Đăng bởi anhbasam on 23/05/2011
THÔNG TẤN XÃ VIỆT NAM
Tài liệu tham khảo đặc biệt
Thứ Hai, ngày 23/05/2011
TTXVN (Bắc Kinh 15/5)
Ngày 29/4, tạp chí “Thời báo Hoàn Cầu” (Trung Quốc) đăng bài viết “Động lực và rủi ro khi đường sắt cao tốc Trung Quốc tiến vào Đông Nam Á”, có nội dung chính như sau:
Mạng lưới đường sắt cao tốc Trung Quốc – Đông Nam Á, bao gồm tuyến Tâu từ Côn Minh (Trung Quốc) – Rănggun (Mianma) và tuyến Trung từ Côn Minh – Viêng Chăn – Băng Cốc – Cula Lămpơ – Xinhgapo. Các dự án liên quan hai tuyến đường sắt cao tốc này đều bắt đầu được khởi công xây dựng trong năm 2011. Còn tuyến Đông từ Trung Quốc – Hà Nội – Thành phố Hồ Chí Minh – Phnôm Pênh – Băng Cốc hiện vẫn đang trong quá trình nghiên cứu.
Động lực chủ yếu trong việc xây dựng mạng lưới đường sắt cao tốc Trung Quốc – Đông Nam Á xuất phát từ những phương diện sau:
Thứ nhất, Trung Quốc tích cực mở rộng đầu tư ra bên ngoài. Hiện nay, Trung Quốc đã tiến vào giai đoạn vốn nhà nước cần phát triển, xuất khâu quy mô lớn ra bên ngoài, các dự án xây dựng đường sắt cao tốc tại nước ngoài (bao gồm cung cấp kỹ thuật, thiết bị, nguồn nhân lực, tiền vốn) là một lĩnh vực mới của các doanh nghiệp Trung Quốc “đi ra ngoài”. Việc khai thông một số tuyến đường sắt cao tốc trong nước và tiếp tục triển khai xây dựng nhiều tuyến đường sắt khác cũng là nhằm tích luỹ kinh nghiệm trong xây dựng đường sắt cao tốc của Trung Quốc, đồng thời từng bước hình thành thương hiệu cho ngành đường sắt cao tốc Trung Quốc trên quốc tế.
Thứ hai, nhân tố địa kinh tế và địa chính trị. Trung Quốc có thể thông qua việc kết nối đường sắt cao tốc với đa số các quốc gia Đông Nam Á để hình thành mạng lưới giao thông chặt chẽ hơn, nâng cao hiệu suất vận chuyển hành khách, hàng hoá giữa các nước, đồng thời thuận tiện cho các nước tiếp cận, mở rộng thị trường của nhau. Nhờ vào mạng lưới đường sắt cao tốc, Trung Quốc và 3 nước Đông Nam Á là Thái Lan, Malaixia và Xinhgapo đều có thể xây dựng mối quan hệ kinh tế chặt chẽ. Tuyến Đông mặc dù vẫn chỉ là một ý tưởng và đang trong quá trình nghiên cứu, nhưng do nó tiếp giáp với khu vực duyên hải phía Đông có kinh tế phát triển của Trung Quốc, vì vậy giá trị kinh tế rất lớn, các nước dọc theo tuyến đường sắt này đều có thể thu được nhiều lợi ích, chính vì vậy sau này vẫn có tính khả thi trong việc xây dựng tuyến đường sắt này (năm 2010, Quốc hội Việt Nam đã phủ quyết kế hoạch cùng Nhật Bản xây dựng tuyến đường sắt cao tốc Bắc – Nam với giá thành đắt đỏ).
Ngoài ra, việc xây dựng tuyến Tây giữa Trung Quốc và Mianma sẽ phát huy vai trò tích cực cho sức mạnh kinh tế và chiến lược của Trung Quốc hướng tới khu vực Ấn Độ Dương, đồng thời vận chuyển năng lượng và các loại hàng hoá quan trọng khác của Trung Quốc trước đây phải đi qua eo biển Malắcca và Biển Nam Trung Hoa (Biển Đông), nay có thể trực tiếp cập cảng Mianma, sau đó thông qua đường sắt cao tốc vận chuyển vào nội địa Trung Quốc.
Thứ ba, tính toán lợi ích của các quốc gia Đông Nam Á liên quan. Cùng với việc cải tiến hệ số an toàn, giá thành xây dựng và vận hành, đường sắt cao tốc vẫn có những ưu thế đặc biệt so với các phương thức vận tải giao thông khác. Ở một số quốc gia Đông Nam Á để phát triển thị trường nội khối và với Trung Quốc, đã hình thành quan hệ vận chuyển hàng hoá và vận chuyển hành khách ngày càng chặt chẽ hơn, nhu cầu đối với mạng lưới đường sắt cao tốc là hiện thực. Trong hệ thống mạng lưới đường sắt cao tốc Đông Nam Á, tuyến đường sắt cao tốc Băng Cốc và Cuala Lămpơ chiếm vị trí then chốt, cũng đang cố gắng thông qua việc xây dựng nhiều tuyến đường sắt cao tốc trong nước, để tăng cường liên kết với các khu vực xung quanh. Ngoài ra, các quốc gia Đông Nam Á liên quan còn hy vọng thông qua việc xây dựng nhiều công trình cơ sở hạ tầng khác, tạo động lực lớn hơn cho phát triển kinh tế.
Bên cạnh đó, Trung Quốc cũng buộc phải tính toán tới nhữgn mối rủi ro liên quan, trong đó nổi lên một số rủi ro sau:
Thứ nhất, rủi ro tài chính. Trung Quốc xuất khẩu các dự án đường sắt cao tốc sang các quốc gia Đông Nam Á và áp dụng sách lược giá rẻ, nên tồn tại rủi ro tài chính. Các dự án đường sắt cao tốc, ngoài giá thành xây dựng khổng lồ, chi phí sau xây dựng như vận hành, bão dưỡng, duy tu, an toàn… cũng cao hơn nhiều so với đường sắt thông thường, chính vì vậy giá thành vận chuyển hành khách và hàng hoá cũng tương đối cao, các quốc gia Đông Nam Á có thể thích ứng được với dịch vụ cao như vậy hay không, giai đoạn kinh doanh mô hình “BOT” (“xây dựng – kinh doanh – chuyển giao” là một hình thức để các doanh nghiệp tư nhân Trung Quốc tham gia xây dựng cơ sở hạ tầng, cung cấp dịch vụ công cộng cho xã hội) có thể thu hồi vốn đầu tư ban đầu hay không và khả năng thua lỗ như thế nào, đều là những vấn đề cần phải tính toán kỹ.
Ngoài ra, tiết kiệm về mặt thời gian của đường sắt cao tốc đối với vận chuyển hành khách có giá trị lớn, nhưng đối với vận chuyển hàng hoá lại có giá trị tương đối nhỏ (duy chỉ có vận chuyển hàng hoá thông qua tuyến Tây giữa Trung Quốc và Mianma là có giá trị tương đối lớn, vì có thể rút ngắn đáng kể khoảng cách vận chuyển), trong khi đó thu nhập mong đợi của tuyến đường sắt cao tốc Trung Quốc-Đông Nam Á sẽ chủ yếu đến từ vận chuyển hnàh khác (vận chuyển hàng hoá bình thường vẫn có thể lựa chọn các hình thức vận chuyển khác với chi phí thấp hơn), vậy thì quy mô hạn chế về nhóm người có mức thu nhập trung bình và trên trung bình của các quốc gia Đông Nam Á có thể là nguồn hành khách ổn định cho đường sắt cao tốc hay không cũng là một vấn đề đáng quan tâm.
Thứ hai, rủi ro giữa chính phủ và chính trị liên quan. Phương diện hợp tác đường sắt cao tốc giữa Trung Quốc với các quốc gia Đông Nam Á liên quan vẫn tồn tại sự khác biệt về quy hoạch tuyến đường sắt cao tốc song phương (như dự án đường sắt cao tốc từ Băng Cốc, Thái Lan đến thành phố công nghiệp ven biển Rayong, phía Đông Thái Lan; dự án đường sắt cao tốc từ Cuala Lămpơ, Malaixia đến thành phố cảng Kuantan), đối với phương thức hợp tác thậm chí cả tốc độ vận hành của tàu cũng có những ý kiến bất đồng. Ngoài ra, một số quốc gia Đông Nam Á vẫn tồn tại tâm lý đề phòng, cảnh giác Trung Quốc và tư tưởng dân tộc chủ nghĩa, chính trị đảng phái, phong trào công nhân, phong trào bảo vệ môi trường… những rủi ro này đều có thể làm cho thời gian luận chứng kéo dài, thi công đình trệ.
Thứ ba, rủi ro kỹ thuật. Việc thi công đường sắt cao tốc và các nguyên nhân khác sau khi hoàn thành địa lý, khí hậu, thông tin liên lạc, chuyển giao kỹ thuật… đều có thể nảy sinh những rủi ro về kỹ thuật và an toàn, Trung Quốc cần phải làm tốt mọi sự chuẩn bị.
Thứ tư, rủi ro về sở hữu trí tuệ. Kỹ thuật, thiết bị đường sắt cao tốc của Trung Quốc xuất khẩu ra nước ngoài có gặp phải kiện tụng hay không cũng có thể là một rủi ro trong quá trình xuất khẩu đường sắt cao tốc ra bên ngoài.
Tóm lại, ưu thế của các doanh nghiệp đường sắt cao tốc Trung Quốc chủ yếu có thể nhận được sự ủng hộ to lớn của chính phủ trên các mặt như tiền vốn, nghiên cứu phát triển kỹ thuật công nghệ, nhưng liên quan đến phương diện hợp tác đường sắt với bên ngoài phải tránh tâm lý muốn làm ngay, bệnh thành tích công trình, đồng thời phải tiếp tục giải quyết vấn đề sở hữu trí tuệ của bản thân doanh nghiệp, kiểm tra đánh giá kỹ lưỡng các rủi ro từ bên ngoài. Về tổng thể, nếu mạng lưới đường sắt cao tốc Trung Quốc-Đông Nam Á có thể được xây dựng như ý muốn, thì nó sẽ làm cho mối liên kết nội khối cảu khu vực này về kinh tế, nhân khẩu, xã hội càng chặt chẽ hơn, nâng cao vai trò kinh tế, chính trị và sức ảnh hưởng của Trung Quốc tại khu vực này./.
.
.
.
No comments:
Post a Comment