Trần Minh Khôi
Posted
on April 20, 2016 by editor
— No
Comments ↓
Bàn về
Hùng Vương không phải là bàn về lịch sử. Tôi nhận ra điều này nhiều năm trước
khi đang toan tính viết một cuốn sách về đề tài này. Cuốn sách có cái tựa đề
khá dại dột, “Đi tìm Lộc Tục”. Cuộc đời là một chuỗi của những chuyện đi
tìm. Tìm đủ mọi thứ trên trời dưới đất. Ai cũng có cái để tìm. Tôi bao giờ cũng
cố tìm cho mình cái gì đó để tìm. Rồi một ngày xấu trời nào đó tôi có ý định
tìm Lộc Tục.
Cái cố
gắng thơ ngây đó được bắt đầu với sự bực mình với cái di sản văn hóa chính trị
mà mình đang thừa hưởng. Ý thức hệ dân tộc là nền tảng của mọi thành quả và của
mọi cố gắng, ngay cả những cố gắng vô thức. Mục đích của “Đi tìm Lộc Tục”
là xác định lại một ý thức hệ dân tộc khác, một ý thức hệ dân tộc có thể làm
mình cảm thấy dễ chịu hơn. Trong tiến trình thu thập tài liệu cho cuốn sách
này, tôi khám phá ra một điều lý thú, nếu không muốn nói là bi kịch: cái ý thức
hệ dân tộc mà chúng ta đang có là sản phẩm của một hệ thống tư duy ngoại nhập
có tên gọi là chủ nghĩa dân tộc. Tôi nhận ngay ra rằng cái cố gắng “đi tìm” một
ý thức hệ dân tộc khác của tôi vẫn chưa thoát khỏi cái vòng kim cô đó. Tôi bỏ.
Gần mười
năm sau nhìn lại, tôi thấy vui vui vì đã không mất thêm thời giờ nữa cho chuyện
này. Cuộc tìm kiếm “cội nguồn dân tộc” là một cuộc tìm kiếm vô vọng. Nó không
phục vụ mục đích nào ngoài mục đích phụng sự một thứ quyền lực nào đó để khỏa lấp
cái thấp thỏm không nguôi của những tâm thức đã bị làm ươn hèn đi vì chính cái
ý thức hệ do quyền lực đó đặt để. Bàn về Hùng Vương, hay Lộc Tục, là bàn về một ý thức hệ chính trị.
Chúng ta càng sớm hiểu ra điều này thì càng đỡ mất thời gian.
Nhưng
xôn xao trong mấy ngày qua về Lễ hội Đền Hùng cho thấy rằng chúng ta vẫn cứ phải
mất rất nhiều thời gian nữa cho đề tài này. Chịu thôi. Chừng nào quyền lực vẫn
được duy trì trên những thứ bung xung này, và với chúng còn có nhiều người được
hưởng lợi, thì chừng đó chúng ta vẫn phải cứ mất thời giờ. Mỗi khi nghe ai đó
nói đến “cội nguồn”, tôi vẫn cứ giật mình: lại thêm một cuộc tìm kiếm vô vọng nữa.
Tôi
đăng lại cái Lời Tựa của cuốn sách bỏ dở đó dưới đây. Cũng chẳng để làm
gì cả, ngoài sự nhắc nhở rằng mình đang sống trong một không gian mà ở đó thời
gian bị tiêu hoang vào những chuyện không đâu…
Lời
tựa một cuốn sách không viết (2008)
Hùng
Vương.Nguồn: blog.tqdesign.vn
“Đế
Minh cháu ba đời họ Viêm Đế Thần Nông sinh ra Đế Nghi, sau nhân đi tuần về phía
Nam đến núi Ngũ Lĩnh lấy được con gái bà Vụ Tiên rồi trở về, sinh ra Lộc Tục.”
Và như
thế, Huyền Thoại Hồng Bàng, từ khi xuất hiện trong Lĩnh Nam Chích Quái và bước
vào chính sử với Kỷ Hồng Bàng Thị của Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, đi vào vô thức của
người Việt Nam như một căn cước mới về cội nguồn. Lộc Tục, Kinh Dương Vương của
nước Xích Quỷ, được coi vị vua đầu tiên và là thủy tổ của người Lạc Việt. Năm
trăm năm kế tiếp, các thế hệ Lạc Việt tiếp tục cuộc hành trình của mình trong sự
yên ổn của căn cước mới đó.
Những
thập niên cuối của thế kỷ 15 đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong lịch sử của
người Lạc Việt. Sau hơn một ngàn năm tự chuyển mình để tách rời khỏi quỹ đạo của
người Hán bằng một căn cước quốc gia mới, và gần bốn trăm năm kế tiếp đấu tranh
duy trì và phát triển căn cước đó dưới triều đại Lý-Trần, người Lạc Việt tự
nguyện trở lại trong quỹ đạo của người Hán dưới Triều Lê. Căn cước Hồng Bàng xuất
hiện cùng lúc với sự thiết lập thế thượng phong của Nho Giáo trong chính trường
nhà nước Đại Việt. Triều đại Vua Lê Thánh Tông được các sử gia đời sau đánh giá
là một giai đoạn cực thịnh của nền phong kiến Đại Việt. Sự cường thịnh này được
xây dựng trên ba yếu tố (Chương 5): sự tự tin từ một căn cước quốc gia mới, kỷ
cương của chính trị Nho Giáo, và kỹ nghệ thuốc súng. Lực lượng quân sự hùng mạnh
của Đại Việt thiêu rụi kinh đô Vijaya (Trà Bàn) và kết thúc cuộc xung đột năm
trăm năm với Chăm Pa. (Cuộc xung đột này, ở mực độ thấp hơn, kéo dài thêm bốn
trăm năm nữa trước khi Chăm Pa hoàn toàn bị xóa tên năm 1835 dưới thời Minh Mạng,
như sẽ nói về sau). Các đoàn quân viễn chinh của Đại Việt tây tiến chinh phạt
Ai-Lao, Lan Sang, đặt chân lên vùng đất xa xôi bên dòng sông Irrawaddy của
Vương Quốc Ava (Miến Điện). Sự bành trướng của Đại Việt trở thành một mối lo
không nguôi của người phương Bắc.
Rồi như
một ánh sao băng qua bầu trời, thời đại được coi là hoàng kim đó của nền chính
trị phong kiến của người Lạc Việt suy tàn rất nhanh. Thế kỷ 16 là điểm bắt đầu
của những tranh chấp quyền lực khốc liệt trong chính trường Đại Việt. Nội chiến
triền miên từ đó và kéo dài suốt mấy trăm năm kế tiếp; chiến tranh Trịnh – Mạc,
Trịnh – Nguyễn, Nguyễn – Tây Sơn. Tiến trình Hán hóa được áp dụng triệt để hơn
từ khi Gia Long thống nhất đất nước (Chương 5). Khi tàu chiến Pháp xuất hiện
ngoài khơi Đà Nẵng thì, bên trong cái vỏ bọc Hán Nho cằn cỗi, nguyên khí Lạc Việt
đã cạn kiệt.
Lịch sử
quốc gia nào cũng đầy rẫy những cuộc chiến tranh; chiến tranh chống nhau và chống
ngoại xâm. Chống nhau là để giải quyết vấn đề căn cước “ta là ai”. Chống ngoại
xâm là để bảo tồn căn cước đó, là để khẳng định “ta muốn ta đang là”, hoặc chí
ít, nói theo Trần Bình Trọng, “ta thà làm ma nước Nam…”.
Từ khi
Huyền thoại Hồng Bàng xuất hiện, người Lạc Việt ngủ quên trong sự yên ổn giả tạo
về một căn cước của huyền sử được vay mượn (Chương 5). Trong năm trăm năm kế tiếp,
vấn đề căn cước quốc gia không còn được đặt ra nữa. Từ đó đến nay, các sử gia
Việt chỉ quan tâm đến loại chiến tranh thứ nhất. Và sử Việt, cho đến bây giờ, vẫn
chỉ được hiểu là lịch sử của những cuộc chiến tranh chống ngoại xâm.
Thực tế
cho chúng ta một bức tranh hoàn toàn khác.
Nếu phải
thống kê tất cả cố gắng, sinh mạng, tài nguyên, nghị lực, và thời gian của người
Việt Nam đã đổ ra vì chiến tranh kể từ khi giành lại được độc lập từ người Hán,
thì chiến tranh chống Hán chỉ chiếm một phần rất nhỏ. Phần rất lớn còn lại họ
dành cho những cuộc chiến tranh chống nhau, nghĩa là chiến tranh để tiếp tục giải
quyết vấn đề “ta là ai”.
Một
ngàn năm vừa qua, người Việt Nam có chiến tranh với người Hán mười lần: Nhà Ngô
đánh Tống, Nhà Tiền Lê đánh Tống, Nhà Lý đánh Tống, Nhà Trần ba lần đánh quân
Nguyên, Chăm Pa đánh quân Nguyên, Nhà Hậu Lê đánh quân Minh, Quang Trung đánh
Thanh, Quân đội Nhân dân Việt Nam đánh Trung Quốc. Tổng cộng chưa đầy năm mươi
năm. Chín trăm năm mươi năm còn lại, người Lạc Việt, và người Việt Nam sau này,
đánh nhau và đánh nhau liên tục (Chương 6). Cuộc chiến tranh cuối cùng chỉ mới
chấm dứt cách đây hơn ba mươi năm.
Thời đại
của chính trị Nho giáo và sự vượt trội của kỹ thuật thuốc súng đã ra đi từ rất
lâu. Nhưng Huyền Thoại Hồng Bàng ở lại (cùng với di sản xơ cứng của Nho giáo).
Người Việt Nam ở thế kỷ 21 vẫn tin rằng cái căn cước quốc gia huyền thoại đó đã
đem lại cho họ sức mạnh và ý chí để đánh bại tất cả những âm mưu thôn tính của
người Hán trong suốt hơn hai ngàn năm lịch sử và sẽ tiếp tục giúp họ chống lại
mối hiểm họa đó. Đây là một niềm tin mang màu sắc tôn giáo, không được lịch sử
minh chứng, của người Việt Nam thời hiện đại.
Trên thực
tế, ngoài hai cuộc chiến chống Hán rất ngắn sau cùng, Nguyễn Huệ đánh bại Tôn
Sĩ Nghị và Quân đội Nhân dân Việt Nam chặn đứng quân Trung Quốc ở biên giới
phía bắc năm 1979, những
chiến thắng hào hùng nhất của người Lạc Việt chống lại người Hán đều xảy ra trước
khi Huyền Thoại Hồng Bàng xuất hiện. Huyền Thoại Hồng Bàng hoàn toàn vắng
bóng trong những áng hùng ca oanh liệt nhất của người Lạc Việt; Nam Quốc Sơn Hà
của Lý Thường Kiệt (hoặc của ai đó thời Lê Hoàn), Hịch Tướng Sĩ của Trần Hưng Đạo,
Bình Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trãi. Những người con kiệt xuất này của người Lạc
Việt có biết mình là con cháu của dòng dõi Hồng Bàng?
Tôi
không phải là một người nghiên cứu lịch sử chuyên nghiệp. Tôi đi tìm sử một
cách tình cờ khi đang đi tìm một điều gì đó khác. Trong cuộc đời mỗi người ai
cũng có những lúc nhìn lại mình và không yên lòng với cái mình đang có. Tôi
không yên lòng với cái “ta là ai” mà mình đang thừa hưởng. Lịch sử như những
chuỗi sự kiện tồn tại khách quan khác với cái lịch sử đã được tiêu hóa và trở
thành một thứ ký ức cội nguồn tồn tại trong vô thức. Chính cái ký ức cội nguồn
này, ở mỗi cá nhân và ký ức tập thể, là động lực và sự thôi thúc đằng sau mỗi
hành xử, mỗi lựa chọn trong cuộc hành trình về tương lai. Tương lai, do đó,
không thể vượt qua sự giới hạn của ký ức lịch sử. Và bất cứ một sự kiện nào
cũng đã từng là tương lai, và đã chịu tác động của ký ức cội nguồn, của một thời
điểm trước đó.
Vậy ký ức
nào đã thôi thúc Vua Lê Thánh Tông và quần thần, khi đang ở tột đỉnh vinh quang
của kẻ chiến thắng, ra lệnh tàn sát hàng chục ngàn sinh linh Chăm Pa đã chiến bại
dưới vó ngựa của mình (và bắt vài chục ngàn người khác đưa về đất bắc)?
Hoặc,
năm trăm năm sau, ký ức nào đã thôi thúc những người cộng sản miền bắc, sau khi
đã chiến thắng, đã kết thúc chiến tranh và thống nhất đất nước, đày đọa hàng
trăm ngàn người anh em không cộng sản miền nam của mình trong lao tù?
Có phải
từ sự ngộ nhận “ta là ai” nào đó, rồi nhân danh một điều gì đó khác, để hành xử
như thế? Khi chị em Trưng Vương đứng lên lãnh đạo các Lạc tướng đánh đuổi Tô Định
về đất Hán, chiếm lĩnh sáu mươi lăm thành của đất Lĩnh Nam và lập đô ở Phong
Châu, thì ở miền cực nam của đất nước, vương quốc Phù Nam, vương quốc đầu tiên
của Đông Nam Á, ra đời. Phù Nam là điểm giao lưu của các nền văn minh cổ Trung
Quốc, Ấn Độ, và La Mã. Lãnh thổ Phù Nam kéo dài đến bán đảo Mã Lai (Chương 3).
Nhà nước Phù Nam ngày nay đã biến mất trong dòng lịch sử nhưng người Phù Nam
xưa đi đâu?
Khi người
Lạc Việt đang quằn quại dưới ách đô hộ của người Hán ở đất bắc thì ở miền trung
những người anh em Lâm Ấp, Chăm Pa đã lập quốc và dựng nên những nền văn minh đặc
sắc (Chương 3). Lâm Ấp, Chăm Pa cũng đã biến mất với thời gian nhưng người Lâm Ấp,
Chăm Pa xưa đi đâu? Họ không đi đâu cả. Người Phù Nam, người Lâm Ấp, người Chăm
Pa xưa vẫn sống trên quê hương của họ (ngoài số người Chăm chạy trốn sự tàn sát
của Đại Việt đã di dân sang Hải Nam, Campuchia, và Mã Lai). Con cháu của họ,
các tộc dân thiểu số hiện nay ở Tây Nguyên và nhiều nơi khác ở miền Nam, đã trở
thành một phần máu thịt của quốc gia Việt Nam hiện đại (Chương 7).
Văn hóa, kiến trúc Chăm Pa ở Mỹ Sơn. Nguồn:
everywhereonce.com
Có những
sự kiện thoáng nhìn có vẻ tình cờ nhưng thực chất vẫn nằm trong dòng chảy vĩ mô
của quá khứ và hiện tại. Sự kiện Việt Nam trở lại với Cộng đồng Đông Nam Á cuối
thế kỷ 20 là một sự kiện như thế. Sau hơn hai ngàn năm làm phên giậu để bảo vệ
Đông Nam Á khỏi sự xâm lăng và đồng hóa của người Hán, có lúc phải nhìn vào kẻ thống
trị để xác định mình, và cũng đã có lúc tự nhận mình là người từ phương Bắc,
chúng ta đã trở về với cội nguồn đích thực của mình. Và chúng ta cần một căn cước
quốc gia mới (Chương 7).
Tôi
không viết sử, hiểu theo nghĩa hàn lâm của nó. Tôi chỉ lượm lặt lại những sự kiện
lịch sử đã có sẵn, lấy trực giác của mình mà xét, rồi dựng lên một lăng kính
nhìn về tương lai cho chính mình. Viết là tiếp tục tư duy chứ không là kết luận.
Cuộc hành trình của tôi chỉ mới bắt đầu. Tôi tin rằng mình không cô đơn. Tôi ghi
lại ở đây cuộc tìm kiếm đó như những chia sẻ cho những người bạn đồng hành
không cô đơn khác ở đâu đó như tôi.
Trước
khi biết mình là ai, tôi chọn khước từ cái mình không là. Tôi chọn sự dằn vặt
không yên về những khoảng trống lịch sử chứ không chọn sự yên ổn có được từ sự
khỏa lấp của huyền thoại, và của huyền thoại vay mượn.
Sự thiếu
vắng quan tâm đến sử là một trong những trở ngại lớn nhất trong cố gắng tìm về,
và cũng là mất mát lớn nhất, của người Lạc Việt. Người Lạc Việt có sử rất muộn,
muộn hơn cả người anh em Chăm Pa cả ngàn năm. Ký ức tập thể của chúng ta là một
mớ bung xung của sự lắng đọng vô thức của cái mình có, của cái mình tưởng mình
có, và của cái mình đã vay mượn quá lâu rồi tưởng của mình. Và chúng ta không
có sự đồng thuận về quá khứ. Mà sự đồng thuận về quá khứ là điều kiện cần cho bất
cứ một sự toan tính nào về một tương lai chung. Sự đồng nhất của ký ức lịch sử
tập thể là điều kiện cần cho mọi cố gắng xây dựng một tương lai chung như thế.
Tôi muốn
bày tỏ sự biết ơn đối với những tác giả của các tài liệu trong thư mục tham khảo
tôi dùng, và trích dẫn rất nhiều, trong cuộc tìm kiếm này. Bên cạnh đó, tôi
cũng muốn bày tỏ sự biết ơn với những sử gia và những người nghiên cứu không
chuyên khác, tác giả của hàng chục những bài báo khác liên quan đến sử Việt Nam
trên Internet mà tôi có dịp được đọc qua đâu đó nhưng không giữ lại nguồn. Sự
đam mê của họ nuôi dưỡng sự đam mê của chính tôi. Như đã nói, tôi chỉ làm công
việc của một người biên tập, nếu có sự trùng hợp nào giữa ý kiến của tôi với những
ý kiến khác ở đâu đó mà không được chú dẫn thì những ý kiến đó là của trước
tác. Tôi ghi ân tác giả.
Tôi
dùng các khái niệm “dân tộc”, “nhà nước”, “quốc gia”, “căn cước quốc gia”, …
trong khuôn khổ của sự đồng thuận tương đối về định nghĩa của các khái niệm này
trong khoa học chính trị. “Nước”, nếu được dùng trong một vài trường hợp nào
đó, có nghĩa của “đất nước” nhưng không có nghĩa “nhà nước”. Từ đó, có thể nói
đến “nước” Văn Lang của Vua Hùng nhưng khó có thể nói đến “nhà nước” Văn Lang.
Có thể nói đến “nước” Âu Lạc của An Dương Vương nhưng khó có thể nói đến “nhà
nước” Âu Lạc. Càng không có “dân tộc” Văn Lang hay “dân tộc” Âu Lạc.
Hai khái niệm “quốc gia” và “dân tộc” có một liên hệ tương quan nhưng không đồng nhất. Cả hai chứa đựng những ý niệm về sự chia sẻ một “quê hương”, chia sẻ những đặc điểm văn hóa, chia sẻ ký ức lịch sử và huyền thoại. Khái niệm “dân tộc” nhấn mạnh đến những huyền thoại về một nguồn gốc chung (A. Smith). Trong khi đó, khái niệm “quốc gia” chuyển tải các ý niệm về sự tồn tại của một nền văn hóa đại chúng, một nền kinh tế chung, những ý thức bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ – những phát minh mới của thời hiện đại. (“Dân tộc” không chuyển tải bất cứ một ý niệm nào về sự liên hệ chủng tộc hay dòng tộc. Dù chữ “tộc”, 族trong Hán-Việt gợi ý những liên hệ này).
Trong
ngôn ngữ của tôi, có “dân tộc Chăm”, “dân tộc Kinh” nhưng không có “dân tộc Việt
Nam”. (Các khái niệm “Việt tộc”, “dân tộc Việt” trong khuôn khổ “Bách Việt”
càng không có cơ sở). Tôi dùng “quốc gia Việt Nam” thay cho “dân tộc Việt Nam”,
một cụm từ mà nội hàm của nó không chứa điều tôi muốn chuyển tải.
Sự hình
thành của các nhà nước hậu thuộc địa thời hiện đại không dựa trên sự hình thành
của cộng đồng quốc gia mà dựa trên những di sản có tính dân tộc của một dân tộc
chiếm ưu thế (A. Smith). Căn cước của dân tộc chiếm ưu thế này được mặc nhận là
căn cước quốc gia, trong trường hợp của Việt Nam là dân tộc Kinh. Mô hình nhà
nước này vẫn là sự tiếp tục của mô hình “nhà nước-dân tộc” (ethnic-state) của
thời phong kiến tiền thuộc địa, thay vì mô hình “nhà nước-quốc gia”
(nation-state) hiện đại. Việt Nam không đi ra ngoài thông lệ này. Không phải ngẫu
nhiên mà khái niệm “dân tộc Việt Nam” vẫn giữ vị trí thượng tôn trong ngôn ngữ
chính trị của chúng ta. Việc tiếp tục sử dụng một cách lẫn lộn nội hàm của khái
niệm “dân tộc Kinh” cho “dân tộc Việt Nam”, “tự hào dân tộc” thay vì “tự hào quốc
gia”, vô tình trở nên một áp đặt đầy tính dân tộc lớn, cản trở tiến trình tìm
kiếm và xây dựng một căn cước quốc gia mới cho tất cả người Việt Nam sống trên
lãnh thổ Việt nam. Cuộc vận động chính trị xã hội hiện nay trên thực tế là sự vận
động để thay thế mô hình nhà nước-dân tộc bằng mô hình nhà nước-quốc gia.
Tôi
chia sẻ quan điểm của một số nhà xã hội học (Weber, Barth) cho rằng “dân tộc”
(ethnicity) là một định chế mang tính xã hội, là sản phẩm của các mối tương
quan của một cộng đồng dân với thế giới bên ngoài. Nội hàm của khái niệm “dân tộc”
thay đổi trong từng giai đoạn của lịch sử. Người Việt Nam cổ (người Lạc Việt,
người Chăm Pa, người Phù Nam) không có khái niệm “dân tộc”, nhưng nếu có thì
các khái niệm đó hoàn toàn khác với cái chúng ta có trong “dân tộc Việt Nam”.
Tôi
cũng muốn phân biệt rõ các khái niệm “Việt”, “Lạc Việt”, và “Việt Nam”. Tôi cố
gắng không dùng từ “Việt”, một từ người Hán đặt ra để chỉ các tộc dân phương
Nam mà chúng ta đã nhận làm quốc danh của mình, đứng độc lập để tránh sự nhầm lẫn
giữa “Bách Việt” và “Lạc Việt” hay “Việt Nam”. Tôi cố gắng nhấn mạnh một quan
điểm đã được minh chứng bằng khảo cổ, văn hóa, và ngôn ngữ là không thể có kết
luận về một căn cước văn hóa hay “dân tộc” nào chung cho các cộng đồng dân
phương nam mà người Hán gọi là “Việt” hay “Bách Việt” này (Chương 2). Các khái
niệm “người Lạc Việt” và “người Việt Nam” cũng khác nhau. “Người Lạc Việt” là để chỉ cộng đồng dân sống ở
miền bắc Việt Nam, Quảng Tây, và Quảng Đông trước sự ra đời của nhà nước Đại Việt
ở thế kỷ thứ 10. “Người Việt Nam”
bao gồm tất cả những người coi lãnh thổ nước Việt Nam hiện đại là quê hương
mình, bao gồm hậu duệ của người Phù Nam, người Lạc Việt, người Chăm Pa, người
Lâm Ấp, và các tộc dân khác.
Một điểm
quan trọng khác, và bạn đọc cũng sẽ dễ dàng nhận ra, là tôi không đề cập đến những
vấn đề của chủng tộc khi truy tìm căn cước quốc gia. Tôi quan niệm rằng tất cả
những ý tưởng xây dựng căn cước quốc gia dựa trên yếu tố đặc thù chủng tộc nào
đó đều mang màu sắc phát-xít. Hơn thế, tôi không tìm thấy dấu vết của khái niệm
“chủng tộc” trong việc hình thành nhà nước trong lịch sử chính trị Việt Nam.
Triệu Đà là người phương bắc nhưng vẫn được coi là hoàng đế đầu tiên của các
triều đại phong kiến Đại Việt. Sĩ Nhiếp là thái thú người Hán cai trị Giao Chỉ
vẫn được Đại Việt Sử Ký dành cho Kỷ Sĩ Vương. Chan-tan là người Ấn làm vua Phù
Nam. “Chủng tộc” chưa bao giờ là một yếu tố kết thành của căn cước người Lạc Việt,
người Chăm Pa, hay người Phù Nam xưa.
Gần
đây, với công trình nghiên cứu quan trọng về di truyền học của Giáo sư J.Y. Chu
và đồng nghiệp, và đặc biệt là sự ra đời của tác phẩm nổi tiếng Địa Đàng Phương
Đông (Eden in the East) của Stephen Oppenheimer, cuộc tranh luận “Bắc xuống Nam
hay Nam lên Bắc” lại trỗi lên mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Tôi tin rằng nền văn
minh lúa nước Đông Nam Á, từ trước thời đại băng hà, là cái nôi của các nền văn
minh Á châu khác. Tuy nhiên tôi không chia sẻ sự nồng nhiệt mang tính chủ nghĩa
dân tộc trong cố gắng cổ xúy những căn cước văn hóa vượt trội nào đó của người
Việt trong mối tương quan với người Hoa Hạ. Những cuộc thiên di của nhân loại
trong hơn một trăm năm mươi ngàn năm qua, trong đó có cuộc bắc di của người
Đông Nam Á cổ, chủng Austroloid, là đối tượng của những nghiên cứu khoa học, cần
thiết cho kho tàng kiến thức chung. Nó không thể là cơ sở nền tảng của việc
hình thành căn cước quốc gia. Cuộc tìm kiếm của tôi dừng lại ở cuối thời đại đồ
đá mới (neolithic), thời điểm có thể nhận diện được của những di sản văn hóa mà
chúng ta đang thừa hưởng.
…
…
VIDEO :
Hung
King Revolution - Đền Hùng Thất Thủ Official [Trailer]
Bao Vem - Published
on Apr 17, 2016
Đền
Hùng thất thủ | Dân Luận Film
Nếu
đăng lại, xin đọc “Thể lệ trích
đăng lại bài từ DCVOnline.net”
Nguồn: Về một cuộc tìm kiếm vô vọng.
Trần Minh Khôi | Facebook, April 17, 2016.
No comments:
Post a Comment