Số
213 -
Ngày 15-2-2015
Không
khí ngày Tết dân tộc đang bao trùm lên người Việt chúng ta tất cả, dù chúng ta
đang ở phương trời nào, trên dải đất hình chữ S hay khắp các châu lục. Không
khí ấy khiến lòng chúng ta, nhất là các đồng bào xa xứ, nhớ tới không gian của
Quê mẹ, nơi mà những ai từng sống nhưng chưa vong bản đều thương nhớ, những ai
đang sống với tâm hồn dân tộc đều thương mến và những ai sinh nơi đất khách quê
người song còn nhớ nguồn cội đều thương mong. Chúng ta thương nhớ, thương mến,
thương mong vì dòng máu Việt luôn chảy trong huyết quản chúng ta, văn hóa Việt
luôn in đậm lên cuộc sống chúng ta, ngôn ngữ Việt luôn nhắc nhở cho tâm trí
chúng ta và tin tức về đất Việt luôn âm hưởng trên cõi lòng chúng ta. Những tâm
tình ấy lại càng dào dạt hơn khi chúng ta đang hướng về kỷ niệm 40 năm mà Cộng
sản Hà Nội, theo chiến lược Cộng sản quốc tế và ý đồ Cộng sản Bắc Kinh, xâm chiếm
Việt Nam Cộng Hòa, xích hóa toàn thể đất nước, gây mối quốc hận kể từ ngày
30-04-1975, khiến mùa Xuân và cái Tết trên quê mẹ từ đó mất hẳn ý nghĩa.
Quả
vậy, 40 năm qua là mối quốc hận không cùng đối với tất cả những người Việt thấm
đẫm tinh thần bất khuất, không chấp nhận kiếp đời nô lệ mà tổ tiên vạn đời đã để
lại. Đối với những ai đã phải đi ra hải ngoại từ sau Tháng tư đen năm ấy mãi tới
hôm nay, đó là nỗi đau rời bỏ quê cha đất tổ, mồ mả tổ tiên, nỗi đau từ giã
thân thuộc họ hàng, kỷ niệm yêu dấu, nỗi đau chứng kiến bao mất mát tiêu tùng,
bao tan hoang đổ vỡ. Nói “mãi tới hôm nay” vì phong trào bỏ xứ vẫn còn tiếp diễn,
cách êm thắm thì qua việc “bảo lãnh, đoàn tụ” hay đi du học rồi ở lại, cách
gian khổ thì qua việc vượt biển vượt biên, như nhiều đồng bào người Thượng gần
đây đã chạy sang tỵ nạn bên xứ Chùa Tháp. Đối với những ai đành phải ở lại quốc
nội, đó là nỗi đau mất hết mọi tự do của con người, mọi nhân quyền của bản
thân, nỗi đau hứng chịu cuộc sống tinh thần ngày càng nghèo nàn, cuộc sống vật
chất ngày càng nghèo đói. Bởi lẽ làm gì mà có cảnh “độc lập, tự do, hạnh phúc”,
“dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh” như Cộng sản ra rả
tuyên truyền dối gạt! Đối với những ai từ miền Bắc đi vào miền Nam, đó lỗi đau
bị lừa gạt vì đã hy sinh cho một cuộc chiến vô nghĩa, huynh đệ tương tàn (nhà
văn Dương Thu Hương hay nhà văn Trần Đĩnh là những trường hợp tiêu biểu), nỗi
đau bị chưng hửng vì nhận thấy “vùng đất được giải phóng” thật ra là vùng đất
đã từng sung túc, no ấm, dân chủ, tự do (nhạc sĩ Tô Hải, qua các trang nhật ký,
tuần ký và phấn đấu ký đều đặn, đã dũng cảm và sáng suốt thừa nhận thực trạng
này). Và chính cái chủ nghĩa CS phi nhân, cái chế độ CS tồi tệ, cái bè đảng CS
độc tài đã gây nên mối hận bao trùm đó. Một đám người cũng da vàng máu đỏ, cũng
con Hồng cháu Lạc, cũng từ bọc trứng Mẹ Âu Cơ, cũng thừa hưởng cả một nền văn
hiến đậm chất nhân bản của Việt tộc, nhưng vì trí óc mù quáng do bị chủ nghĩa đầu
độc, tâm hồn hư hoại do bị chế độ uốn nắn, trong hơn 40 năm qua, đã gây bao đau
thương cho đồng bào, bao thiệt hại cho đất nước. Chúng đã tạo nên một đất nước
luôn đứng hạng cuối các quốc gia trên địa cầu, với chính trị bạo hành, kinh tế
suy thoái, an ninh bấp bênh, dân sinh điêu đứng, văn hóa nghèo nàn, môi trường
ô nhiễm, đạo đức băng hoại và nhất là quốc phòng lâm nguy vì mưu đồ xâm lăng của
Tàu cộng. Đúng như lời tác giả Nguyễn Gia Kiểng trong bài “Thời điểm để nhìn rõ
đảng Cộng sản”: “Giả sử đặt câu hỏi : "Nếu không có đảng Cộng sản, ngày
nay Việt Nam sẽ ra sao ?" thì chắc chắn câu trả lời sẽ là: "Ít nhất
cũng phồn vinh hơn gấp 15 hay 20 lần hiện nay, đã là một trong những nước G20,
đã không có sáu triệu người thiệt mạng vì nội chiến, đã không mất Hoàng Sa, Trường
Sa, Nam Quan, Lão Sơn, Bản Giốc". Thành tích của đảng Cộng sản thật là
kinh hoàng. Thất bại không phải là từ ngữ phù hợp, phải nói là thảm họa. Đảng Cộng
sản đã là thảm họa cho VN trên tất cả mọi phương diện và trong tất cả mọi địa hạt.
Người VN nào có thể không phẫn nộ ? Càng phẫn nộ khi nhân danh thành tích đó,
nó ngang ngược tuyên bố giữ độc quyền lãnh đạo đất nước trong thời gian vô hạn
định. Thực không khác gì một lực lượng chiếm đóng”.
Tuy
thế, 40 năm qua cũng là dấu tích oai hùng của toàn thể Dân Việt. Dấu tích oai
hùng đó biểu lộ trước hết qua hành trình tìm đến tự do của hàng triệu đồng bào
dũng cảm, bất chấp viễn ảnh phải bỏ thây mất mạng trên biên giới Miên Lào, tan
nát cuộc đời do hải tặc Thái Lan, làm mồi cho cá giữa ba đào Đông Hải. Những tượng
đài thuyền nhân rải rác khắp thế giới, từ Mỹ sang Úc, từ Âu sang Á nói lên tinh
thần của một nòi giống đã luôn muốn sống độc lập, độc lập từ khi rời bỏ sông
Dương Tử xuống sông Hồng Hà để lập quốc, độc lập khi cả ngàn năm rồi cả trăm
năm luôn tìm cách bẻ gãy ách nô lệ do Tàu rồi Tây áp đặt, độc lập khi vùng vẫy
thoát khỏi cái rọ Cộng sản chụp xuống trên bản thân, gia đình và dân tộc mình.
Tới được vùng đất của kẻ tự do, quê hương của người dũng cảm, thì đàn chim bỏ xứ
bất khuất ấy nén nỗi đau, quyết tâm xây lại cuộc đời, dựng lại cơ đồ, chen mình
vào chính trị xã hội của quốc gia tạm dung, chen chân vào kinh tế khoa học của
xứ sở tiếp nhận, để hỗ trợ cuộc đấu tranh dân chủ ở quê nhà và làm vẻ vang trên
quê người cho Việt tộc. Từ hơn 40 năm nay, bao nhiêu khuôn mặt chính trị gia,
khoa học gia, lãnh đạo dân sự, lãnh đạo tôn giáo, chuyên gia, thương gia, nhà
văn, nhà báo, sĩ quan cảnh sát, sĩ quan quân đội… gốc Việt đã làm rạng rỡ giống
Hồng Lạc trên đất của giống Hồng mao, đã làm sáng ngời khát vọng tự do của một
dân tộc mà hầu hết lịch sử tồn tại là chiến đấu bẻ gãy tròng nô lệ.
Dấu
tích oai hùng đó cũng biểu lộ qua tiến trình tìm lại tự do cũng của hàng triệu
đồng bào quốc nội dũng cảm, dám trực diện đương đầu với cái chủ nghĩa nô dịch,
với cái chế độ đàn áp, với cái chính đảng toàn trị. Bất chấp viễn ảnh bị đuổi học
đuổi việc, bị tống khỏi nhà ở nhà trọ, bị sách nhiễu hăm dọa, bị cấm cửa cấm đường,
bị vu cáo lăng nhục, bị cướp bóc trấn lột, bị tra tấn đánh đập, bị giam nhốt cầm
tù, họ nhất quyết công bố sự thật, bênh vực lẽ phải, thực thi tình thương, khôi
phục quyền lợi; họ kiên tâm đòi hỏi nhân quyền cho đồng bào, giành lại dân chủ
cho đất nước và bảo vệ sự vẹn toàn cho Tổ quốc. Hơn 40 năm qua, hàng ngàn hàng
vạn chiến sĩ phục quốc, chiến sĩ nhân quyền hoặc ngã xuống trong vũng máu, hoặc
nằm im trong nhà tù, đã trở thành biểu tượng của bất khuất, ngọn đuốc của tự
do; hàng ngàn hàng vạn nhà báo độc lập, nhà báo dân chủ ngày đêm miệt mài vạch
trần những sai lầm và tội ác của chế độ, trình bày những nhân quyền và dân quyền
cho đồng bào, đề xuất những đường lối, kế hoạch phát triển đất nước, canh tân
xã hội. Gần 20 năm nay, lại có hàng vạn hàng ức dân oan mất đất mất nhà, không
ngừng nghỉ đi từ nam ra bắc, từ địa phương lên trung ương, để tố cáo cái Hiến
pháp, cái Bộ luật cướp trắng mồ hôi, công sức của tổ tiên và của bản thân họ, để
lên án lũ cướp ngày ngay tại hang ổ của chúng: trụ sở quốc hội, các phòng tiếp
dân, cơ quan công quyền, tư gia lãnh đạo. Dẫu gần như vô vọng, họ vẫn mặc áo in
giòng chữ phản kháng, giương biểu ngữ viết lời yêu cầu, có khi còn chửi thẳng
vào mặt đảng, mặt chế độ (như trong một video clip gần đây của dân oan huyện Thạnh
Hóa, Long An). Đến lúc tuyệt vọng thì khỏa thân, tự thiêu, hay cho bọn cướp sản
ăn đạn. Gần 10 năm nay, lại thấy có những công dân liên kết với nhau thành những
tổ chức xã hội dân sự mà mục đích chủ yếu là đòi tự do, nhân quyền, dân chủ. Dù
bị theo dõi hành tung, cấm cản tụ họp, bị thóa mạ thanh danh, lũng đoạn hàng
ngũ, họ vẫn quyết tâm hình thành một trong ba lực lượng cần thiết cho một xã hội
văn minh (lực lượng chính trị, lực lượng kinh tế và lực lượng dân sự). Cũng phải
kể đến sự oai hùng, lòng can đảm của nhiều lãnh đạo tinh thần không bằng lòng với
cuộc sống êm đềm trong kinh kệ, trong thuyết giáo, nơi thánh thất, nơi tu sở,
trái lại đã thực hiện sứ mạng đạo cứu đời bằng những bài giảng sấm sét, những
tuyên bố nẩy lửa, dù sau đó có thể lâm vào vòng bị lao lý hay cảnh bị ám hại.
Dấu
tích oai hùng nơi Đồng bào hải ngoại lẫn Đồng bào quốc nội như thế chính là những
chồi non hy vọng báo hiệu một mùa Xuân đích thực cho Dân tộc. Những chồi non đó
cần phải được làm cho lớn lên bằng nỗ lực liên minh đoàn kết không mệt mỏi giữa
hải ngoại với quốc nội, giữa hải ngoại với nhau và giữa quốc nội với nhau; bằng
tinh thần dân chủ không lay chuyển: hợp nhất trong đa diện, coi cái chung quan
trọng hơn cái riêng, bất đồng trong ý kiến nhưng không bất hòa trong hàng ngũ,
chấp nhận dị biệt trong phương pháp miễn là đồng nhất trong mục tiêu, trân trọng
mọi sáng kiến tranh đấu của nhau dù nhỏ đến đâu chăng nữa. Đất Mẹ đang cần những
người con có ý thức sáng suốt, tầm nhìn lớn lao, tâm hồn quảng đại và tinh thần
hợp tác để cùng chung tay xây dựng một Việt Nam mới không còn có cảnh hàng triệu
nông dân bị cướp ruộng vườn, khiếu kiện trong tuyệt vọng; không còn có cảnh
hàng triệu công nhân bị bóc lột tiền lương, bươn chải trong khốn cùng; không
còn có cảnh hàng triệu lao động xuất khẩu bị buộc trở thành lao nô hay tình nô
nơi đất khách; không còn có cảnh hàng triệu học sinh sinh viên bị đầu độc tâm hồn,
tiêu diệt ý chí, chẳng lớn lên thành công dân tự do và trách nhiệm; không còn
có cảnh hàng triệu tín đồ bị trấn áp đức tin, thấy bản thân tôn giáo bị lũng đoạn
thành công cụ hay cơ sở tôn giáo bị cướp bóc tàn phá (cộng đồng Tin lành
Mennonite hiện nay là ví dụ); không còn có cảnh hàng vạn công dân yêu nước bị
đàn áp khi xuống đường chống ngoại xâm, bị sách nhiễu khi mở miệng nói sự thật,
bị cầm tù khi lên tiếng đòi nhân quyền, bị tra tấn trong lao ngục vì nhất quyết
chẳng nhận tội (như Mai Thị Dung, Tạ Phong Tần, Đặng Xuân Diệu…); không còn có
cảnh người dân trong nhà bị thường xuyên rình mò khám xét, ra đường bị tống tiền
đòi hối lộ, chạy xe quên đội mũ bảo hiểm bị đánh vỡ đầu, vào đồn phải tra khảo đến
chết rồi bị cho là treo cổ tự tử… vân vân và vân vân.
Kể
ra ngày Xuân mà nhắc tới những cảnh đau buồn như thế xem ra tàn nhẫn, nhưng người
con nào của Mẹ Việt lại không cảm thấy bất nhẫn trước các sự việc ấy, bởi lẽ
chúng là “thành quả khốn nạn” sau 85 năm cai trị đầy bất tài bất lực, bất nhân
bất công của cái chính đảng mà mới đây vẫn trâng tráo cho rằng dưới sự lãnh đạo
của mình, “nhân dân đã lập nên những kỳ tích trong thế kỷ XX, mà đỉnh cao là
thắng lợi của cách mạng Tháng 8-1945, thắng lợi của các cuộc kháng chiến giải
phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc, thắng lợi của công cuộc Đổi mới, vững bước đi
lên CNXH”, vẫn dối trá vỗ ngực cho rằng tại VN, ngoài mình, “không có một
lực lượng chính trị nào khác có đủ bản lĩnh, trí tuệ, kinh nghiệm, uy tín và khả
năng lãnh đạo đất nước vượt qua mọi khó khăn, thử thách cam go để đưa dân tộc đến
bến bờ vinh quang".
Ban
Biên Tập
*
DOWNLOAD
:
No comments:
Post a Comment