...Chính
lý tưởng và tầm nhìn đã giúp Lý Quang Diệu đưa Singapore từ một quốc gia bị trị,
phân hóa chính trị, CS hoành hành, xung đột chủng tộc, thiếu thốn tài nguyên
thiên thiên trở thành một nước hiện đại, được nhân loại khắp năm châu kính nể.
Lý
Quang Diệu, một lần, thừa nhận đã có can thiệp vào đời sống riêng tư của người
dân nhưng như ông biện luận “Vâng, nếu tôi không làm thế, chúng ta có thể
không có mặt ở đây hôm nay”. Đúng thế, lịch sử Singapore hiện đại đã chứng minh
một cách hùng hồn rằng Lý Quang Diệu có lẽ là lãnh đạo có lập trường quốc gia
duy nhất không những tồn tại mà còn xóa bỏ được cả một hệ thống CS tại
Singapore và đưa đất nước ông thăng tiến vượt lên trên phần lớn nhân loại...
*
Cựu
Thủ tướng Cộng Hòa Singapore Lý Quang Diệu được đưa vào bệnh viện hôm 5 tháng 2
vì bịnh viêm phổi trầm trọng. Chỉ vài hôm sau, ông được chuyển qua hệ thống duy
trì sự sống (life support). Theo nhiều nguồn tin, hai năm trước đây ông đã thêm
vào di chúc một đoạn trong đó ông không muốn kéo dài sự sống vô nghĩa bằng cách
này. Theo thông báo của chính phủ Singapore “ông qua đời trong thanh thản” tại
Tổng Y Viện Singapore lúc 03:18 sáng, giờ địa phương thứ Hai 23/3/2015, thọ 91
tuổi. Lý Quang Diệu là Thủ tướng đầu tiên của Singapore và mất vào năm kỷ niệm
50 năm độc lập của quốc gia này.
Các
thành tựu kinh tế
Về
đối ngoại, hầu hết các chính trị gia thế giới từ Margaret Thatcher của Anh trước
đây đến Barack Obama của Mỹ hiện nay đã từng ca ngợi Thủ tướng Lý Quang Diệu.
Ông có một tầm nhìn rất xa không chỉ vào tương lai Singapore mà cả chính trị
khu vực Á Châu và Thái Bình Dương. Từ đầu năm 1994, Lý Quang Diệu đã thấy trước
sự căng thẳng trong vùng biển Đông.
Về
đối nội, mặc dù nhiều chính sách cứng rắn của Lý Quang Diệu tạo nên nhiều tranh
luận và phê bình, ông có một niềm tin vững chắc vào khả năng lãnh đạo của chính
mình và tiềm năng của nhân dân Singapore để cùng đưa quốc gia rất nhỏ bé và bị
bao quanh bởi các quốc gia thù địch thành một trong những nước giàu có nhất thế
giới. Ngày nay, Singapore, quốc gia có dân số 5.5 triệu, là một trong những
trung tâm thương mại lớn nhất thế giới, một trong năm cảng thương mại bận rộn
nhất thế giới và có lợi tức đầu người cao thứ ba trên thế giới.
Một
danh sách dài của những bảng danh dự mà các thống kê, các tổ chức kinh tế, tài
chánh, thương mại quốc tế dành cho Singapore trong nhiều lãnh vực. Chẳng hạn,
World Bank xếp Singapore vào hạng nhất trên thế giới về dễ dàng làm thương mại
(The ease of doing business) và giữ vị thứ này suốt 7 năm liền; Singapore được
xếp hạng ba trên thế giới về quốc gia cạnh tranh nhất (Most competitive country
in the world); Singapore đứng hạng nhất về bảo vệ tài sản trí tuệ (The best
protection of intellectual property); WHO (World Health Organization) năm 2010
xếp Singapore hạng nhì về tỉ lệ tử vong thấp trong thiếu nhi; Tổ chức Minh Bạch
Quốc Tế (Transparency International: Corruption Perceptions Index) năm 2010 xếp
Singapore vào hạng quốc gia trong sạch nhất. Và rất nhiều bảng danh dự quốc tế
khác.
Thành
tựu lớn nhất của Lý Quang Diệu chưa hẳn là thành tựu kinh tế
Reihan
Salam, Chủ bút điều hành của National Review Institute và tác giả nhiều tác phẩm
chính trị, trong phân tích và cũng là kết luận Thành Tựu Lớn Nhất Của Lý
Quang Diệu Chưa Hẳn Là Thành Tựu Kinh Tế của Singapore (Lee Kuan Yew’s
Greatest Accomplishment May Not Have Been Singapore’s Economic Success) đăng
trên National Review sáng 23/3/2015 vừa qua.
Theo
Reihan Salam, trong những năm trước 1959, xã hội Singapore chịu đựng tình trạng
xung đột chủng tộc giữa các sắc dân Ấn, Mã Lai và Trung Hoa không chỉ về kinh tế
mà trong cả văn hóa, tôn giáo. Ngoài ra, sự phân liệt trầm trọng diễn ra trong
sinh hoạt chính trị với đa số thành phần CS và thân Cộng là người gốc Hoa trong
khi đa số thành phần chống Cộng là gốc Mã Lai. Thế nhưng, ngày nay có thể nói
không một quốc gia nào mà nơi đó người dân thuộc thành phần thiểu số cảm thấy
an toàn hơn tại Singapore và gần một nửa số người đang sống yên ổn tại
Singapore vốn sinh ra tại nước ngoài. Sự an toàn, ổn định và hòa hợp đó sẽ
không xảy ra nếu quốc gia này nằm trong tay CS. Thành tựu lớn nhất của cố Thủ
tướng Lý Quang Diệu, do đó, phải là thành tựu ngăn chận được sự phát triển của
phong trào CS tại Singapore.
Lịch
sử phong trào CS tại Mã Lai và Singapore
Năm
1927, năm cán bộ CS Trung cộng được phái tới Mã Lai để thành lập đảng CS
Nanyang (Mã Lai, Singapore) với tầm hoạt động bao gồm cả Thái Lan, Đông Dương
và các thuộc địa Đông Ấn thuộc Hòa Lan. Năm 1930, Đệ Tam Quốc Tế CS (1919-1943)
tổ chức một hội nghị tại Singapore, giải tán đảng CS Nanyang và thành lập đảng
CS Mã Lai. Cùng thời gian này, đảng CSVN cũng thuộc Đệ Tam Quốc Tế được thành lập.
Địa
bàn hoạt động của đảng CS Mã Lai bao gồm Mã Lai, Singapore và lan rộng tận Thái
Lan. Chương trình hành động của đảng CS Mã Lai gắn liền với điều kiện chính trị
tại Trung cộng và đảng CSTQ bởi vì đa số đảng viên CS Mã Lai là người gốc Hoa.
Những năm hòa hoãn giữa đảng CSTQ và Quốc Dân Đảng Trung Hoa để chống Nhật, đảng
CS Mã Lai có cơ hội hoạt động mạnh hơn. Năm 1939, đảng CS Mã Lai có khoảng 40 ngàn
đảng viên với một nửa số đó hoạt động tại Singapore. Tài liệu của đảng CSVN
không ghi thống kê của năm 1939 nhưng trong giai đoạn 1935 đảng chỉ có 600 đảng
viên. So sánh để thấy, hoạt động của đảng CS Mã Lai lúc bấy giờ mạnh đến dường
nào.
Các
đảng CS thuộc Đệ Tam Quốc Tế, trong đó có Việt Nam và Mã Lai, thực thi một chiến
lược giống nhau do Lenin vạch ra trong Cương lĩnh của Quốc tế Cộng sản được chấp
thuận tại đại hội Đệ Tam Quốc Tế lần thứ nhất vào năm 1919 và Luận Cương về Vấn
đề Dân Tộc và Thuộc Địa do Lenin đọc tại đại hội của Đệ Tam Quốc Tế CS lần thứ
2 vào năm 1920. Chấp hành đường lối quốc tế đó, đảng CS tại các nước thuộc địa
dùng cơ hội hợp tác với chính quyền chống ngoại xâm để phát triển đảng một cách
công khai. Mã Lai-Singapore chống Anh, Trung Hoa chống Nhật và Việt Nam chống
Pháp. Đảng CS mượn chiếc cầu chống thực dân và lợi dụng lòng yêu nước của các tầng
lớp nhân dân để đạt mục đích tối hậu là thiết lập chế độ CS trên phạm vi cả nước.
Lai
Teck, Tổng bí thư đảng CS Mã Lai có máu Việt Nam
Khi
Thế chiến thứ hai bùng nổ, đảng CS Mã Lai tuyên bố hợp tác với chính quyền bảo
hộ Anh để bảo vệ Singapore. Nhiều đảng viên CS Mã Lai được Anh huấn luyện quân
sự. Lai Teck, Tổng bí thư đảng CS Mã Lai nhưng thực chất là một gián điệp làm
việc cho nhiều cơ quan tình báo chống CS. Y có máu Việt Nam với cha là người Việt
và mẹ là người Hoa. Lai Teck sinh tại Việt Nam và có tên thật là Trương Phước
Đạt. Y từng làm việc cho cơ quan mật thám Pháp và xâm nhập đảng CSVN. Sau
khi toàn thành nhiệm vụ Pháp chuyển Lai Teck sang cho tình báo Anh và tình báo
Anh chỉ thị y xâm nhập vào đảng CS Mã Lai năm 1935. Lai Teck có một tiểu sử đầy
kỳ bí và nhiều câu hỏi về nhân vật này vẫn chưa được ai trả lời thỏa mãn.
Khi
Singapore rơi vào tay Nhật, Tổng bí thư Lai Teck bị Nhật bắt và trong giai đoạn
này y lại bí mật hợp tác với Nhật. Sau Thế chiến thứ hai, Lai Teck vẫn tiếp tục
hoạt động trong đảng CS. Mãi cho đến 1947, khi quá khứ bị phanh phui, Lai Teck
bỏ trốn sang Thái. Chin Peng, Tổng bí thư mới của đảng CS Mã Lai yêu cầu các đảng
viên CS Thái và CS Việt Nam đang hoạt động trên đất Thái truy lùng Lai Teck. Cuối
cùng, một tổ ám sát CS Thái tìm ra và siết cổ y chết tại Bangkok. Xác của Lai
Teck được ném xuống sông Chao Phraya năm 1947. Năm đó Lai Teck 44 tuổi.
Cộng
sản Mã Lai và Singapore sau Thế chiến thứ hai
Giống
như tại Việt Nam, khi Nhật rút lui nhưng Đồng Minh chưa đến, các nhóm CS Mã Lai
xuất hiện, nhất là trong các khu người Hoa. Các đảng viên CS này được chào đón
như những anh hùng cứu tinh dân tộc. Đảng CS tịch thu vũ khí do Nhật để lại và
tuyển dụng đảng viên một cách công khai. Những “trung đoàn” CS trong thời chiến
mỗi đơn vị chỉ hơn một trăm lính đã lên đến con số 6 ngàn trong một thời gian
ngắn.
Khi
chính quyền bảo hộ Anh được tái lập tại Singapore và ra lệnh đảng CS Mã Lai phải
giao nạp vũ khí và giải tán các “trung đoàn” CS. Đảng CS buộc phải đồng ý giải
tán nhưng cũng giấu đi nhiều vũ khí. Theo lịch sử đảng CS Mã Lai, các “trung
đoàn” phải giải tán vì thiếu hàng ngũ cán bộ chính trị viên để nắm vững phần tư
tưởng của đảng viên, nhưng dù sao đó cũng là một quyết định sai lầm của đảng.
Trong khi đó tại Việt Nam, đảng CS lợi dụng khoảng trống cuối Thế chiến thứ hai
để chiếm Hà Nội và vài thành phố khác qua biến cố gọi là “Cách mạng Mùa Thu”.
Sau
thời kỳ Lai Teck, Chin Peng, 27 tuổi, một lãnh đạo CS Mã Lai gốc Hoa lên nắm
quyền Tổng bí thư và chuyển sang đấu tranh bạo động, bao gồm ám sát và khủng bố.
Chính quyền phản ứng mạnh qua các chiến dịch truy lùng các lãnh đạo đảng nhưng
Chin Peng trốn thoát. Đảng CS Mã Lai thành lập một tổ chức ngoại vi có tên Mặt
Trận Giải Phóng Dân Tộc Mã Lai. Chính quyền Mã Lai áp dụng chính sách cắt nguồn
tiếp tế cho CS bằng cách đưa dân về các “Khu tân lập” được bảo vệ an ninh chặt
chẽ. Sau lần đàm phán thứ nhất để giải quyết xung đột trong hòa bình thất bại,
các lực lượng CS rút lui dần về biên giới Thái. Theo ước đoán của Bộ Ngoại giao
Mỹ, số đảng viên CS Mã Lai trong giai đoạn này chỉ còn vào khoảng 2 ngàn người.
Anh trao trả độc lập hoàn toàn cho Mã Lai ngày 31 tháng 8 năm 1957 nhưng vẫn tiếp
tục bảo hộ Singapore.
Lý
Quang Diệu và CS Singapore
Năm
1950, sau khi học xong ngành luật tại Fitzwilliam College, Cambridge, Anh, và
hoàn tất chương trình thực tập luật, Lý Quang Diệu được nhận vào luật sư đoàn
Anh nhưng ông đổi ý định hành nghề ở Anh và về nước. Chàng luật sư 27 tuổi Lý
Quang Diệu trở lại quê hương mang theo một tấm lòng yêu nước, lý tưởng công bằng
xã hội, ý chí quyết tâm và tầm nhìn xa vào tương lai Singapore.
Lý
Quang Diệu là một trong ba người thành lập Đảng Hành động Nhân dân Singapore
(People Action Party, gọi tắt là PAP) vào ngày 21 tháng 11, 1954. Mục đích
chính của PAP là bảo đảm an ninh quốc gia mà không phải sử dụng bạo lực và xác
định trong tuyên ngôn thành lập “PAP sẵn sàng hợp tác một cách thành thật với
các đảng phái chính trị khác để đạt đến mục tiêu độc lập thật sự cho đất nước”.
Trong
cuộc bầu cử tháng Năm 1959, PAP thắng lớn. Singapore thành quốc gia tự trị
trong khuôn khổ Commonwealth và Lý Quang Diệu là Thủ tướng đầu tiên với Thống đốc
Sir William Allmond Codrington Goode là Quốc trưởng. Theo kết quả của cuộc
trưng cầu dân ý 1962, Singapore sáp nhập vào Liên Bang Mã Lai. Việc chọn gia nhập
Liên Bang Mã Lai phát xuất từ mối lo ngại thiếu tài nguyên và ngoài ra, một số
chính trị gia cũng quan tâm đến việc Singapore có thể trở thành một quốc gia
CS. Tuy nhiên chỉ trong vòng 3 năm, Quốc hội Mã Lai với số phiếu 126 trên 126
loại Singapore ra khỏi liên bang. Thủ tướng Lý Quang Diệu đứng trước một tương
lai Singapore đầy bất ổn. Ngay cả trong nội bộ PAP, vài năm trước, các thành
viên sáng lập cũng đã chọn con đường tả khuynh cho riêng họ.
Các
thành phần CS và tả khuynh trong lãnh đạo PAP
Hai
thành viên sáng lập khác là Fong Swee Suan và Lim Chin Siong có lập trường tả
khuynh trong lúc Lý Quang Diệu quyết tâm ngăn chận mầm mống CS phát sinh trong
xã hội Singapore. Lý Quang Diệu biết rõ rất đông lãnh đạo và đảng viên PAP bị ảnh
hưởng CS và việc chấp nhận sự ủng hộ của cánh CS chẳng khác gì ngồi trên lưng cọp
nhưng ông tin tưởng vào khả năng và có một niềm tin kiên định vào mục đích sống
của đời mình. Muốn đưa Singapore trở thành một quốc gia cường thịnh, trước hết
phải xóa bỏ mọi tàng tích CS còn tồn đọng từ quá khứ và ngăn chận mọi mầm mống
phát sinh của ý thức hệ CS tại Singapore. Tất cả chính sách đối nội của Lý
Quang Diệu đều tập trung vào mục đích đó.
Đảng
PAP tập hợp những thanh niên Singapore trẻ, có tinh thần độc lập và liên kết với
các nghiệp đoàn, nhưng như Lý Quang Diệu giải thích, sự liên kết này chẳng khác
gì một loại “hôn nhân hợp đồng” vì ông chỉ biết nói tiếng Anh nên cần các đảng
viên biết nói tiếng Tàu trong giới lao động thân CS.
Lim
Chin Siong, một trong ba người thành lập, có giọng nói hùng hồn và thu hút người
nghe đã đắc cử Dân biểu Quốc Hội đơn vị Bukit Timah khi chỉ mới 22 tuổi. Năm 23
tuổi Lim Chin Siong và Lý Quang Diệu đại diện cho Singapore để thảo luận về hiến
pháp tại London.
Những
hoạt động tả khuynh quá khích của Lim Chin Siong đã làm cho hai lãnh đạo PAP xa
nhau rất sớm. Lý Quang Diệu tố cáo Lim Chin Siong là CS và dựa vào Sắc Luật An
Ninh Quốc Nội (Internal Security Act) bỏ tù đồng chí sáng lập PAP này nhiều năm
không xét xử.
Mặc
dù Lim từ chối là CS, các hành vi của y như việc đọc diễn văn trong lễ tưởng niệm
Joseph Stalin và kế hoạch lật đổ chính phủ Lý Quang Diệu sau khi Singapore sáp
nhập vào Mã Lai cho thấy chủ trương CS hóa Mã Lai bao gồm cả Singapore nằm
trong ý định của Lim và mục tiêu của đảng Barisan Sosialis do y thành lập. Dù
sao, sau khi Lim Chin Siong chết ngày 5 tháng Hai 1996, Lý Quang Diệu bày tỏ sự
kính trọng về quyết tâm, tận tụy với lý tưởng dành cho đồng chí sáng lập PAP vừa
qua đời.
Fong
Swee Suan, một thành viên sáng lập khác của PAP cũng có lập trường thân CS.
Không giống Lý Quang Diệu học hành đổ đạt, Fong Swee Suan bị trục xuất ra khỏi
trường trung học vì tham gia đình công. Fong dành hết thời gian còn lại cho các
hoạt động của giới thợ thuyền. Trong thời gian PAP lãnh đạo Singapore, Fong
Swee Suan là Bộ trưởng Bộ Lao Động. Tháng Bảy 1961, Lý Quang Diệu yêu cầu Fong
Swee Suan từ chức vì có liên can đến việc kêu gọi Singapore tự trị. Fong bị bắt
tháng Hai 1963, giam tại Mã Lai và được phóng thích vào tháng Tám 1967. Fong có
niềm tin sâu xa rằng giới công nhân là giới bị áp bức bóc lột và nghiệp đoàn là
phương tiện để giới công nhân đấu tranh giải phóng áp bức bóc lột. Ông thừa nhận
là một người xã hội chứ không phải là CS.
Sau
khi giới hạn các thành phần CS và tả khuynh trong hàng ngũ lãnh đạo PAP, và ổn
định chính trị quốc nội, Lý Quang Diệu thực hiện hàng loạt các chính sách kinh
tế trong nước và mở rộng các quan hệ quốc tế. Singapore gia nhập Liên Hiệp Quốc
1965 và ASEAN 1967.
Lý
Quang Diệu và Cộng Sản Tàu
Có
lẽ không ai có ý thức rõ ràng và sâu sắc hơn Lý Quang Diệu về hiểm họa CS Tàu tại
Singapore. Hầu hết, nếu không muốn nói tất cả đảng viên CS hoạt động tại
Singapore là người Hoa. Do đó, tách rời Singapore ra khỏi quỹ đạo của Trung Cộng
càng xa càng tốt. Ông học về lý thuyết CS tại Anh một cách nghiêm túc và nhiều
lần khẳng định chủ nghĩa CS không cần thiết là một phương tiện để giành độc lập
và chủ nghĩa CS không thể xây dựng Singapore thành một nước cường thịnh về mọi
mặt.
Vào
những năm đầu thập niên 1960, trong lúc các nhà lãnh đạo CSVN phải sang chầu
Trung Cộng hàng năm để xin súng đạn, Lý Quang Diệu từ chối ngay cả việc thừa nhận
nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa là một nước có chủ quyền toàn vẹn. Những biện
pháp cứng rắn của chính phủ Lý Quang Diệu sau khi Singapore ra khỏi Liên bang
Mã Lai là nhằm bảo vệ sự tồn tại mong manh của hòn đảo nhỏ này và ngăn chặn sự
xâm nhập của Cộng Sản với hậu thuẩn tích cực của Trung Cộng.
Khi
Đặng Tiểu Bình phát động bốn hiện đại hóa, Lý Quang Diệu mở rộng các quan hệ
các quan hệ kinh tế, thương mại với Trung Cộng vì lợi ích của Singapore nhưng vẫn
chưa thiết lập các quan hệ chính trị trên tầm mức quốc gia. Mặc dù công khai
bày tỏ sự kính phục dành cho Đặng Tiểu Bình và được mời thăm Trung Cộng nhiều lần,
mãi đến tháng 10 năm 1990, khi Singapore đủ mạnh về kinh tế và ổn định về chính
trị, Lý Quang Diệu mới thiết lập ngoại giao hoàn toàn. Singapore là nước cuối
cùng ở Đông Nam Á thừa nhận Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa. Và mặc dù công nhận
Trung Cộng, Lý Quang Diệu đồng thời cũng duy trì một quan hệ tốt với Đài
Loan.
Quan
hệ thương mại với Trung Cộng, tránh phê bình chế độ chính trị CS tại Trung Cộng
không có nghĩa Lý Quang Diệu thừa nhận cơ chế CS là đúng. Lý Quang Diệu hiểu CS
hơn nhiều lãnh đạo quốc gia khác vì chính ông đã từng tranh đấu một cách gian
nan để ngăn chận CS tại Singapore cũng như đã từng phát biểu về lâu về dài nền
dân chủ Ấn Độ sẽ giúp cho quốc gia này vượt qua Trung Cộng.
Một
số học giả Trung Cộng như Lu Qi gọi Lý Quang Diệu là hanjian (Hán Gian) khi kết
án ông Lý đã buộc người dân Singapore sử dụng tiếng Anh như ngôn ngữ chính và kết
quả làm cho đa số người dân Singapore gốc Hoa ngày nay không biết tiếng Tàu.
Nhưng tên học giả này quên rằng Lý Quang Diệu là Singapore chứ không phải là
Trung Hoa và lại càng không phải Hán. Quyết định duy trì tiếng Anh làm ngôn ngữ
chính ngay từ thời gian mới độc lập là một phần trong tầm nhìn xa của họ Lý để
chuẩn bị cho Singapore dễ dàng hội nhập vào thế giới toàn cầu hóa năm chục năm
sau.
Trong
thời kỳ chiến tranh Việt Nam, Lý Quang Diệu và nhiều lãnh đạo sáng suốt ở châu
Á đã lợi dụng chính sách chống CS của Mỹ ở châu Á để hợp tác và phát triển kinh
tế với Mỹ, nhờ đó, không chỉ nền kinh tế Singapore mà nhiều nước nhỏ khác ở
châu Á như Nam Hàn, Đài Loan cũng đã lần lượt cất cánh và trong một thời gian
ngắn được thế giới ca ngợi như là những con rồng châu Á.
“Vâng,
nếu tôi không làm thế, chúng ta có thể không có mặt ở đây hôm nay”
Như
Joseph Chinyong Liow, thuộc Viện Nghiên Cứu Brookings, phân tích trong bài bình
luận Lý Quang Diệu, con người và giấc mơ hôm 22 tháng 3 vừa qua, chính lý tưởng
và tầm nhìn đã giúp Lý Quang Diệu đưa Singapore từ một quốc gia bị trị, phân
hóa chính trị, CS hoành hành, xung đột chủng tộc, thiếu thốn tài nguyên thiên
thiên trở thành một nước hiện đại, được nhân loại khắp năm châu kính nể.
Lý
Quang Diệu, một lần, thừa nhận đã có can thiệp vào đời sống riêng tư của người
dân nhưng như ông biện luận “Vâng, nếu tôi không làm thế, chúng ta có thể
không có mặt ở đây hôm nay”. Đúng thế, lịch sử Singapore hiện đại đã chứng
minh một cách hùng hồn rằng Lý Quang Diệu có lẽ là lãnh đạo có lập trường quốc
gia duy nhất không những tồn tại mà còn xóa bỏ được cả một hệ thống CS tại
Singapore và đưa đất nước ông thăng tiến vượt lên trên phần lớn nhân loại.
______________________________________
Tham
khảo:
-
Lee Kuan Yew: The Crucial Years, Alex Josey, Marshall Cavendish International
2012, p10-p15.
-
National and Colonial Questions For The Second Congress Of The Communist
International, Lenin, 5 June, 1920 (https://www.marxists.org/archive/lenin/works/1920/jun/05.htm)
-
The Cold War in Asia (1945-1990), National Archives of Australia, 2007
-
Malayan Communist Party
-
Workers' Party of Singapore
-
Internal Security Act (Singapore)
http://en.wikipedia.org/wiki/Internal_Security_Act_(Singapore)
-
Barisan Sosialis (http://en.wikipedia.org/wiki/Barisan_Sosialis)
-
Lim Chin Siong (http://en.wikipedia.org/wiki/Lim_Chin_Siong)
-
Lee Kuan Yew, Early Political Career (http://en.wikipedia.org/wiki/Lee_Kuan_Yew#Early_political_career.C2.A0.E2.80.93_1951_to_195)
-
Lee Kuan Yew’s Greatest Accomplishment May Not Have Been Singapore’s Economic Success
(http://www.nationalreview.com/article/415871/lee-kuan-yews-greatest-accomplishment-may-not-have-been-singapores-economic-success)
-
Fong Swee Suan (http://eresources.nlb.gov.sg/infopedia/articles/SIP_2013-07-29_173512.html)
-
Lai Teck (http://en.wikipedia.org/wiki/Lai_Teck)
-
Singapore (http://en.wikipedia.org/wiki/Singapore)
-
Malaysia (http://en.wikipedia.org/wiki/Malaysia)
-
Lai Teck - the traitor of all traitors, Barry Wain, 2011 (http://heresthenews.blogspot.com/2011/01/lai-teck-traitor-of-all-traitors.html)
-
Was Lee Kuan Yew an Inspiration or a Race Traitor? Chinese Can’t Agree (http://www.chinafile.com/reporting-opinion/media/was-lee-kuan-yew-inspiration-or-race-traitor-chinese-cant-agree)
No comments:
Post a Comment