Friday, May 13, 2011

TÍNH CHU KỲ TRONG CHÍNH SÁCH NGOẠI GIAO TRUNG QUỐC [2/2]


Bài viết đăng trên Tạp chí “Quan hệ quốc tế hiện đại”, Trung Quốc
Thái Thịnh (gt)
Thứ sáu, 13 Tháng 5 2011 00:00

Đứng trước những đòi hỏi, thay đổi của bối cảnh quốc tế cũng như trong nước, ngoại giao Trung Quốc hiện đang trong thời kỳ chuyển đổi mô hình. Nhiều dấu hiệu cho thấy cuộc cải tổ đợt mới của ngoại giao Trung Quốc đã bắt đầu được khởi động và có thể dẫn đến những thay đổi sâu sắc về cơ cấu quyền lực quốc tế, quan hệ giữa Trung Quốc với các nước xung quanh.

III- Những thay đổi của ngoại giao Trung Quốc hiện nay

Tình hình bên trong và ngoài Trung Quốc hiện đang trải qua những biến đổi lớn, ngoại giao Trung Quốc lại đến thời khắc then chốt thay đổi có chu kỳ, ở vào thời kỳ mới chuyển đổi mô hình ngoại giao.
Xét về chu kỳ thời gian, 2009 là thời kỳ cuối của 30 năm lần thứ 3 của ngoại giao Trung Quốc kể từ năm 1919, chu kỳ thời gian báo hiệu ngoại giao Trung Quốc sẽ có những thay đổi và điều chỉnh mạnh mẽ, thậm chí là mang tính cách mạng. Điều này không hẳn dựa vào tình tiết các con số đơn giản hoặc chủ nghĩa kinh nghiệm mù quáng, mà do xu thế quy luật tự nhiên và đặc trưng xã hội cùng quyết định.
Xét về bối cảnh quốc tế, cuộc khủng hoảng tài chính mang tính toàn cầu do khủng hoảng cho vay thứ cấp tháng 9/2008 dẫn tới cần được Trung Quốc tham gia đối phó, chính sách ngoại giao của Trung Quốc do đó cũng cần được điều chỉnh. Về chính trị, tình hình quốc tế sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc nổi lên xu thế “nhất siêu đa cường”. Bước sang thế kỷ 21, mặc dù ảnh hưởng của các cơ chế quốc tế đang không ngừng tăng lên, nhưng trạng thái vô chính phủ của cộng đồng quốc tế vẫn không thay đổi, cộng đồng quốc tế chứa đầy các nhân tố bất ổn, “bất cứ một cuộc khủng hoảng mang tính toàn cầu nào đều có khả năng dẫn tới rối ren thậm chí tổ chức lại cục diện quốc tế, cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu hiện nay đúng là như vậy.” Cùng với toàn cầu hóa được đẩy mạnh hơn, cơ cấu sức mạnh quốc tế đang có những thay đổi lớn. Ưu thế tương đối của Mỹ đang dần giảm đi, trong khi ưu thế tương đối của Trung Quốc đang tăng lên. Việc giải quyết rất nhiều vấn đề quốc tế ngày càng cần sự tham gia của Trung Quốc, những động hướng mới của tình hình quốc tế kêu gọi Trung Quốc cần phải thay đổi mô hình ngoại giao.
Về bối cảnh trong nước, Trung Quốc đã thực hiện công cuộc cải cách mở cửa được hơn 30 năm. Đặc biệt từ khi bước vào giai đoạn chót 10 năm đầu tiên của thế kỷ 21, tình hình quốc tế đã có những biến đổi lớn. Năm 2006-2009, thị trường cổ phiếu Trung Quốc sụt giá đột ngột, thị trường nhà ở bắt đầu xuất hiện bong bóng, khủng hoảng kinh tế thế giới lan tới Trung Quốc. Năm 2008 và 2009, Trung Quốc lần lượt xảy ra các sự kiện “bão tuyết lớn”, “sự kiện Tây Tạng 13/4”, “động đất ở Vấn Xuyên ngày 12/5”, “sự kiện sữa Tam Lộc” và “sự kiện Tân Cương ngày 5/7”… Cũng trong năm 2008, Trung Quốc đã tiến hành một loạt cải cách kinh tế, “lưu chuyển đất đai” được coi là cuộc cải cách kinh tế lớn nhất, điều này khiến giai cấp xã hội có những thay đổi to lớn, phân hóa hai cực sẽ trở nên gay gắt hơn. Nhưng chế độ bảo hiểm y tế và bảo hiểm dưỡng lão của Trung Quốc hiện vẫn chưa kiện toàn, đây cũng là nguyên nhân khiến xung đột xã hội tăng lên trong mấy năm gần đây. Thực hiện lợi ích bình đẳng, thể hiện công bằng xã hội sẽ là mấu chốt để Trung Quốc duy trì xã hội ổn định, cũng là mấu chốt để Trung Quốc có thể tiếp tục phát triển hay không. Hàng loạt thay đổi của tình hình trong nước hiện nay đều ngầm cho thấy chính trị nội bộ và ngoại giao Trung Quốc sẽ bước vào một thời kỳ mới.
Nhiều dấu hiệu cho thấy cuộc cải tổ đợt mới của ngoại giao Trung Quốc đã bắt đầu được khởi động, với cốt lõi là dần chuyển từ ngoại giao nhà nước thông thường sang ngoại giao nước lớn, từ ngoại giao thế yếu chuyển sang ngoại giao thế mạnh, từ ngoại giao tiêu cực bị động chuyển sang ngoại giao tích cực chủ động, cụ thể gồm tích cực tham gia các công việc khu vực, hộ tống tàu thuyền, cam kết gánh vác trách nhiệm nước lớn, thể hiện văn hóa Trung Quốc … Trung Quốc tích cực tham gia các công việc khu vực, như tích cực tăng cường quan hệ với ASEAN, tích cực tham gia “đàm phán 6 bên” về vấn đề hạt nhân Bắc Triều Tiên. Trong cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997, Trung Quốc đã giúp đỡ và ủng hộ ASEAN ngay cả khi đất nước cực kỳ khó khăn. Khi tham dự Hội nghị các nhà lãnh đạo ASEAN-Trung Quốc lần thứ 5 tháng 11/2001, Thủ tướng Chu Dung Cơ nêu rõ, Trung Quốc và ASEAN cần xác lập rõ các lĩnh vực hợp tác trọng điểm trong thế kỷ mới và xác định mục tiêu xây dựng khu mậu dịch tự do Trung Quốc-ASEAN. Thái độ phát triển quan hệ với các nước ASEAN của Trung Quốc trở nên tích cực hơn. Trong vấn đề hạt nhân Bắc Triều Tiên, từ khi tham gia “đàm phán 6 bên” lần thứ nhất tháng 8/2003 đến nay, Trung Quốc luôn tích cực tham gia giải quyết vấn đề hạt nhân của Bắc Triều Tiên. Trong thời gian xảy ra sóng thần ở Ấn Độ Dương năm 2005, Trung Quốc đã có chính sách viện trợ tích cực. Tháng 1/2009, Trung Quốc tiến hành hộ tống tàu thuyền trên biển lần đầu tiên, và trước đó vào cuối năm 2008 Bộ Quốc phòng Trung Quốc lần đầu tiên tuyên bố đóng tàu sân bay, điều này chứng tỏ, lợi ích ở nước ngoài đang tăng lên, khiến Trung Quốc càng coi trọng biển hơn. Tỉ lệ lợi ích quốc gia của Trung Quốc ở nước ngoài trong thời kỳ mới sẽ ngày càng lớn, người Trung Quốc nhất định phải bước ra ngoài, mở mang và thực hiện những lợi ích này trong những chặng đường mới và không gian mới.
Thể hiện văn hóa Trung Quốc với thế giới bên ngoài là một dấu hiệu quan trọng trong sự thay đổi của ngoại giao Trung Quốc. Những năm gần đây, Trung Quốc bắt đầu tích cực thể hiện và tuyên truyền văn hóa Trung Quốc với bên ngoài. Học viện Khổng Tử chính là một điển hình. Từ khi mở Học viện Khổng Tử đầu tiên năm 2004 đến nay, Trung Quốc đã thiết lập 256 Học viện Khổng Tử, 58 Lớp học Khổng Tử ở 81 quốc gia và khu vực tại 5 châu lục trên thế giới. Năm 2008, Học viện Khổng Tử và Lớp học Khổng Tử cùng nhau mở hơn 6000 lớp dạy các loại giáo trình Hán ngữ, có 130.000 học viên đăng ký, tổ chức hơn 2000 lượt các loại hình hoạt động giao lưu văn hóa, có tới 1.400.000 người tham gia. Hiện vẫn có các trường đại học và cơ quan của nhiều nước xin lập Học viện Khổng Tử. Ngoài ra, Trung Quốc còn phối hợp với một số nước tổ chức “Năm Trung Quốc”, “Tiết mục văn hóa Trung Quốc”, “Tết mục nghệ thuật Trung Quốc”, “Hội làng tết Trung Quốc”, “Tiết mục di sản văn hóa phi vật thể của Trung Quốc”, thể hiện tinh thần văn hóa Trung Quốc với thế giới.
Ngoại giao Trung Quốc thay đổi sẽ dẫn đến những thay đổi sâu sắc về cơ cấu quyền lực quốc tế, quan hệ giữa Trung Quốc với các nước xung quanh, mối quan hệ giữa ý tưởng thế giới của Trung Quốc với hệ thống quốc tế hiện có.

Thứ nhất là sự thay đổi của cơ cấu quyền lực quốc tế. Mặc dù có học giả cho rằng trong 15-20 năm tới, cơ cấu quyền lực của hệ thống quốc tế sẽ không có những thay đổi mang tính thực chất, “sự so sánh thực lực giữa châu Âu, Nhật Bản với Mỹ sẽ tiếp tục duy trì như hiện nay, sự chênh lệch về lực lượng giữa Trung Quốc, Ấn Độ với Mỹ có khả năng sẽ được thu hẹp, nhưng sẽ không có những thay đổi mang tính quyết định làm thay đổi cục diện phân phối quyền lực thế giới.” Liệu điều này có nghĩa là 20 năm sau sẽ có thay đổi. Nếu kinh tế Trung Quốc có thể duy trì tốc độ tăng trưởng 9%/năm trong 15-20 năm tới, sự so sánh thực lực Trung-Mỹ sẽ có những thay đổi mang tính căn bản. Tính từ năm 2007, nếu GDP của Mỹ tăng bình quân 3,5%/năm, tới năm 2017 và 2026, GDP của Mỹ sẽ lần lượt đạt 19,53 nghìn tỷ USD và 26,61 nghìn tỷ USD, trong khi đó GDP của Trung Quốc sẽ lần lượt đạt 7,7 nghìn tỷ USD và 16,71 nghìn tỷ USD, tương đương với 39,4% và 62,8% của Mỹ, và sẽ vượt hơn nhiều so với các cường quốc hạng 2 như Nhật Bản, Đức, Anh và Pháp. Mặc dù GDP bình quân đầu người của Trung Quốc vẫn có chênh lệch rất lớn so với các cường quốc hạng 2, nhưng thực lực tổng thể của Trung Quốc sẽ vượt qua những nước này. Có học giả dự đoán, ở giai đoạn sau của những năm đầu thế kỷ 21, sức mạnh tổng thể của Trung Quốc có khả năng hơn hẳn bất cứ một nước lớn thực sự và tiềm ẩn nào ngoài Mỹ. Xu thế lâu dài nói chung của chính trị quốc tế Đông Á sẽ là quyền thế của Mỹ suy yếu, ảnh hưởng của Trung Quốc tăng lên, thậm chí cuối cùng có khả năng xảy ra “sự chuyển dịch quyền thế” mang tính căn bản. Khi thực lực của Trung Quốc tăng lên, cơ cấu quyền lực quốc tế cũng sẽ được phân phối lại, sự đóng góp chi phí của Trung Quốc ở Liên Hợp Quốc cũng đã tăng lên. Hội phí và chi phí gìn giữ hòa bình của Trung Quốc trong năm 2007 tăng đến 42% so với năm 2006, tổng cộng 270 triệu USD, tỉ trọng hội phí của Trung Quốc tăng đến 2,7%; từ năm 2010, hội phí và chi phí gìn giữ hòa bình của Trung Quốc ở Liên Hợp Quốc sẽ lần lượt là 80 triệu USD và 300 triệu USD, chiếm tỉ trọng lần lượt tăng lên 3,2% và 3,9%. Định mức của Trung Quốc tại Quỹ tiền tệ quốc tế cũng sẽ tăng lên. Ý tưởng dự trữ tiền tệ siêu chủ quyền Trung Quốc đưa ra trước thềm Hội nghị G-20 ở Luân Đôn tháng 3/2009 ngầm bày tỏ những mong muốn của Trung Quốc đối với IMF. Trung Quốc giữ vai trò chủ đạo trong các cuộc đàm phán 6 bên về vấn đề hạt nhân Bắc Triều Tiên, dù ban đầu Chính phủ Trung Quốc “rất không tình nguyện”. Trên thực tế, những điều này chính là biểu hiện của địa vị và quyền lực quốc tế của Trung Quốc đang tăng lên.
Nếu kinh tế Trung Quốc có thể duy trì phát triển nhanh, tới khoảng năm 2039, GDP của Trung Quốc về tổng lượng sẽ vượt qua Mỹ, chi phí quân sự của Trung Quốc cũng sẽ xích gần, thậm chí là vượt tỉ lệ 38,2% chi phí quân sự của Mỹ. Ngân sách quốc phòng năm tài khóa 2007 của Trung Quốc là 355,491 tỷ nhân dân tệ, chiếm 1,38% GDP của năm này, trong đó 2/3 là những chi phí mang tính duy trì cho đời sống và huấn luyện quân đội; chi phí quân sự của Mỹ năm 2007 chiếm 4,5% tỉ trọng GDP. Tính toán theo tỉ trọng GDP, tới năm 2039, chi phí quân sự của Trung Quốc sẽ là 707 tỷ USD, và Mỹ 1.873 tỷ USD. Cơ cấu sức mạnh giữa Trung Quốc và Mỹ sẽ có những thay đổi lớn, sự so sánh thực lực quốc tế cũng sẽ có bước chuyển ngoặt lớn, ngoại giao của Trung Quốc lúc này sẽ là ngoại giao nước lớn đích thực.

Thứ hai, những thay đổi trong quan hệ giữa Trung Quốc với các nước xung quanh. Về mặt tổng thể, Trung Quốc tích cực tìm kiếm hợp tác với các nước láng giềng châu Á trong khuôn khổ mới của “chính sách thân thiện, hữu nghị với láng giềng”, “phần đông các nước châu Á hiện nay coi Trung Quốc là có thiện ý chứ không phải là ác ý, và đang tiếp nhận sự trỗi dậy của Trung Quốc.” Tuy nhiên, việc Trung Quốc trỗi dậy và cải tổ ngoại giao sẽ làm thay đổi quan hệ giữa Trung Quốc với các nước xung quanh. Nhật Bản là láng giềng phía Đông của Trung Quốc. Việc Trung Quốc tích cực tham gia các công việc quốc tế và khả năng chủ đạo các công việc thế giới không ngừng tăng cường sẽ kích động Nhật Bản. Thêm vào đó, Trung Quốc và Nhật Bản còn có tranh chấp lịch sử, dầu mỏ ở Biển Hoa Đông và đảo Điếu Ngư. Trước sự thay đổi và phát triển của Trung Quốc, Nhật Bản có thể sẽ có 3 sự lựa chọn: một là, tăng cường hơn nữa quan hệ đồng minh với Mỹ để cân bằng vai trò chủ đạo của Trung Quốc đối với các sự vụ ở Đông Á; hai là, từng bước thoát khỏi sự kiềm chế của Mỹ, trở lại Đông Á, tăng cường quan hệ với Trung Quốc; ba là, tăng cường thực lực của mình, đặc biệt là sức mạnh quân sự, tìm kiếm sự cân bằng giữa Trung Quốc và Mỹ, vừa không dựa vào Mỹ cũng không dựa vào Trung Quốc. Xét về lịch sử, Nhật Bản nhiều khả năng sẽ lựa chọn dựa vào một quốc gia nào đó. Với tình hình hiện nay, Nhật Bản sẽ lựa chọn Mỹ, tăng cường hơn nữa quan hệ đồng minh với Mỹ . Vì, “Trung Quốc chưa thể làm cho Nhật Bản tin tưởng, sự trỗi dậy của Trung Quốc sẽ không làm cho các nước láng giềng quan trọng nhất của nước này phải trả giá”. Tuy nhiên, khi thực lực tổng thể của Trung Quốc xích gần hoặc vượt qua Mỹ và thực hiện ngoại giao nước lớn, Mỹ sẽ khó có thể gánh vác cái giá phải trả khi đối kháng với Trung Quốc và lựa chọn chấp nhận Trung Quốc trỗi dậy, còn Nhật Bản có thể sẽ có sự lựa chọn chiến lược ngoại giao kiểu khác. Vì “khi đồng minh của Mỹ chấp nhận sự trỗi dậy của Trung Quốc, Trung Quốc sẽ có ảnh hưởng tới quan hệ giữa Mỹ với những nước này”. Cũng tương tự vậy, khi Mỹ chấp nhận Trung Quốc trỗi dậy cũng sẽ ảnh hưởng tới quan hệ giữa các đồng minh của Mỹ với Trung Quốc. Việc Nhật Bản ra sức đẩy mạnh Cộng đồng Đông Á đã phản ánh ngoại giao Nhật Bản thích ứng được với những biến đổi mới của cục diện Đông Á.
Nga là nước láng giềng phía Bắc của Trung Quốc, cũng là nước có thực lực quân sự lớn mạnh nhất ở xung quanh Trung Quốc. Trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh, quả cân trong quan hệ Trung –Nga (Liên Xô) nghiêng về phía Nga, nhưng sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc quả cân lại nghiêng về phía Trung Quốc, dẫn tới việc hai nước thiết lập quan hệ đối tác hợp tác chiến lược năm 1996. Năm 2001, Tổ chức hợp tác Thượng Hải được thành lập dưới sự khởi xướng chung của hai nước. Tới năm 2008, hai nước đã hoàn thành toàn bộ công tác phân chia biên giới, bao gồm việc chuyển giao đảo Ussuriysk. Trong một thời gian tương đối dài (20-30 năm), hai bên không tồn tại mối đe dọa chiến lược lẫn nhau. Do sự bao vây chiến lược của Mỹ và các nước phương Tây đối với Nga, thực lực dần tăng lên của Trung Quốc sẽ khiến Nga nghiêng về phía Trung Quốc nhằm cân bằng sức ép của Mỹ và các nước phương Tây. Khi thực lực tổng thể của Trung Quốc xích gần hoặc vượt qua Mỹ và thực hiện ngoại giao nước lớn, Nga cũng có khả năng sẽ trở thành nhánh quan trọng để cân bằng quan hệ Trung-Mỹ.
Hàn Quốc và Bắc Triều Tiên là các nước láng giềng quan trọng ở phía Đông Trung Quốc, hai bên có lịch sử lâu đời và không có những xung đột căn bản, sự thống nhất của Hàn Quốc và Bắc Triều Tiên vẫn cần sự ủng hộ của Trung Quốc. Hiện nay, Hàn Quốc có khuynh hướng nghiêng về Mỹ, Bắc Triều Tiên nghiêng về Trung Quốc. Khi thực lực tổng thể của Trung Quốc xích gần hoặc vượt quá Mỹ, vì lợi ích của mình Hàn Quốc sẽ lựa chọn trung lập thậm chí nghiêng về Trung Quốc, trong khi Bắc Triều Tiên sẽ tăng cường hơn nữa quan hệ với Trung Quốc.
ASEAN sau Chiến tranh Lạnh luôn tìm kiếm cân bằng giữa Trung Quốc, Mỹ và Nhật Bản. Nếu như hôm nay Trung-Mỹ chia rẽ, ASEAN cũng sẽ xảy ra chia rẽ, có một số nước sẽ nghiêng về Mỹ, một số nước sẽ nghiêng về phía Trung Quốc, và nhiều nước sẽ lựa chọn trung lập. ASEAN và Trung Quốc có tranh chấp trong vấn đề Biển Đông, việc Trung Quốc đề xuất “gác lại tranh chấp, cùng nhau khai thác” và nhường lợi ích cho ASEAN trong “Khu mậu dịch tự do Trung Quốc – ASEAN”, giúp tăng cường quan hệ giữa hai bên. Khi thực lực tổng thể của Trung Quốc xích gần hoặc vượt qua Mỹ, nhìn chung ASEAN có khả năng lựa chọn trung lập hoặc xích gần Trung Quốc, vì so với quan hệ Mỹ - ASEAN, quan hệ ASEAN – Trung Quốc có lợi ích chiến lược gắn bó hơn.
Ấn Độ là nước láng giềng phía Nam của Trung Quốc, hai nước có nhiều điểm giống nhau: đều là nước có văn minh lịch sử lâu đời, dân số đông, là các nước đang phát triển, tranh chấp chủ yếu giữa hai nước là ở vấn đề biên giới, và không có xung đột chiến lược. Khi thực lực tổng hợp của Trung Quốc xích gần hoặc vượt qua Mỹ và thực hiện ngoại giao nước lớn, dựa trên những toan tính lợi ích quốc gia, Ấn Độ có khả năng lựa chọn chiến lược trung lập mà không ủng hộ bất cứ bên nào, sự lựa chọn của Ấn Độ cũng là chỉ dấu của lịch sử và văn hóa nước này.

Thứ ba, sự thay đổi giữa ý tưởng thế giới của Trung Quốc với các mối quan hệ trong hệ thống quốc tế hiện có. Ý tưởng thế giới trong tương lai của Trung Quốc hiện nay là một thế giới hài hòa khá hiện thực, mục tiêu được thay thế trước đó là ý tưởng chủ nghĩa cộng sản vĩ đại. Cùng với sức mạnh tổng hợp tăng lên, vị thế của Trung Quốc trên vũ đài quốc tế ngày càng tăng lên thậm chí sẽ dần bước tới trung tâm của vũ đài quốc tế. “Sức mạnh tổng hợp tăng lên nhiều lần và địa vị quốc tế nâng lên nhanh chóng khiến Trung Quốc đã bước đầu có khả năng và ảnh hưởng tạo dựng hệ thống quốc tế. Qua mấy thế kỷ, Trung Quốc cuối cùng đã có quyền xét lại hệ thống quốc tế hiện có và quyền thiết kế hệ thống quốc tế tương lai.” Ý tưởng thế giới hài hòa của Trung Quốc sẽ có ảnh hưởng và cũng chịu sự kiềm chế của hệ thống quốc tế hiện nay. “Xu thế thế giới của Trung Quốc là vừa phòng ngừa và đấu tranh, vừa phối hợp và thuận theo, hơn nữa phối hợp và thuận theo còn nhiều hơn phòng ngừa và đấu tranh.” Ý tưởng thế giới hài hòa cần dựa vào các cơ chế quốc tế, mong muốn của nó là phải trải qua quá trình chuyển đổi từ lý tưởng tới hiện thực, cần thể truyền dẫn quan trọng của các cơ chế quốc tế. Ý tưởng thế giới hài hòa của Trung Quốc là muốn cải thiện hệ thống quốc tế hiện có, làm cho hệ thống này vận hành tốt hơn, có lợi hơn trong việc bảo vệ lợi ích của những người yếu thế, có lợi cho việc thể hiện giá trị của công bằng, hợp lý, bình đẳng, hòa bình, ổn định và đa nguyên. Mục tiêu đối ngoại của Trung Quốc không phải là xây dựng một trật tự thế giới mới khác, mà là liên tục đưa vào các “nhân tố Trung Quốc” tích cực, có thể đại diện cho tương lai trong hệ thống thế giới hiện nay. Hệ thống thế giới trong tương lai chủ yếu sẽ là sự tác động qua lại, chấn chỉnh và thỏa hiệp giữa quan niệm thế giới hài hòa do Trung Quốc làm đại diện và khái niệm chuẩn mực do Mỹ làm đại diện. Hoặc bề ngoài là quy tắc phương Tây, bên trong là hài hòa phương Đông. Hệ thống thế giới của tương lai vừa không phải là hệ thống phương Tây, cũng không phải là hệ thống phương Đông, mà là hệ thống thế giới kiểu mới phản ánh những lợi ích đa nguyên. Các cuộc “đàm phán sáu bên” về vấn đề hạt nhân Bắc Triều Tiên đã phản ánh một số dấu hiệu nào đó của hệ thống này.

Thực chất của việc Trung Quốc chuyển đổi mô hình ngoại giao là cùng với sức mạnh tổng hợp tăng lên, Trung Quốc cần thông qua thay đổi mô hình ngoại giao để bảo vệ lợi ích quốc tế ngày càng tăng lên, bảo vệ những lợi ích quốc gia trước đây không có khả năng bảo vệ. Khi thực lực và lợi ích quốc gia thay đổi, quan niệm thế giới của Trung Quốc cũng sẽ thay đổi, tư cách quốc gia của Trung Quốc theo đó cũng thay đổi, từ người cách mạng và kẻ bàng quan trong hệ thống quốc tế trước đây biến thành người xây dựng, tham gia và bên có lợi ích liên quan hiện nay. Điều cần chú ý là, sự chuyển đổi mô hình ngoại giao của Trung Quốc không phải là đi đầu, mà là muốn làm hết khả năng trong phạm vi có thể. “Chúng tôi không bao giờ muốn đi đầu, đây là một quốc sách căn bản.” “Vai trò đầu tàu này chúng tôi không mang nổi, sức cũng không đủ. Làm cũng chẳng được lợi lộc gì, rất nhiều cái chủ động đều đã mất.” Ngoại giao nước lớn của Trung Quốc không nên quá công khai, cần phù hợp với sức mạnh tổng hợp đất nước, phải hiểu rõ mình vẫn là nước đang phát triển. Dưới tiền đề vẫn ưu tiên hơn cho các công việc nội bộ hiện nay, Trung Quốc nên duy trì sự cân bằng giữa các công việc nội bộ với ngoại giao. Ngoại giao nước lớn của Trung Quốc nên là ngoại giao văn hóa, ngoại giao thiện ý như vẫn kiên trì trong lịch sử. Sự trỗi dậy của Trung Quốc nhất định là sự trỗi dậy có văn hóa, Trung Quốc sẽ lấy được lòng tin của “thiên hạ” bằng cái đức và lòng trân thành của mình.
Nói tóm lại, ngoại giao của Trung Quốc hiện nay đang trong thời kỳ chuyển đổi mô hình, các quyết sách ngoại giao của Trung Quốc cần suy tính kỹ càng và mưu tính có chiến lược, nếu không, lợi ích quốc gia sẽ bị tổn hại. Trung Quốc cần coi trọng và lợi dụng đặc trưng mang tính chu kỳ của ngoại giao, xử lý ổn thỏa một loạt vấn đề trong quá trình chuyển đổi mô hình ngoại giao. Ngoại giao Trung Quốc hoặc có thể sẽ có những thay đổi lớn hơn vào khoảng năm 2039, khi đó ngoại giao Trung Quốc hoặc sẽ chào đón những thay đổi và chuyển ngoặt mãnh liệt nhất kể từ thế kỷ 20 đến nay, hoặc sẽ là một sự thay đổi ngoại giao lớn cơ hội trăm năm có một./.

Bài viết đăng trên Tạp chí “Quan hệ quốc tế hiện đại”, Trung Quốc
Thái Thịnh (gt)
.
.
.

No comments: