nhau trên một
qui mô lớn và trong một thời gian dài thì đó là nội chiến dù có hay không có sự
can thiệp từ bên ngoài. Vả lại trong thế kỷ 20, nhất là sau thế chiến thứ hai,
làm gì có cuộc nội chiến nào không có sự tiếp tay từ bên ngoài đâu. Nếu ta nhìn
lại số người Pháp và số người Mỹ thiệt mạng trong hai giai đoạn của cuộc chiến
này thì chúng ta thấy đó là một tỷ lệ không đáng kể so với số tử vong của người
Việt Nam. Người Pháp đã thiệt hại 33.000 người, trong đó một phần đáng kể là những
người lính châu Phi và Ả Rập, người Mỹ thiệt hại 58.000 người, trong khi đó số
tử vong của người Việt ở cả hai phía là trên ba triệu. Nói chung tổng số quân đội
nước ngoài thiệt mạng tại Việt Nam trong cuộc nội chiến này chưa bằng 3% của
phía Việt Nam.
Tôi còn
nhớ trong một bài báo đăng trên tờ Học Tập chính ông Trường
Chinh cũng đã nhìn nhận đây là một cuộc nội chiến. Còn ông Lê Duẩn thì đã từng
tuyên bố, như ông Thành vừa nhắc lại, cuộc chiến là để phục vụ nước ngoài. Thế
thì đâu có gì là chính nghĩa giải phóng dân tộc?
Khi nói
về cuộc chiến này chúng ta cũng cần nhấn mạnh một điều, đó là nội chiến nằm
ngay trong chính nền tảng của chủ nghĩa Mác – Lênin. Chính Lenin đã nói rằng nội
chiến và đấu tranh giai cấp chỉ là một, nội chiến chỉ là sự tăng cường và tiếp
nối của đấu tranh giai cấp, đấu tranh giai cấp chắc chắn phải đưa đến nội chiến.
Còn một
lý do nữa khiến những người cộng sản chủ trương nội chiến. Đó là nội chiến gây
tác hại ghê gớm cho mọi dân tộc. Nó không chỉ gây ra những tổn thất về vật chất,
về sinh mạng mà nó còn phá hủy tinh thần dân tộc. Khi người ta giết nhau là người
ta không còn coi nhau là đồng bào nữa. Nội chiến có tác dụng phá hoại các quốc
gia và việc xóa bỏ các quốc gia nó nằm trong nền tảng tư tưởng của chủ nghĩa cộng
sản. Chúng ta phải nhấn mạnh rằng không tội nào nặng hơn là tội gây ra nội chiến.
Các quốc gia đều rất khó gượng dậy sau một cuộc nội chiến.
Bây giờ
nếu bàn về khía cạnh chính trị và lịch sử của cuộc nội chiến này thì chúng ta
cũng phải dứt khoát vất bỏ chiêu bài giải phóng của cộng sản. Bởi vì cả hai
giai đoạn của cuộc nội chiến này đều là những cuộc chiến tranh không cần thiết,
chỉ nhằm thiết lập chế độ cộng sản mà thôi. Nếu chỉ có nhu cầu và nguyện vọng
giải phóng dân tộc và giành lại độc lâp thì cuộc chiến đó không cần có.
Chúng
ta nên biết là sau Thế Chiến II khi nhân quyền -tức là sự bình quyền giữa những
con người thuộc mọi chủng tộc- đã trở thành một mẫu số chung trong bang giao quốc
tế thì sự phân biệt chủng tộc không còn được đặt ra nữa. Bởi thế cho nên các nước
Pháp, Anh và nói chung các đế quốc thực dân phải tìm cách tháo chạy nhanh
chóng khỏi các thuộc địa nếu không muốn bị chiếm đóng ngược lại. Hãy tưởng tượng
điều gì sẽ xảy ra vào giờ này nếu Việt Nam và Pháp vẫn là một? Nếu như thế thì
trong các cuộc bầu cử tự do 100 triệu người Việt Nam sẽ có tiếng nói áp đảo so
với 65 triệu người Pháp và như thế chính nước Pháp bị chiếm đóng chứ không phải
Việt Nam! Dĩ nhiên người Pháp phải trả độc lập cho Việt Nam, họ phải tìm cách
rút khỏi Việt Nam vì chính an ninh của họ. Điều đó không có nghĩa là tất cả
đều tốt đẹp, chúng ta vẫn phải cố gắng để việc chuyển giao chủ quyền diễn ra
trong những điều kiện thuận lợi nhất cho Việt Nam. Thế nhưng mà chúng ta không
cần có một cuộc chiến tranh.
Giai đoạn
chống Mỹ lại càng lố bịch. Tôi xin nhắc lại là ngày 30/4 cũng là một ngày lịch
sử rất lớn đối với nước Philippines ở gần chúng ta. Ngày 30/4/1898 quân đội Mỹ
đã tiêu diệt toàn bộ quân đội Tây Ban Nha tại Philippines nhưng ngay sau đó Mỹ
lại trả độc lập cho Philippines, bởi vì Mỹ là một cường quốc thương mại chứ
không phải là một cường quốc thực dân, họ tìm đối tác chứ không tìm thuộc địa.
Nói chung đây là một cuộc chiến do đảng cộng sản Việt Nam phát động để áp đặt
chủ nghĩa Mác -Lê-nin lên toàn cõi Việt Nam và mở rộng thế lực của phong trào cộng
sản thế giới, như lời ông Lê Duẩn mà ông vừa nhắc lại.
*
TQT: Cuộc chiến đã kết thúc hơn 40 năm, gần một nửa
thế kỷ qua bên thắng cuộc, nghĩa là phe cộng sản, tự hào rằng họ đã đánh bại
hai đế quốc to và thống nhất non sông Nam Bắc về một dải. Bên những người bị
thôn tính là VNCH cũng đưa ra nhiều lý lẽ để cho rằng đây chỉ là một cuộc xâm
lăng đối với một đất nước có chủ quyền. Ông đánh giá sao về việc Đảng Cộng Sản
cho ràng họ có chính nghĩa?
NGK: Như tôi vừa nói
không có cuộc nội chiến nào là có chính nghĩa cả. Không có bất cứ lý do gì có
thể biện minh cho sự kiện đẩy người dân cùng một nước vào cảnh chém giết lẫn
nhau. Không nên đặt vấn đề chính nghĩa ở đây.
Như tôi đã nói mục tiêu của Đảng Cộng Sản
là áp đặt chủ nghĩa cộng sản trên cả nước và mở rộng thêm thế lực của phong
trào cộng sản.
Những người lãnh đạo cộng sản đã lý luận như là những người cộng sản chứ không
phải như là những người Việt Nam. Nếu quyền lợi của đất nước Việt Nam được coi
là trên hết thì đã không có cuộc chiến này. Cho nên chúng ta cũng không cần phải
mất thì giờ để bàn cãi thêm nữa. Ngày nay tất cả người Việt đều đã thấy cuộc
chiến này là một cuộc nội chiến tai hại, và là một cuộc nội chiến mà Đảng Cộng
Sản phải chịu trách nhiệm. Chúng ta không có nhu cầu phải bàn cãi thêm nữa.
*
TQT: Cuộc chiến đã kết thúc với biến cố 30/4/1975 và cộng sản là người
đã gây nên cuộc nội chiến huynh đệ tương tàn đó. Nhìn lại 41 năm qua ông
thấy Việt Nam ta dưới sự cai trị độc tài của cộng sản đã được gì, mất gì. Ông
bình luận gì sau biến cố đó?
NGK: Nếu nói về những
cái được thì chúng ta phải nói đây là ngày mà nội chiến chấm dứt, người Việt
Nam không con chém giết nhau nữa. Điều này rất quan trọng. Và đất nước đã thống
nhất. Dù đã không thống nhất trong những điều kiện chúng ta mong muốn,
trái lại đã thống nhất trong những điều kiện tang tóc, nhưng dù sao đất nước
đã thống nhất. Đó là điều chúng ta có thể ghi nhận là tích cực.
Nhưng
theo tôi yếu tố tích cực nhất là điều không ai chờ đợi, không ai dự đoán. Đó là
sự hình thành của cộng đồng người Việt hải ngoại, những người đã chạy trốn chế
độ cộng sản đi tìm tự do ở các nước khác. Hiện nay chúng ta, với sự sinh sản
nhanh chóng của người Việt, đã có được hơn năm triệu người, phần lớn định cư phần
lớn ở các nước tiến tiến. Nhờ đó đạ có những người Việt Nam đã được thử nghiệm
mọi nếp sống, mọi văn hóa, và mọi thể chế chính trị. Đã có những người Việt Nam
làm việc ở mức độ cao, trong tất cả mọi địa hạt văn hóa, chính trị, luật pháp,
khoa học, kỹ thuật. Khối người Việt đó trong tương lai sẽ là những đầu cầu
văn hóa, thương mại, khoa học, kỹ thuật rất quí báu cho đất nước, cho cố gắng
phát triển của Việt Nam. Nhưng trước hết nó là con mắt của người Việt để nhìn
thế giới. Một trong những nguyên nhân sâu xa khiến chúng ta rơi vào thảm kịch 30/4/1975
và kéo cho tới ngày hôm nay là vì chúng ta đã không hiểu biết về thế giới. Hiện
nay với cộng đồng người Viêt hải ngoại này chúng ta vọng có một con mắt để quan
sát những gì xẩy ra trên thế giới. Tôi nghĩ đó là một bảo đảm để chúng ta
không bao giờ rơi trở lại vào cái bẫy của cố chấp và thiển cận nữa. Chúng ta sẽ
trở thành một dân tộc bình thường. Chúng ta có điều kiện để trở thành một dân tộc
lớn. Cộng đồng người Việt hải ngoại cũng đã chứng tỏ khả năng người Việt.
Trong một thời gian rất ngắn người Việt đã hội nhập và nói chung ở các nước
tiên tiến đã đạt được mức sống trung bình và có khi hơn cả mức trung
bình. Điều đó chứng tỏ khả năng của người Việt Nam và cho chúng ta một lý
do để hy vọng.
Thế
nhưng cái mất mát cũng rất nhiều, nhiều hơn những cái chúng ta đã được. Cách mà
cuộc chiến đã chấm dứt đã mở đầu cho một giai đoạn lịch sử đen tối. Đảng cộng sản
Việt Nam sau chiến thắng thay vì thực hiện hòa hợp, hòa giải dân tộc họ đã thực
hiện một chính sách chiếm đóng, cướp bóc, bỏ tù và hạ nhục tập thể đối với miền
Nam và gây ra thù oán, khiến cho miền Nam sụp đổ hoàn toàn và khiến hận
thù không bớt đi, không tiêu tan mà còn tích lũy nhiều hơn nữa.
Tôi xin
kể hai trường hợp cụ thể :
Trường
hợp thứ nhất là một người anh họ tôi. Anh là một kỹ sư, tổng giám đốc một công
ty. Sau 30/4 công ty đó bị cái mà người ta gọi là “tiếp thu” tức là bị tịch
thu. Công ty đó chẳng có gì là quân sự cả, chỉ là một công ty xây cất thôi.
Công ty đó còn nợ một ngân hàng một triệu đồng và người ta bắt anh phải thanh
toán với tư cách giám đốc công ty mặc dầu công ty ấy đã bị tịch thu rồi. Mặt
khác anh ấy còn một tài khoản tiết kiệm gần mười triệu đồng ở trong công ty đó
thì người ta nói là để giải quyết sau nhưng không bao giờ giải quyết cả. Thật
phi lý, phải nói là một sự cướp bóc trắng trợn.
Trường
hợp thứ hai là của một người mà tôi đặc biệt thán phục. Phải nói tôi chưa bao
giờ thán phục ai hơn cụ Vũ Đình Mai. Cụ là một thanh niên nghèo ở miền Bắc một
mình đi vào Nam năm 1940 ở tuổi 16 để chạy trốn sự nghèo khổ. Cụ đã phấn đấu,
đã làm việc và học hỏi thêm. Năm 1975 cụ đang là chủ một công ty sản xuất đồ điện
với trên 200 công nhân. Đó là một thành công hoàn toàn do mồ hôi, nước mắt,
cố gắng và trí thông minh. Cụ Mai là một người mà dân tộc Việt Nam phải tự hào.
Thế nhưng sau 30/4/1975 họ đã “tiếp thu” công ty của cụ Vũ Đình Mai và sau vài
tháng công ty đó sụp đổ vì họ không biết quản trị, không biết phải làm gì. Sau
này khi tôi gặp lại cụ Mai, cụ vẫn không hiểu cái gì đã xẩy ra. Cụ là người rất
thông minh một thiên tài về kinh doanh, một người rất lương thiện nhưng cụ
không thể hiểu nổi. Cụ cứ hỏi tôi “ông thử giải thích cho tôi xem cái gì đã xảy
ra”. Thật đau lòng.
Sau này
cụ Mai đã vượt biên và qua được Canada. Năm nay cụ cao tuổi lắm rồi, đã 92 tuổi. Nhưng
tôi hy vọng cụ vẫn còn nghe được buổi nói chuyện này để một lần nữa tôi bày tỏ
sự kính trọng đối với cụ.
Ngày
hôm nay tôi có một điều muốn nhấn mạnh đó là chính sách tập trung cải tạo của đảng
cộng sản sau ngày 30/4/1975. Như chúng ta đã biết tất cả thanh niên miền Nam có
trình độ đại học đều bị động viên trong thời gian vài năm. Họ trở thành sĩ quan
và sau đó họ giải ngũ trở về đời sống dân sự nhưng mang qui chế lý thuyết là
“sĩ quan biệt phái”. Sau ngày 30/4/1975 tất cả đã bị bắt đưa vào những trại tập
trung. Thí dụ hư ông anh ruột tôi, sau khi tốt nghiệp đại học đã bị đi
quân dịch trong vòng ba năm và giải ngũ với cấp bậc trung úy rồi trở về làm giảng
viên trường Đại Học Khoa Học Sài Gòn. Thế nhưng sau ngày 30/4/1975 anh tôi vẫn
bị bắt đi tập trung cải tạo trong vòng 5 năm. Có nhiều người nói rằng Đảng Cộng
Sản ngây thơ không biết những người đó là dân sự, họ đã giải ngũ rồi và không
có liên quan gì đến quân đội cả. Tôi muốn nói chắc chắn là cộng sản biết rất rõ
những người đó là dân sự không có liên quan gì đến quân đội cả. Họ không có lầm
lẫn đâu bởi vì họ đã cài cắm một lớp điệp viên, một lớp cán bộ nẳm vùng trong tất
cả các cơ quan của Việt Nam Cộng Hòa. Ngay cả một phụ tá của ông Nguyễn
Văn Thiệu sau này cũng được phát giác là một cán bộ nằm vùng. Ông tướng Nguyễn
Hữu Hạnh mà tôi có gặp sau khi ở tù ra năm 1980 là phó tổng tham mưu trưởng
quân đội Việt Nam Cộng Hòa trong những ngày cuối cùng. Ông ấy cũng là một trong
những cán bộ nằm vùng của cộng sản. Người cộng sản biết rất rõ rằng những người
gọi là “sĩ quan biệt phái” không có liên quan gì đến quân đội cả. Nhưng họ vẫn
tập trung cải tạo những người đó. Chúng ta phải hiểu cho rõ: đó là vì họ muốn
đánh gục khả năng và ý chí của thành phần tinh nhuệ nhất của miền Nam. Bởi vì
sau ngày 30/4/1975 sự thực rõ ràng là khả năng, trình độ văn hóa và kiến thức của
miền Nam hơn hẳn miền Bắc, cho nên họ thấy cần phải đánh gục miền Nam,
đánh gục những thành phần tinh nhuệ của miền Nam bằng chính sách đầy đọa, hạ nhục
trong một thời gian dài. Trong một bài viết cách đây 17 năm, năm 1999
-bài “Vết thương ngày 30/4”- tôi có nói đây là đổ vỡ lớn nhất,
vết thương lớn nhất của đất nước Việt Nam và đây là một hành động có chủ ý của
Đảng Cộng Sản. Chúng ta phải nói đảng cộng sản hoàn toàn không có quan tâm nào
tới quyền lợi của đất nước cả, họ chỉ quan tâm bảo vệ quyền lực của đảng
cộng sản, họ chỉ quan tâm đến thắng lợi của phong trào cộng sản. Tôi xin nhắc lại
một lần nữa rằng những người lãnh đạo cộng sản đã hành động như những người cộng
sản chứ không phải như những công dân Việt Nam.
*
TQT: Ông vừa đề cập đến những tội ác của cộng sản đối với những người dưới chế
độ Việt Nam Cộng Hòa. Những điều đó là rõ ràng và khẳng định. Không chỉ
thế những người dân miền Bắc, những người đã sống nhiều năm dưới chế độ Việt
Nam Dân Chủ Cộng Hòa do cộng sản cai trị cũng ngày càng bừng tỉnh thấy rằng chế
độ cộng sản là một chế độ độc tài toàn trị mang lại tội ác đau thương cho cả
dân tộc Việt Nam. Từ Nam chí Bắc đều chung quốc hận là cộng sản. Vậy tại sao Tập
Hợp Dân Chủ Đa Nguyên lại đề ra chủ trương bao dung hòa hợp, hòa giải và
người ta nói đường hướng đó sẽ thất bại, tại sao ông vẫn kiên trì ?
NGK: Tôi phải nói dứt
khoát như thế này: Hòa giải là một bắt buộc đối với các dân tộc sau một cuộc nội
chiến. Chúng ta đã thấy tại Hoa Kỳ sau một cuộc nội chiến chỉ kéo dài bốn năm
cách đây một thế kỷ rưỡi chính quyền Mỹ đã làm tất cả để hòa giải hai miền Nam
– Bắc. Tại Tây Ban Nha sau cuộc nội chiến cũng chỉ kéo dài có mấy năm thôi mà
chính quyền hiện nay cũng vẫn còn phải cố gắng hết sức để hòa giải dân tộc. Bởi
vì hòa giải là bắt buộc nếu chúng ta muốn động viên mọi khối óc và mọi
bàn tay trong một cố gắng chung. Tôi đã đi khá nhiều nước để tìm câu trả lời
cho một câu hỏi : “Tại sao theo các nhà khoa học mọi giống người
sinh ra trên thế giới này đều tương đương với nhau về khả năng vậy mà có những
quốc gia tiến bộ và phồn vinh trong khi đó các nước khác tụt hậu và nghèo khổ ?”
Câu trả lời mà tôi tìm được cũng chỉ xác nhận kết quả của những nghiên cứu
chính trị mà thôi. Đó là một quốc gia chỉ tiến lên được nếu có hòa hợp dân tộc,
nếu những người trong cùng một nước chấp nhận lẫn nhau và cùng cố gắng xây dựng
và chia sẻ một tương lai chung. Hòa hợp dân tộc là một yếu tố không có không được
để một quốc gia có thể phát triển được. Thế nhưng làm thế nào để có hòa hợp? Đối
với các dân tộc đã trải qua nội chiến như Việt Nam thì trước đó phải có hòa giải
dân tộc.
Ngày
hôm nay chúng ta lại có một vấn đề khác. Chúng ta đang sống trong một thế
giới toàn cầu hóa. Phong trào toàn cầu hóa này đe dọa tất cả các quốc gia, nó
chất vấn từ nền tảng khái niệm quốc gia, nó đặt câu hỏi “các quốc gia có cần
cho con người hay không?” bởi vì phải nói rằng ngày nay con người là giá trị
cao nhất, tất cả những gì không đạt được mục tiêu phục vụ con người đều không
có lý do để tồn tại. Hiện nay chính đất nước Việt Nam đang bị chất vấn. Không
chỉ riêng Việt Nam mà tất cả các quốc gia không thành công -nghĩa là không đem
lại tự do, phồn vinh và tự hào cho người dân- sẽ không có lý do tồn
tại và sớm muộn gì cuối cùng sẽ tan vỡ mà thôi. Vậy thì hòa giải và hòa hợp dân
tộc là điều kiện phải có để đất nước Việt Nam còn tồn tại. Hòa giải dân tộc để
có thể hòa hợp dân tộc. Hòa hợp dân tộc để có thể tồn tại được. Cho nên yêu cầu
hòa giải và hòa hợp dân tộc cũng là một yêu cầu giữ nước.
Một lý
do nữa là hòa giải và hòa hợp dân tộc cũng là điều kiện để đánh bại được chế độ
cộng sản, buộc chế độ cộng sản nhượng bộ và chấp nhận tiến trình dân chủ.
Vì sao? Chúng ta đừng quên là các chế độ độc tài hung bạo không cần người dân
yêu chúng, chúng chỉ cần người dân đừng thương yêu nhau để cho chúng dễ thống
trị một xã hội bất lực vì chia rẽ. Cho nên hòa giải và hòa hợp dân tộc cũng là
một điều kiện phải có để giành thắng lợi cho dân chủ.
Nói
chung hòa giải, hòa hợp dân tộc là một điều kiện bắt buộc trong hoàn cảnh Việt
Nam. Vấn đề là nhiều người nói là người cộng sản không muốn hòa giải. Điều đó
đúng. Nhưng chúng ta đâu có bắt buộc phải chỉ làm những gì người cộng sản muốn
đâu. Chúng ta làm rất nhiều điều mà đảng cộng sản không muốn. Nói chung phần lớn
những điều chúng ta làm là những điều Đảng Cộng Sản không muốn. Hòa hợp
và hòa giải dân tộc là một bắt buộc cho tương lai đất nước. Nếu Đảng Cộng Sản
không muốn hòa giải như nhiều người nghĩ thì họ sẽ bị đào thải. Vấn đề chỉ giản
dị như vậy thôi.
*
TQT:
Kinh nghiệm trong cuộc sống cho thấy là người cộng sản
luôn tráo trở trong vấn đề gọi là hòa hợp, hòa giải. Năm 1945 khi giành được
chính quyền họ đã bầy ra trò hòa hợp, hòa giải. Năm 1975 họ cũng đã từng đưa ra
cái bánh vẽ hòa hợp, hòa giải. Những người mắc lừa họ đã phải trả bằng xương
máu cả cuộc đời. Ông đã từng chứng kiến như vậy, nhưng tại sao ông vẫn giữ ý
nghĩ có thể hòa hợp, hòa giải với cộng sản?
NGK: Sự gian trá, sự phản
trác nẳm ngay trong bản chất của chế độ cộng sản. Tôi không cần ai dạy tôi điều
đó cả. Ông Thành đã từng sống dưới chế độ cộng sản. Vào ngày 30/4/1975 hai vị
trí giữa ông và tôi rất khác nhau. Ông thuộc phe chiến thắng, tôi thuộc phe chiến
bại. Tôi không biết ngày hôm đó ông Thành có hân hoan hay không nhưng ngày hôm
đó là tủi nhục đối với tôi. Chúng ta khác biệt nhau lắm. Thế mà hôm nay
chúng ta vẫn có thể nói chuyện với nhau thân mật như thế này. Điều đó chứng tỏ
thời gian đã làm nhiệm vụ của nó và hòa giải dân tộc giữa những người biết điều
và yêu nước là lẽ tự nhiên. Nhưng trở lại vấn đề day dứt là nhiều người sợ
là Đảng Cộng sản vẫn cứ tráo trở. Chúng ta phải biết sự tráo trở đó nằm trong bản
chất của chế độ cộng sản. Ông Thành lớn lên trong chế độ cộng sản chắc phải biết
Lenin định nghĩa đạo đức là như thế nào chứ gì ? Lenin định nghĩa đạo đức
là những gì có lợi cho đảng cộng sản. Nghĩa là nếu sự phản trác, lật lọng, giết
người mà có lợi cho đảng cộng sản thì họ vẫn làm. Như vậy không có ai lầm,
không có ai ngây thơ cả. Vấn đề là đảng cộng sản có khả năng để mà lật lọng hay
không. Chúng ta đều nghĩ rằng sự lật lọng của Đảng Cộng Sản là có thật, nhưng
cái lỗi của những người chống cộng –nghĩa là chế độ Việt Nam Cộng Hòa và những
người dân chủ nói chung- là chúng ta quá yếu nên chúng ta đã để cho đảng cộng
sản có thể lật lọng. Tôi nghĩ nếu chúng ta mạnh hơn họ thì Đảng Cộng Sản sẽ
không mong gì hơn là tinh thần hòa giải và hòa hợp dân tộc được thực hiện một
cách thành thực. Thí dụ như tại sao họ không lật lọng tại Ba Lan như họ đã từng
lật lọng? Tại sao ở Hungary trước đây họ đã từng lật lọng nhưng bây giờ lại
không lật lọng? Tại Romania ngày trước họ gian xảo bao hiêu bây giờ họ ngoan
ngoãn bấy nhiêu? Đó là vì họ ở trong thế yếu. Chúng ta bị phản bội vì
chúng ta yếu. Trách nhiệm ở đâu? Nếu chúng ta nhìn lại thì sau Thế chiến thứ
hai có hai quốc gia ở châu Á -Cao Ly và Việt Nam- có một nền văn hóa giống
nhau, có mức độ phát triển tương đương với nhau và cùng bị chia cắt bởi
cùng một làn ranh ý thức hệ. Trong cả hai nước chế độ cộng sản miền Bắc đã gây
chiến để thôn tính nền dân chủ non trẻ ở phía Nam. Trong cả hai trường hợp
Hoa Kỳ và thế giới đã can thiệp rất mạnh mẽ để ủng hộ miền Nam. Thế nhưng kết
quả đã rất khác, hai cuộc chiến đã kết thúc rất khác ở Cao Ly và ở Việt Nam, và
Hàn Quốc đã có tương lai khác hẳn với Việt Nam. Vì sao ? Bởi vì trí thức
Việt Nam không bằng trí thức Đại Hàn, trí thức Việt Nam thua xa trí thức Đại
Hàn. Như vậy thay vì lý luận quanh co là Đảng Cộng Sản lật lọng, điều ai cũng
biết, chúng ta nên nhìn vào cái lý do căn bản hơn là vì chúng ta yếu cho nên Đảng
Cộng Sản mới có khả năng và dám phản bội.
Đây là
dịp để nhìn lại lý do tại sao chúng ta yếu. Đó là vì trí thức Việt Nam ảnh hưởng
của văn hóa Khổng giáo quá nặng nề nên không có kiến thức chính trị. Chế độ Khổng
Giáo xét cho cùng nó cũng tương tự như chế độ cộng sản, nó cũng bất dung và
toàn trị như chế độ cộng sản thôi. Trí thức Việt Nam lớn lên theo văn hóa làm
quan. Người trí thức Việt Nam có thể có bằng cấp cao, có kiến thức chuyên môn
cao nhưng về chính trị cũng gần như những người vô học, cũng không khác gì người
dân. Trí thức Việt Nam quan niệm chính trị như một trò chơi để tranh giành công
danh chứ không phải là một trách nhiệm đối với xã hội. Đó mới là nguyên nhân
đưa đến sự yếu kém của sức đề kháng của nhân dân Việt Nam. Xét cho cùng thì Wilson
Churchill đã có một câu nói đúng là dân tộc nào cũng xứng đáng với chế độ mà họ
có. Dân tộc nào cũng cần có một đội ngũ trí thức chính trị để lãnh đạo họ.
Nhưng Việt Nam đã thiếu tầng lớp trí thức chính trị đó. Trí thức Việt Nam do đó
không làm được bổn phận của mọi trí thức là lãnh đạo dân tộc. Chứ không phải là
đảng cộng sản gian trá, phản trắc, điều đó ai cũng biết không cần phải nhắc lại
nữa. Điều mà chúng ta phải nhắc lại nhiều lần là chúng ta phải có một sức bật mới ;
phải có một cuộc cách mạng văn hóa để cho những người trí thức Việt Nam hiểu rằng
chính trị không phải cứ tự nhiên là có thể làm được. Chính trị là một bộ môn rất
khó, đòi hỏi những cố gắng học hỏi và trải nghiệm rất lớn. Nếu chúng ta ý thức
được điều đó thì không có gì đáng lo sợ cả. Tôi nghĩ rằng ngày nay chúng ta có
hy vọng. Chúng ta cần tổ chức lại thành một đội ngũ những người trí thức hiểu
biết những vấn đề của đất nước; hiểu thế nào là một quốc gia, một dân tộc;
làm thế nào đưa đất nước đi lên; những yếu tố nào khiến một quốc gia suy vong
hoặc hưng thịnh; chúng ta đang sống trong bối cảnh thế giới bối nào đang đứng
trước những thử thách nào và đang có những hy vọng nào v.v. Nếu có một tầng lớp
trí thức như thế – mà tôi thấy đang có – thì chúng ta không sợ sự lật lọng
của đảng cộng sản. Họ không còn khả năng để lật lọng nữa.
Vấn đề
là giữa người Việt Nam với nhau là trước hết chúng ta phải hòa giải với nhau,
phải nhận ra những khuyết điểm của mình, chúng ta phải tha thứ cho nhau, nhận
nhau là anh em trong một cố gắng chung để xây dựng một tương lai chung. Điều đó
mới là điều căn bản.
*
TQT :
Sau một giai đoạn chiến tranh khốc liệt 1945 – 1975,
những người cộng sản họ tự hào rằng họ đã đánh thắng hai đế quốc to là Pháp và
Mỹ để đưa non sông về một dải. Họ cũng tự hào là đánh cho cả Liên Xô và Trung
Quốc, cho Quốc Tế Cộng Sản.
Còn những người Việt Nam yêu nước, những người đã từng
sống dưới chế độ Việt Nam Cộng Hòa bị cộng sản xâm chiếm, tước đi quyền tự do họ
đang có, và hiện nay kể cả những người ở miền Bắc đã từng sống dưới chế độ cộng
sản cũng thấy mình là nạn nhân của chế độ cộng sản, thì nghĩ đến ngày quốc hận.
Còn ông Nguyễn Gia Kiểng nghĩ sao, nên đặt tên cho ngày 30/4/1975 là ngày
gì ?
NGK: Đây chắc chắn không
phải là ngày chiến thắng như Đảng Cộng Sản đã rêu rao đâu. Phải tăm tối
như ông Nguyễn Tấn Dũng trong ngày 30-4 năm ngoái mới có thể huênh hoang mà nói
đó là ngày đại thắng, ngày “đánh cho Mỹ cút – đánh cho ngụy nhào” ?!
Tôi nghĩ ngày nay đa số đảng viên cộng sản cũng không còn coi ngày 30/4 như một
ngày chiến thắng để mà khoe khoang nữa đâu. Cùng lắm nó đã là một ngày chiến thắng
cho Đảng Cộng Sản, nhưng đối với dân tộc Việt Nam nó đã là một ngày khởi đầu
cho một giai đoạn đen tối, đầy những mất mát và đổ vỡ. Đối với dân tộc Việt
Nam, đối với đất nước Việt Nam đó là một ngày buồn.
Nó có
phải là một ngày thống nhất như họ nói hay không ? Theo nghĩa đen thì nó
đúng là một ngày thống nhất. Nhưng tôi không nghĩ là ngày 30/4 xứng đáng với
tên gọi này vì mới chỉ thống nhất về mặt địa lý và hành chính thôi chứ không có
thống nhất trong lòng người, trong ý chí xây dựng một tương lai chung.
Nhiều
người, và nhất là ở hải ngoại, nói là một ngày quốc hận. Tôi nghĩ không nên gọi
30/4 là một ngày quốc hận. Đúng là chúng ta có rất nhiều điều để ân hận. Chúng
ta đã bỏ lỡ nhiều cơ hội và đã để đất nước rơi vào thảm kịch. Nhưng trong
tiếng Việt chữ “hận” cũng có nghĩa là hận thù, mà hận thù là điều chúng ta phải
xóa bỏ một cách dứt khoát và vĩnh viễn nếu muốn quốc gia Việt Nam còn có thể tồn
tại và vươn lên
Dầu sao
thì ngày 30/4/1975 cũng vẫn là một ngày của một biến cố lịch sử rất lớn. Theo
tôi nên coi đó là một ngày để cả nước suy nghĩ về đất nước mình và để rút ra những
bài học cho tương lai.
Tôi
hình dung ngày 30/4 sau này là một ngày nghỉ. Cả nước sẽ cùng hồi tưởng lại cuộc
nội chiến. Sẽ có những cuộc hội thảo tại các trường đại học. Tại đảo Côn Sơn sẽ
có một ngày lễ lớn dưới chân một tượng lớn của bà mẹ Việt Nam nhìn ra biển cả để
tưởng nhớ những đứa con đã bỏ mình trên biển cả trong lúc đi tìm tự do. Trên khắp
mọi miền đất nước người ta sẽ tới thắp hương, đặt hoa trên mộ các nạn nhân thuộc
cả hai phía trong cuộc chiến này. Ở ngoài phố người ta chào hỏi nhau, bắt tay
nhau trong tình anh em và bạn bè để biểu lộ một ý chí chung là xây dựng một đất
nước Việt Nam có chỗ đứng, có tiếng nói và có niềm tự hào cho tất cả mọi người.
Theo
tôi nên gọi ngày 30/4 là ngày hòa giải và hòa hợp dân tộc.
TQT: Xin
cảm ơn ông Nguyễn Gia Kiểng
No comments:
Post a Comment