Thứ Bảy, 23 Tháng Tư-2011
LTS: ...Chúng tôi trân trọng gởi đến quí văn hữu và bạn đọc bài viết “Nỗi niềm thế hệ trong ký và tự truyện của Văn học Di dân Việt Nam” của Nguyễn Hạnh Nguyên, một người viết trẻ, sinh ra và lớn lên sau chiến tranh, nhìn về quá khứ xuyên qua tâm tư của thế hệ sinh trưởng trong thập niên 60 ở miền Nam, từ sau biến cố lịch sử 30 tháng 4 năm 1975.
Tạp Chí HợpLưu
-----------------------------
Đã hơn một phần tư thế kỷ trôi qua kể từ dấu mốc lịch sử 30-4-1975 nhưng dư âm của nội chiến vẫn còn vang vang tiếng vọng day dứt. Tiếng vọng ấy không chỉ ngự trị trong ký ức của những người Việt lưu vong mà còn hiện diện trên những trang văn của họ. Không ngẫu nhiên mà những năm đầu thế kỷ XXI, ký và tự truyện là hai thể loại được khá nhiều nhà văn di dân lựa chọn để thử bút. Nếu tự truyện được xây dựng trên những chi tiết có thật về cá nhân tác giả, thì ký lấy chất liệu từ chính những thăng trầm trong lưu lạc của người viết. Ký còn có nghĩa là ghi lại từ ký ức. Bởi tính chất chân thực này nên ký và tự truyện được xem như chiếc cầu nối gần nhất giúp truyền tải những tâm tình.
Hầu hết những cây bút của Văn học Di dân Việt Nam đã sáng tácvới tâm nguyện như thế ― ghi lại những nỗi niềm mà chính họ đã trải nghiệm bằng ký và tự truyện. Nỗi niềm ấy vượt ra khỏi tâm tình của một cá nhân cụ thể, bởi tìm được sự đồng điệu của nhiều tâm hồn khác nữa. Sự đồng điệu của chung một quá khứ và gần như chung những chuyến tàu vượt biên... Do vậy, là nỗi niềm chung của cả một thế hệ. Thế hệ thuyền nhân và di tản phải lìa xa tổ quốc trong mất mát.
Trước khi tìm hiểu những nội dung cụ thể, bài viết sẽ giới thiệu đôi nét về ký và tự truyện của Văn học Di dân Việt Nam, chú ý vào hai điểmcơ bản là thế hệ những người cầm bút và những chủ đề sáng tác nổi bật.
1. Đôi nét tổng quan
Nhìn vào mốc thời gian, có thể thấy một số khá đông đều sinhtrưởng trong thập niên 60 của thế kỷ XX. Những năm sinh này nói lên điều gì?Nói lên một chi tiết đặc thù: Đây là thế hệ trẻ cuối cùng của nền Cộng hòa NamViệt đã sinh ra trong chiến tranh và lớn lên với kết thúc bi thảm của miền Nam. Chính thếhệ sinh trong thập niên 60 này là thế hệ sau cùng đã hấp thu Văn học Miền Nam và có ký ức về xã hội miền Nam, đã chớm ýthức và hiểu biết vào năm 75. Họ đã sống tuổi hoa niên cùng gia đình và nhữngngười thân trên mảnh đất phương Namnày. Họ đã chứng kiến ngày Sài Gòn sụp đổ, đã ít nhiều nhận thức sự khác biệtgiữa trước và sau 30 tháng 4, rồi họ đột ngột bị bứng ra khỏi nước như nhữngcây non chưa đủ rễ đã bị nhổ bật ra khỏi đất mẹ. Những ai không kịp chứng kiến“đổi đời” hay “giải phóng”, như cách nói của một bên thua trận và một bên thắngtrận, mà bị ném tung sang các lục địa khác, sự nhận thức khác biệt giữa quê hươngvà xứ lạ càng đậm nét : vì họ đã di tản đột ngột trong một buổi chiều, sau mộtgiấc ngủ trưa mà khi thức giấc còn thèm tiếng rao quà, hay trong vài tiếng đồnghồ hấp tấp ra sân bay, hấp tấp theo cha mẹ xuống tàu… Đặc thù in đậm nét ở đây:Là khác với thế hệ đi trước đã trưởng thành rồi tan vỡ trong chiến tranh, thế hệsau vỡ tan trước khi kịp trưởng thành. Họ hãy còn niên thiếu khi tan trên biểncả, tan trên các lục địa mới, tan theo chính nỗi niềm thất lạc của cha mẹ họtrên xứ người. Thế hệ đi trước ít viết ký tự giãi bày bởi vì dường như họ tránhtự tra vấn khổ đau, thay vào đó là hồi ký lao tù, cải tạo, cũng là khổ đau nhưnglà khổ đau ấp vào từ ngoài mà không phát xuất từ trong. Đây là điểm khác biệtgiữa thế hệ đi trước với thế hệ sinh thập niên 60.
Khác thế hệ trước như Nguyễn Bá Trạc trong tập Ngọn cỏ bồngnhanh chóng viết ký du hành lục địa, hay như Mai Ninh trong Mưa mùa xavà Trần Mộng Tú trong Bình Thủy 1969 viết ký trở về hay Trương Vũ viết Vềlại Sorrento; những tác giả sinh trong thập niên 60 viết ký khá muộn. Nhưcó một giao ước: Cho đến hôm qua, họ không dám động đến quá khứ vì bản thân họkhông biết hết tường tận, nhưng vì đã chứng kiến tận mắt gia đình ly tán, chứngkiến từ bên trong bi kịch của cha mẹ mình nên nỗi đau vẫn còn âm ỉ trong lòng họ.Nỗi đau thầm lặng này, cũng như nỗi đau của cha mẹ, tấy đỏ vào mỗi tháng 4 hằngnăm và sưng dần lên trong âm thầm cho đến một lúc, vụt trào ra trên trang giấytrắng.
Tuy mỗi tác giả có một cách tiếp cận riêng song nhìn chung,ký và tự truyện của các tác giả di dân Việt tập trung vào một số nội dung chínhsau đây:
▪ Ký tháng 4 và Ký vượt biên
Là ký của ngày ra đi như Ngày tôi mất tháng 4 của ĐinhTừ Bích Thúy, Tháng tư tội lỗi của Phạm Chi Lan, Tháng tư của Lý Ký Kiệt của Đinh Linh, Mắt Thuyền của Nguyễn Xuân Tường Vy, Tháng Tư Vữa của Nguyễn Thị Thanh Bình, v.v.. Trừ Nguyễn Thị Thanh Bình tương đối lớnvào tháng 4-1975, đây là loạt ký của tuổi thơ chưa kịp định hình bị vất rangoài đất nước khi chưa kịp suy nghĩ và ngay cả chưa kịp làm nạn nhân. Hoàntoàn thụ động nhìn người lớn tháo chạy mà chính họ chỉ là hành lý người lớn phảimang theo vì không bỏ lại được. Trong đầu họ đầy dấu hỏi, đầy ngơ ngác. Những dấuhỏi về sau sẽ lớn lên dần theo năm tháng bắt nguồn từ dấu hỏi nhỏ bé của ngàyra đi. Vì sao phải ra đi? Vì sao chạy khi đất nước thống nhất, vì những khoảngtối của thống nhất, hay vì những tàn nhẫn khác? Thậm chí họ chưa biết thế nào là“thống nhất” nhưng cảnh hốt hoảng của cha mẹ hấp tấp rời khỏi căn nhà nơi họ đãsinh ra sẽ vĩnh viễn ám ảnh. Ký tháng 4 và ký vượt biên là những dấu hỏi sẽ lớnlên dần cùng với chính họ.
▪ Ký trở về
Ám ảnh khi ra đi, nên bắt buộc phải quay về để chứng kiến lạimột lần nữa khung cảnh của ngày ra đi. Ít nhất là hình ảnh của đường phố nơichiếc bóng của chính mình còn lưu dấu vết. Ký trở về, như thế, là hành trìnhquay trở về để nhìn lại quá khứ từ điểm nhìn của hiện tại với nhiều suy tư vàchiêm nghiệm sâu sắc về chiến tranh, từ tuổi trưởng thành phóng chiếu về tuổithơ, về những thay đổi của quê hương ngày ra đi ― ngày trở về… Giữa hai dấu mốccó thể là những cuồng loạn hay khoảng trống, nhưng ở ― Ngày ra đi và Ngày trở về― vẫn là một thiếu niên Việt Nam, như loạt ký Hiệp hội tương tế Bắc Việt nghĩatrang, Sàigòn -ngày lạ mặt, Lưng trần của Trần Vũ; hay ký trường thiên Giữa hai miền mưanắng của Hoàng Mai Đạt, Đông Dương - đi 2007 của Phan Nhiên Hạo, Puerto Princesa City củaNguyễn Xuân Tường Vy trở về trại tỵ nạn Palawan nơi chính tác giả từng tạm trú.Chỉ là những mảnh vụn, nhưng ráp lại chúng giống nhau: mang chung những ký ứcvà sâu chuỗi thành ký ức chung của một phía bại trận.
▪ Ký chiếntranh
Những ám ảnh ra đimang cùng một nguyên nhân: Chiến tranh. Vậy nên chiến tranh thường xuyên hiệndiện trên những trang viết của họ. Chiến tranh không hiện diện trực tiếp hay đồngnghĩa với những trận đánh mà thu vào những chi tiết nhỏ bé mà chỉ những đôi mắttrẻ thơ hay thiếu niên mới trông thấy. Chiến tranh trên nét mặt của người lớn rồivới thời gian chuyển hóa thành những băn khoăn thao thức cùng suy ngẫm về nộichiến Nam-Bắc, từ điểm nhìn cá nhân người viết, như trong Di vật 1968 củaTrần Vũ, Sống với lòng nhân của Lê Thị Thấm Vân, Năm này tôi bằng tuổiba tôi của Phan Nhiên Hạo, Bộ quân phục của cha tôi của AndrewLâm... Có thể kể thêm Tạp chí Văn từ lòng đất và Tạp bút của trò tàncủa Ban Mai sinh 1963, cùng thế hệ và chung mạch suy nghĩ, tuy Ban Mai đã ở lạitrong nước. Qua ký của Ban Mai, người đọc khám phá các tác giả sinh trong thế hệnày rất giống nhau, có thể hoán đổi vị trí của họ mà tâm tình không thay đổi,chỉ có một số bị xô đẩy ra biển rồi thành di dân, còn những người khác đành ở lạicam phận im lặng. Cho đến khi thật lâu sau đó, cả trong và ngoài cùng một lúc cấttiếng nói, cùng viết ra giấy những bí mật của gia đình họ. Bí mật nhỏ bé trongchiến tranh tàn khốc và hòa bình khắc nghiệt sau nội chiến tương tàn. Khi ra khỏiđất nước, thế hệ này phải hội nhập và tìm thăng tiến từ vị trí di dân tay trắng: không vốn liếng, không sinh ngữ bản địa, phải tìm một vị trí trong xã hội củadân bản xứ đến đánh mất mình hay không kịp nhìn lại mình. Nguyên nhân: vì chiếntranh đã lướt qua và nếu chúng đã không gây nên thương tật rõ rệt trên thân thểhọ như đã làm què cụt cha anh họ thì chiến tranh đã để lại vết nám thâm sâutrong lòng họ.
▪ Tự truyện
Sự khác biệt giữaký và tự truyện, trước hết, là ở tính chất nhân vật. Vì sao ở một số tác giả nhưPhan Nhiên Hạo, Trần Vũ, Phạm Chi Lan, Hoàng Mai Đạt, Nguyễn Xuân Tường Vy tậptrung vào ký, ở một số tác giả khác như Trầm Hương, Đặng Thơ Thơ, Nguyễn Hương,Nguyễn Thanh Hùng tập trung vào tự truyện? Có thể thấy ở những tác giả viết ký: chính cá nhân họ là trung tâm điểm cất tiếng độc thoại thì thầm. Còn ở nhữngtác giả dùng tự truyện: bối cảnh xã hội tỏa lan sống động với bản thân họ vàgia đình họ như những nhân vật quay cuồng trong cơn lốc, tuy biên giới này khámong manh, nhập nhòe và đôi lúc mập mờ. Trong tự truyện họ không chỉ ghi lạithân phận cá nhân mà còn dựng lại bối cảnh gia đình, bạn bè, hàng xóm láng giềng,mỗi người là một nhân vật sống thở, khổ đau theo thời cuộc. Tác giả không duynhất trung tâm, có thể cha mẹ tác giả mới là trung tâm như trong tự truyện Cyanide chẳng mệnh chung củaNguyễn Hương, hoặc một hồ nước hay một khoảng sân thượng là trung tâm trong tựtruyện Mưa qua sân thượng của Trầm Hương. Tính chất cốt truyện, nhân vật,tình tiết và biểu tượng như thế nhiều hơn so với ký.
Đứng về đề tài, tự truyện của thế hệ này cùng mang những chủ đềkể trên. Vẫn xoay quanh tháng Tư, vượt biên, chiến tranh, tra vấn.. Hầu hết đặttrọng tâm vào những nỗi niềm thao thức hậu chiến và đặc biệt đặt dấu nhấn lên sựmất mát của tuổi hoa niên như trong Mưa qua sân thượng của Trầm Hương; hay Mở tương lai của Đặng Thơ Thơ viết về một cảnh đời của dòng họ Nguyễn Tường nổi tiếng sau tháng 4-1975; hay Cyanide chẳng mệnh chung của Nguyễn Hương gợi lên những băn khoăn sắc buốt vì tác giả đã hiểu ra bi kịch của đất nướcmình là một bi kịch ý thức hệ, một bi kịch chính trị. Đến tự truyện Ngàytháng không bao giờ lớn của Nguyễn Thanh Hùng, người đọc tìm lại những nétchung của hầu hết những ký ức tuổi thơ thành thị miền Nam: sự hồnnhiên vô tư của những đứa bé sống trong thủ đô tương đối an lành bình yên giữamột miền đất đẫm bom đạn.
▪ Năm sinh của một số nhà văn di dân sinh trong thập niên60
Sinh 1961: Nguyễn Thanh Hùng, Hoàng Mai Đạt.
Sinh 1962: Phạm Chi Lan, Nguyễn Hương, Trầm Hương, Đặng ThơThơ, Trần Vũ, Đinh Từ Bích Thúy, Lê Thị Thấm Vân, Lê Quỳnh Mai, Vũ Quỳnh Nh.,Nguyễn Trung Tây, Andrew Lâm, Thận Nhiên.
Sinh 1963: Cổ Ngư, Đinh Linh, Phạm Thị Ngọc, Ban Mai (trong nước).
Sinh 1964:Trang Thanh Trúc.
Sinh 1966: Y Chi (Nhược Thủy)
Sinh 1967: Phan Nhiên Hạo, Nguyễn Danh Bằng.
Sinh 1969: Nguyễn Xuân Tường Vy.
...
Do những khó khăn về việc sưu tầm tư liệu và tiếp xúc với tácgiả, nên bài viết này chỉ đặt trọng tâm khảo sát vào một số ký và tự truyện củasố ít cây bút di dân sinh trưởng trong miền Nam vào thập niên 60. Mặt khác, cònxuất phát từ nguyên do chủ quan là tác phẩm của họ tuy chiếm một số lượng nhỏ,nhưng họ đã nói lên được nỗi niềm không chỉ của riêng những người cầm bút mà củanhiều thiếu niên miền Nam đã chịu chung bi kịch mang tên 30 tháng 4.
2. Hành trình của những thao thức và tra vấn
Để diễn dịch tâm tưvà tái cấu trúc ký ức, hầu như các tác giả đều lựa chọn cho mình một trong haihình thức thể hiện sau: Một ― là tái hiện quá khứ từ điểm nhìn của hiện tại.Hai ― là thông qua hành trình trở về, quá khứ và hiện tại cùng song hành hiệndiện. Quá khứ và hiện tại nhập trùng trong suy nghĩ của họ. Dù mượn cách thể hiệnnào đi nữa, thì sáng tác của họ không nhằm ngoài mục đích là khơi dậy và suy ngẫmvề một giai đoạn bi kịch của chính bản thân và gia đình mình, có thể đã là quákhứ của một quốc gia không muốn công nhận “nội chiến” trong ngôn từ chính thức,nhưng mất mát vẫn tiếp tục còn vọng về đến mãi tận hôm nay.
Xuyên suốt và baotrùm trong ký và tự truyện của các cây bút Di dân thế hệ 60 là chủ đề phản ánhcơ bản : Nỗi đau tấy đỏ từ quá khứ và những tra vấn và tự vấn về thân phận.
2.1. Nỗi đau tấy đỏ từ quá khứ .
Không đơn thuần làmột khái niệm thời gian, ý nghĩa của ngày 30-4-1975 có một độ mở lớn hơn rấtnhiều. Đối với lịch sử dân tộc, đó là một sự kiện vô cùng trọng đại khi đất nướchoàn toàn thống nhất. Nhưng vinh quang nào cũng có mặt trái của nó. Khiniềm vui hòa bình tạm lắng thì cũng là lúc những bi kịch phơi bày. Và 30 tháng4 đã trở thành một dấu mốc đặc biệt: nó vừa là sự chấm hết nhưng cũng vừa đồng nghĩa với sự khởi đầu. Chấmdứt nội chiến nhưng lại nêu bật những tính chất của nội chiến. Tự trong bảnthân của ngày 30 tháng 4 tồn tại một nghịch lý: Hòa bình bằng vũ lực không hề mởra bằng niềm vui sum họp mà lại bằng chính những giọt nước mắt đau thương. Cùnglà đồng bào mà trong một đất nước lại tồn tại hai người Việt: người Việt chiếnthắng và người Việt chiến bại. Từ đây đã có biết bao nhiêu người phải rời bỏ đấtnước ra đi, mong tìm đất sống khi mà trên chính quê hương của mình ― họ lại bị khước từ một cách phũphàng. Và khi những tâm tình được chắp bút thì đối với cá nhân họ, viết cũng đồngnghĩa với “một hành động thao thức” ― thao thức về những gì mà họ đã trải nghiệm trước và sau thời khắc 30-4-1975. Chỉ một thời khắc mà tấtcả như đảo ngược hoàn toàn: trước, họ có tất cả và sau, họ mất tất cả. Vì vậy,30 tháng 4 đã trở thành một bước ngoặt đối với cộng đồng người Việt di dân nóichung và các cây bút sinh trưởng trong thập niên 60 nói riêng.
Đọc ký và tự truyện của các cây bút Di dân Việt Nam thế hệ1960, điều mà độc giả có thể cảm nhận được trước hết là những thao thức về quákhứ. Như một lẽ tự nhiên, con người thường có nhu cầu hồi tưởng lại quá khứ. Nếunhu cầu ấy càng lớn thì càng chứng tỏ quá khứ ấy có một vị trí hết sức quan trọngvà thường là góp phần tạo nên bản sắc của chính mình. Không ngẫu nhiên mà khánhiều tác phẩm ký và tự truyện của các nhà văn di dân Việt Nam thế hệ 60thường mở ra bằng những trang hồi tưởng về tuổi thơ. Có phải vì khi hoài niệm,con người ta thường nhớ đến những gì đẹp đẽ và trong trẻo nhất trước tiên. Đólà một lý do, nhưng mặt khác, nhớ về tuổi thơ là nhớ về cội nguồn, nhớ về quê hương,xứ sở… Với các tác giả kể trên, ra đi với họ là chặt đứt cội rễ, một sự bật gốc.
Hầu hết, họ đã có một tuổi thơ bình yên và không biết đến chiếntranh. Vì chiến tranh ở đâu đó mãi ngoài xa kia như lời kể của Đinh Linh trong Thángtư của Lý Ký Kiệt: “Lớn lên ở Sàigòn, tôi đã không chứng kiến chiếntranh, chỉ thấy những phụ tùng của chiến tranh thôi… Chiến tranh chỉ đến vớitôi qua Tivi, radio, báo chí… ” và cảm nhận của Nguyễn Thanh Hùng: “Chiếntranh chỉ có trên báo, trên radio và tin tức chiếu trên ti vi mỗi tối và thỉngthoảng rớt ra ngoài câu chuyện những buổi chiều bố uống bia ăn đậu phọng với mấyngười bạn. ” (Những ngày tháng không bao giờ lớn - Nguyễn Thanh Hùng)
Mỗi người trong số họ mang trong mình rất nhiều ký ức đẹp vềtuổi thơ. Từ trò chơi đầy mộng mơ của thế giới cổ tích ― công chúa nhỏ trong Mưa qua sân thượng của Trầm Hương đến những trò nghịch ngợm “phá xóm phá làng” của ĐinhLinh hay Nguyễn Thanh Hùng.
Không gian tuổi thơ cùng những đồ vật gắn bó thân quen và nhữngngười bạn thuở niên thiếu … tất cả đều in đậm trong trí nhớ của họ. Suốt một thờihoa niên, họ đã sống trong một thế giới đầy ắp màu sắc, âm thanh của những gì tươivui, rộn ràng nhất. Sở dĩ tuổi thơ của họ trôi qua êm đềm như vậy vì đã có nhữngngười lính Cộng Hòa chiến đấu để bảo vệ họ. Những gì Nguyễn Xuân Tường Vy viếtvề gia đình mình sau ngày di cư vào Namtrong Mắt thuyền là cả một sự yên ấm: “Gia đình tôi gốc Bắc. Hai bênnội ngoại di cư vào Namnăm 54. Chị em chúng tôi hầu hết sinh ra ở miền Trung, theo bước chân hành quâncủa ba. […] Gia đình tôi ở Tam Kỳ cho đến ngày phải di tản về Sàigòn. Tam Kỳ mưaphùn lạnh lẽo trong trí nhớ tôi non nớt. Tôi đứng bên song cửa thèm thuồng nhìnnhững đứa trẻ hàng xóm long nhong tắm mưa. Má cấm chị em tôi dầm mưa. Mùa đôngTam Kỳ chúng tôi mặc áo măng tô bên trong, áo mưa bên ngoài chờ chú Mới đưa đihọc bằng xe Jeep. […] Chiến tranh đang xảy ra ở căn cứ ChuLai hoặc nơi nào đó trên quê hương. Nhưng chiến tranh trong tuổi thơ tôi đầy êmđềm vì đã có những người lính như ba chết để bảo vệ chúng tôi. Cảnh nhà tôi vẫnấm cúng. Những người lính đem đến ấm cúng, đem đến hòa bình giữa chiến tranh.Chúng tôi yên ấm giữa bom đạn mù lòa.”
Sống “yên ấm giữa bom đạn mù lòa” với họ thật sự là mộtmay mắn. Hầu hết họ không bị ám ảnh bởi chiến tranh mà chỉ tiếp nhận những dưâm của bom đạn. Tuy nhiên, vẫn có trường hợp ngoại lệ, bằng sự nhạy cảm của tuổithơ nhận ra bộ mặt tàn bạo của chiến tranh. Trong ký Di vật 1968, Trần Vũtin đã bị chiến tranh chụp bắt bằng tiếng súng khi mới chỉ là một đứa trẻlên sáu: “Không biết từ bao giờ tôi nghiệm ra tuổi thơ của mình vẫn chưa chấmdứt. Tiếng súng AK trong đêm tối Tết Mậu Thân còn hộc lên như nhát búa. Tiếngsúng in sâu vào tâm trí mà tôi không hay.” và chiến tranh sẽ mãi là nỗi ám ảnhđi theo anh suốt cuộc đời: “Sau này tôi biết, chiến tranh đã chụp bắt tôi từtrận Mậu Thân. Mặc dù tôi chỉ là một đứa bé, chiến tranh không tha thứ. Tôi biếtmãi mãi chiến tranh sẽ chế ngự linh hồn mình, tàn phá hủy diệt tâm tínhmình.”
Không bị ám ảnh bởi chiến tranh, vậy đâu là nỗi ám ảnh thườngtrực trong tâm trí họ?
Phải chăng là những gì đã xảy ra trong ngày 30-4-1975 và sau nữa? Chỉ có bản thân nhữngngười trong cuộc mới thấu hết ý nghĩa bi kịch và định mệnh của thời khắc này. Vớituổi trẻ miền Bắc là vui mừng, với tuổi trẻ miền Nam nếu ra đi sớm trước ngày30 tháng 4 như Đinh Từ Bích Thúy, Đinh Linh, Nguyễn Hương, Phạm Chi Lan… họkhông tường tận chứng kiến ngày Sài Gòn sụp đổ nên ký ức của họ ít ấn tượng.Trí nhớ của họ chỉ ghi nhận cảm giác về thời điểm ra đi. Với Đinh Linh là sự vôtư: “phấn khởi vì lần đầu tiên trong đời tôi được đi xa.”; với Đinh TừBích Thúy trong Ngày tôi mất tháng Tư là sự ngột ngạt: “cảm tưởng nhưmình đang đứng trên bờ vực thẳm, nhưng không thể nào lao xuống sâu vào quênlãng.” Và phải rất lâu sau này, trải qua những năm tháng lạc loài trên đấtkhách quê người, họ mới hiểu nguyên do tại sao ngày ấy họ và gia đình mình bị đẩybật ra khỏi đất nước. Với những người ra đi đúng vào ngày 30 tháng 4 như PhạmChi Lan thì ấn tượng về thời khắc ấy in đậm trong trí nhớ. Trong Tháng tư tộilỗi, Phạm Chi Lan đã tái hiện lại tình cảnh hỗn loạn vào trưa 30 tháng 4: “Giữatrưa, nắng lên nóng gắt. Tiếng radio của ông chủ ghe mở lớn, át tiếng xì xàonói chuyện, bàn tán, cãi nhau. Ông Biên quát mọi người im lặng để ông nghe đài.Dương văn Minh đã đầu hàng. Thôi, thế là hết rồi. Người ta nhao nhao hét nhổneo mà chạy thôi. Ðám đàn bà con nít sợ hãi, ré khóc um sùm. Mặc ai nấy khóc,nói, quát nạt, chạy tới chạy lui, bứt đầu bức tóc. Tàu nào chung quanh cũng cócảnh tương tự. […] Ðoàn tàu nhổ neo túa ra biển như những chiếc lá tre, trực chỉphía hải phận quốc tế. Tai tôi lùng bùng giữa nhiều thứ âm thanh hỗn tạp, tiếnghét, tiếng khóc, tiếng đọc kinh, tiếng súng nổ, tiếng pháo kích, tiếng máy tàu,tiếng trực thăng quạt trên đầu… Có tiếng bàn tán của những người nhanh miệng trướcthời cuộc. Việt cộng đã vào Dinh độc lập. Có người ôm mặt khóc…” Chỉ một đoạnvăn ngắn, nhưng Phạm Chi Lan đem đến chongười đọc sự hình dung khá cụ thể về Sài Gòn với những thân phận bi đát. Giữabuổi trưa ác nghiệt ấy: Chờ đợi thấp thỏm, hy vọng rồi tuyệt vọng là tâm trạngchung của tất cả những người dân miền Nam. Sài Gòn thất thủ: “thôi, thếlà hết rồi. ” ― tiếng tathán thay lời khóc than ai oán. Chứng kiến và ra đi đúng vào ngày Sài Gòn sụp đổ,tâm trạng của tác giả Tháng tư tội lỗi vừa hoang mang vừa nuối tiếc.Hoang mang vì trong đầu vẫn băn khoăn với câu hỏi: Tại sao phải ra đi? Nuối tiếcvì đã mơ hồ có câu trả lời và ý thức về sự bật gốc: “…Giã từ đất liền, giã từViệt nam. Chúng tôi đã nhấc chân ra khỏi vùng đất quen thuộc, gắn bó. Tôi chợtnhớ tới một câu trong cuốn sách đã đọc. Chữ quê hương bỗng trở nên lạ lùng, khóhiểu đối với tôi kể từ lúc này.”
Cùng mang tâm sự như Phạm Chi Lan, mười lăm năm xa quê trở vềvà đi lại những đường phố quen thuộc của Sài Gòn, Trần Vũ bắt gặp lại hình ảnhcủa gia đình mình vào thời khắc 30 tháng 4: “Tôi trông thấy lại cảnh gia đình hốt hoảng chạy ra phi trường Tân SơnNhất. Tôi trông thấy lại cảnh chen lấn giữa tiếng súng Quân Cảnh cố vãn hồi trậttự. Thầy căng thẳng cực độ lái xe Toyotachở chúng tôi im thin thít tìm cách rời khỏi Sài Gòn hỗn loạn..”. (Sài Gòn,ngày lạ mặt) Bằng lối viết đồng hiện, quá khứ đã được hiện tại hóa trongkhoảnh khắc để tác giả có thể trông thấy lại một lần nữa nỗi tuyệt vọng của giađình mình. Ký ức lưu trữ nguyên vẹn như tất cả hãy còn đang diễn ra trướcmắt: Tôi trông thấy lại… tôi trông thấy lại… câu văn điệp ngữ ― được cấu trúc như những nốt nhấnvào cõi nhớ, như một lời nhắc nhủ không quên hay là sự cố gắng xoa dịu cơn đauthắt trong tâm hồn người viết? Tôi nghĩ rằng cả hai, bởi có đủ lý do để tin rằngnhững biến cố trong ngày 30 tháng 4 sẽ còn in hằn dấu vết rất lâu trong đời sốngcủa Trần Vũ và những người viết cùng thế hệ và chung một nỗi niềm với anh.
Với những người ra đi muộn hơn, sau 30 tháng 4, thì ký ức củahọ đầy những ghi nhận của buổi trưa định mệnh này. Hầu như tâm trạng của họ giốngnhau : đều hoảng sợ và kinh hãi trước những diễn biến của thời cuộc. Tự truyệncủa Đặng Thơ Thơ và Trầm Hương ghi lại khá chi tiết cảnh tượng hỗn loạn giữalòng Sài Gòn ngay trong buổi trưa tháng Tư đầy nắng :
“Chúngtôi ra bến Bạch Ðằng. Hỗn loạn và tàn bạo. Vài vụ cướp giựt vừa xảy ra cách chỗtôi đứng chừng ba mươi thước. Cảnh tượng này vừa kinh hoàng vừa quen thuộc, dùlà lần đầu tôi chứng kiến.[..] Chúng tôi lái xe về hướng xa lộ. Ðường xuống Phước Tĩnh bị cắt. Tất cả cácđường ra khỏi thành phố đã bị vây chặn. Chúng tôi quay lại Sài Gòn. Tuyệt vọnglen lỏi vào trong yên lặng của buổi trưa nóng nực. Bây giờ tôi hiểu tại sao cảnhtượng này quen thuộc. Tôi đã gặp chúng trong Cuốn Theo Chiều Gió, trong Một ThờiÐể Chết. Ðiều tôi đang chứng kiến đã có từ lâu, chỉ là nỗi kinh hoàng chung củanhân loại. Nỗi kinh hoàng cứ lặp đi lặp lại, nhiều lần, như một điều đã cũ.” (Mở tương lai – Đặng Thơ Thơ)
“Mộtbuổi sáng tháng Tư, nắng còn mới trên sân sỏi, những tiếng nổ ầm vang từ xa làmnáo động toàn trường…[…] Hỗn loạn lên cao ngày những bánh xe tăng khổng lồ cántrên mặt đường. Mẹ tập họp gia đình và những người giúp việc vào một phòng giữatầng trệt, tránh pháo kích, bom đạn từ máy bay trên trời và từ ngoài đường bắnvào nhà. […] Chúng tôi ngồi bệt trên nền nhà, trong tầm che chở của những baocát, chuẩn bị chịu đựng một tai biến khủng khiếp. Mẹ dặn dò xong, căn phòng chỉcòn tiếng máy phát thanh. Những người lớn chăm chú nghe, thỉnh thoảng một ngườichạy ra cửa trước nhìn qua kẻ hở xem động tịnh ngoài đường. Tôi cố gắng chú tâmđọc thầm những lời cầu nguyện bà đã dạy để xua đuổi những hình ảnh đói khát và đổmáu cứ hiện ra trước mắt. Bỗng có tiếng đập rầm rầm lên cửa khiến chúng tôi giậtthót người...” (Mưa qua sân thượng – Trầm Hương)
Với thệ hệ này, 30 tháng 4 đã đặt một dấu chấm hết cho nhiềuthứ mà trước hết chấm dứt tuổi thơ êm đềm của họ. Tuổi thơ bị tiêu tán như mộtphần thân thể họ bị đứt lìa. Đến với tự truyện của Trầm Hương, độc giả sẽ thấuhiểu nỗi đau mất mát này. Nỗi mất mát từ trong linh cảm: “Tôi linh cảm ngàycuối cùng của tháng Tư đã xóa đi thành phố tuổi thơ của mình và cuộc sống trướcmặt sẽ đếm từng ngày một.” Với Nguyễn Xuân Tường Vy là những cảm nhậnrõ ràng đau đớn: “Mười bốn năm, tôi mất tuổi thơ hai lần. Tôi mất Tam Kỳtháng Tư năm 75. Năm 83, tôi mất Sàigòn. Chiến tranh phá hủy tuổi thơ. Hòa bìnhđẩy tôi dạt ra biển cả. Những giọt nước mắt con gái khóc chia tay; không phảitôi khóc mà mắt thuyền đang khóc...” (Mắt thuyền – Nguyễn Xuân Tường Vy)
Bên cạnh nỗi đautuổi thơ bị ly tán, phải kể đến một nỗi đau lớn hơn, luôn đau đáu trong tâm thứccủa họ. Nỗi đau ấy gắn liền với những bi kịch mà họ chứng kiến sau ngày30 tháng 4. Vì vậy, một loạt ký và tự truyện của các nhà văn di dân Việt Nam thếhệ 60 đều hướng vào phản ánh hiện thực đời sống miền Nam sau ngày Giải Phóng. Mỗivăn phẩm là một lát cắt ― mộtmảnh ghép nhưng tập hợp lại đã tạo thành một bức tranh hoàn thiện : một miền Nam cơ cực lầmthan và bao trùm lên tất cả là bầu không khí ngột ngạt tù túng, mất tự do. Khiếnngười đọc phải tự hỏi: Miền Namđược giải phóng hay bị giải phóng? Câu trả lời vẫn còn là những thù hằn tranhcãi từ phía bại trận và huênh hoang cao ngạo từ phía thắng trận.
Trong tự truyện Mở tương lai của Đặng Thơ Thơ, cận cảnhđời sống sau 30 tháng 4 được lột tả với tất cả sự chân thực của nó. Từ nhữngthay đổi dễ thấy nhất ở những người sống xung quanh: “Ðồng loạt tất cả đều ănmặc lam lũ xấu xí, như thể đang cùng tham gia một vở tuồng. Họ tránh không nhìnchúng tôi. Họ không phải hàng xóm hay người quen biết nữa. ” đến cảmgiác bất an vì bị theo dõi, dò xét: “Chung quanh nhà đã được gắn nhiều con mắtlạ để hoài nghi theo dõi. Những con mắt dò chừng bố mẹ tôi viết kiểm thảo mỗi tối.Những con mắt tra xét xem tôi có trung thành với những điều tôi nói. Những conmắt đang truy nã cậu tôi. Những con mắt đang lùng quét ký ức chúng tôi.” Rồinhững tai họa phủ chụp lên đời sống như nhà cửa bị khám xét, của cải bị tịchbiên rồi bị đẩy đi vùng kinh tế mới: “Chúng tôi còn hai ngày nữa trong cănnhà này. Nhà sẽ niêm phong, đồ đạc sẽ có công an thành phố tiếp quản. Chúng tôiđược quyền mang theo người một ít quần áo. Y hệt như hồi bỏ nhà đi di tản, bỏ lạitất cả, chỉ mang theo một túi cá nhân. Nhưng lần này mọi sự chu đáo hơn, họ sẽlo phương tiện di chuyển và sẽ đưa chúng tôi đến vùng kinh tế mới.” Chủ quan hóa lối viết nhưng không đánh mất đisự chân thực, Đặng Thơ Thơ đã giúp độc giả tiếp cận một phần hiện thực đời sốngsau thời điểm 1975. Hơn một lần trong sáng tác của cô, hồi ức về những thángngày đó còn in bóng xuống trang văn dù có lúc tác giả nghĩ rằng: “mình đãnói hết, đã rút ruột trút vào” những gì mình đã viết. Nhưng dường như khôngphải như vậy. Bởi ký ức đau buồn sẽ không bao giờ có thể ngủ yên hay chìm sâuvào quên lãng như cách nói của tác giả: “Tôi sẽ kể không dứt về những bi kịchcủa mình? Tôi sẽ nạn nhân hóa chính mình trong tư cách một chứng nhân? ” (30tháng 4 và một ngày ở phía tương lai – Đặng Thơ Thơ)
Ở một góc độ khác, Nguyễn Xuân Tường Vy cũng không giấu đượccảm xúc cay đắng khi hồi tưởng lại tình cảnh gia đình mình sau ngày nội chiến kếtthúc: “ Tháng Năm năm 75, ba ra trình diện chính quyền mới. Tôi nhớ ngày điba mặc chiếc áo in hình bánh qui. Bánh rơi đầy vai ba như có ai vừa mở tung nắphộp thiếc. Những chiếc bánh qui hình vuông, viền răng cưa thơm thơm ngọt tantrong miệng. Chúng tôi không cho ba đi. Chúng tôi đeo theo, đứa đu tay, đứa ômchân. Ba đeo túi lên vai, hẹn mười ngày sẽ về. ... Ba tin vào lời hứa “mườingày”. Nhưng ba đã thất vọng. Gia đình tôi đã tuyệt vọng. Niềm tin không cứu đượcba. Ba đột nhiên biến mất khỏi cuộc đời chúng tôi lúc đó. Tôi không thể hiểu. Đấtnước thanh bình mà gia đình tôi tan nát”. (Mắt thuyền – Nguyễn Xuân Tường Vy)
Hòa bình là điều có thật nhưng hòa bình cũng đồng nghĩa với“sự khát khao thanh trừng của kẻ chiến thắng”. Không chỉ với riêngtác giả Mắt thuyền mà đã không ít những gia đình miền Nam cũng bị đẩyvào cảnh ly tán tương tự: người thân bị bắt bớ, bị kết án, giam cầm trong nhữngtrại cải tạo. Trong ký ức của nhiều người, ba chữ Tù Cải Tạo đủ gợi lênnỗi ấn tượng kinh hoàng. Không tái hiện lại bi kịch của cá nhân, song nội dungmà bài ký Sống với lòng nhân của Lê Thị Thấm Vân truyền tải lại có một sứcnặng đáng kể. Bằng cái nhìn thấu suốt tinh tế và đầy nhân văn, tác phẩm đã táihiện lại bi kịch của những người lính Cộng Hòa trước và sau 30 tháng 4. Trước ― họ được xem như những người anhhùng và sau ― họ là những tùnhân: “30-4-1975 chiếntranh Việt Namchấm dứt… Cửa nhà thông mở Bắc-Trung-Nam. Người dân mọi miền nắm chặt tay nhaunhưng lại hất tay người lính quân lực Việt Nam Cộng Hòa. Con đường độc đạo màhọ bị lùa vào là con đường học tập lao tù cải tạo. Những người Cộng Sản chiếnthắng miền Bắc đã biết trong đầu những nguời lính thua trận này nghĩ gì, dự địnhlàm gì, đã tìm hiểu họ đâu mà đã lùa họ vào nhà tù tập thể… để rồi đầy đọa, tratấn họ bằng đủ mọi cách. Vắt cạn tinh thần và thể xác họ như vắt đất khô chắt từnggiọt nước”. (Sống với lòng nhân - Lê Thị Thấm Vân)
Đọc đoạn văn này, cá nhân tôi không hề nghi ngờ gì tính chânthực, dù tôi biết Lê Thị Thấm Vân không phải là người trong cuộc. Bởi không phảichỉ một lần tôi bắt gặp trong ký và tự truyện của những cây bút di dân hình ảnhđậm chất bi kịch mà văn phẩm của Lê Thị Thấm Vân đã phản ánh. Trong tự truyện Cyanidechẳng mệnh chung, bằng hình thức đối thoại, Nguyễn Hương đã tường thuật lạiquãng đời lao tù của cha mình. Với bài ký Mắt thuyền, ngòi bút NguyễnXuân Tường Vy cũng dành một góc nhỏ để ghi lại điều này. Không né tránh dù sựthật có gai góc đến đâu. Có lẽ khi hướng ngòi bút của mình vào việc phản ánh nhữngảm đạm đen tối nói trên, tác giả Sống với lòng nhân đã viết với tâm nguyệnnhư vậy. Và nên chăng, cần một sự nhìn nhận đúng đắn và khách quan về cuộc nộichiến đã qua: “người công tâm, trí tuệ nhìn thấu rõ sự việc trong cuộc chiếnvừa qua… tất cả đều là nạn nhân. Không nên vuốt ve vết đau của riêng mình màbôi xóa vết đau của người khác.” Vì vậy, Lê Thị Thấm Vân đã khép lại bằng lờitri ân sâu sắc dành cho những người lính Việt Nam Cộng Hòa: “đã và đang gánh chịunhững khổ đau” để đem về sự “huy hoàng mai hậu” cho tổ quốc.
Bổ sung thêm cứ liệu về đời sống hậu 30 tháng 4, trong tựtruyện của Trầm Hương và Nguyễn Thanh Hùng, chúng ta có thể bắt gặp ở đó mộtgóc khuất khác sau ngày bàn giao. Đó là sự thay đổi của xã hội và những xáo trộnâu lo diễn ra hàng ngày, hàng giờ, từng ngày, từng giờ: “Ban chiều tôi đã đánhmột vòng qua khu trung tâm, khung cảnh lộng lẫy xưa đã thay bằng những sắc màu đỏvàng nghiêm khắc. Trên đại lộ Nguyễn Huệ vẫn còn hai hàng cây cao ngất nhưng thươngxá Tax đã trở thành nơi triển lãm hàng hóa công nghiệp. Chung quanh, một ít nhàhàng sang trọng và tiệm bánh Pháp còn kinh doanh nhưng bên trong nhìn trống rỗng,ít hàng, ít khách. Mấy năm nay, gạo trắng đã trở thành hàng cao cấp, cả đườngtrắng cũng khó mua được.” (Mưa qua sân thượng – Trầm Hương)
Đời sống như con tàu bị trật bánh, đột ngột rẽ vào một khúcngoặt mà “sự xáo trộn và bấp bênh không biết đến bao giờ mới hết? ”. Chứngkiến tất cả những biến cố của đời sống bên thềm của lứa tuổi thiếu nữ, tác giả Mưaqua sân thượng vụt hiểu là những giấc mơ lãng mạn của cô sẽ ngày càng xa vờinhư không khí đầm ấm trong gia đình cũng “đang mất dần với những sổ gạo,đổi tiền, đánh tư sản và những vụ xét nhà bất chợt ”. Những cụm từ như “hộkhẩu”, “sổ gạo”, “đổi tiền”, “đánh tư sản”, “xét nhà”, “tịch biên của cải”, “thủylợi”, “nghĩa vụ” … đã chạy suốt trong ký ức của rất nhiều thiếu niên miền Namcòn ở lại sau ngày 30 tháng 4 như trường hợp của Trầm Hương. Có ngang tráikhông khi hòa bình lại đồng nghĩa với những tai ương phủ chụp lên đời sống: mấttự do, bất an, phập phồng lo sợ, né tránh. Tự truyện Những tháng ngày khôngbao giờ lớn của Nguyễn Thanh Hùng cũng đem đến sự đồng cảm nhận như thế chođộc giả. Chỉ với một vài chi tiết như: “bây giờ súng ống đạn dược vương vãi đầyđường..”, “Bây giờ nguy hiểm lắm…” hay “không khí nhà trên trangnghiêm căng thẳng quá...” cũng ít nhiều đem lại những hình dung về tình cảnhđời sống lúc bấy giờ. Họ đã chứng kiến, cảm nhận những biến cố ấy bằng cái nhìncủa tuổi hoa niên và đâu chỉ dừng lại ở sự cảm nhận của cá nhân. Những gì họ đãnhận ra, đã chợt thấu hiểu, là sự soi bóng nỗi niềm của một xã hội, vì “thànhphố cũng như tôi ngẩn ngơ đi tìm phương hướng". Tai sao lại là "thànhphố tìm phương hướng”? Một cách nói ẩn dụ kín đáo đó thôi. “thành phố ngẩnngơ..” ở đây là sự thay thế cho tâm thức của những người dân miền Nam đang nỗ lựctìm cho mình một lối thoát sau chiến tranh. Thoát ra khỏi những quy hoạch, quy địnhkhắt khe mà họ đã so sánh với thời kỳ Cộng hòa để hiểu là thiếu tự do.
Sẽ không quá lời khi nói rằng ký và tự truyện của các cây bútdi dân Việt Namthế hệ 60 mang đầy những vết thương tấy đỏ. Vết thương này chưa liền da thì vếtthương khác đã lại sưng đau nhức nhối. Ký ức về đời sống hậu 30 tháng 4 là vết đauthứ nhất và ký ức vượt biên đầy bi kịch với thân phận thuyền nhân là vết đau thứnhì. Hai vết đau lúc chìm vào lặng câm, lúc dậy sóng trên trang văn của họ. Tạisao họ không quên đi những vết thương ấy mà lại “đào bới rồi trục xuất quákhứ lên trang giấy?” Sao họ không quên đi quá khứ đế hướng đến tương lai,như khẩu hiệu thịnh hành một thập niên qua như chính Đặng Thơ Thơ lấy tựa Mở tương lai cho tự truyện củamình, nhưng cô chỉ nhớ về quá khứ.
Tôi cho rằng nguyên do bắt nguồn từ sự tự ý thức của cá nhânngười cầm bút ― những ngườimang gánh nặng quá khứ thuyền nhân trên vai như lời tâm sự của chính họ. Khi trảlời phỏng vấn, Nguyễn Xuân Tường Vy nói : “Tôi muốn ghi lại kinh nghiệm và nỗi niềm của mình,trước và sau lớp người vượt biên duy nhất, sẽ không ai biết đến kinh nghiệmnày.” Và Trầm Hương chia sẻ: “Ngoài việc ghi lại nỗi niềm, một lýdo khác là tôi nằm trong hiện tượng thuyền nhân và muốn đóng góp cảm tưởng củachính mình về lý do tại sao tôi vượt biên.”
Trên nền thảm kịch chung của ký ức vượt biên, mỗi tác phẩm đivào một cảnh huống cụ thể.
Ký và tự truyện của Phạm Chi Lan, Nguyễn Xuân Tường Vy, NguyễnHương, Trầm Hương, ghi lại ấn tượng ngày ra đi trùng hợp với một biến cố của cơthể thiếu nữ. Cơ thể họ dậy thì: “Tôi cũng không còn là đứa trẻ cần nhónchân lên để tránh nước ngập miệng. Mực nước hồ thấp dần xuống ngực, thân thểnhú lên dưới làn vải ướt khiến mấy chị em chúng tôi ngượng ngùng thôi dầm mưachung.” (Mưa qua sân thượng – Trầm Hương)
Hối hả và lặng lẽ, họ ôm theo bọc hành lý sơ sài di tản cùnggia đình sau một buổi sáng thức giấc hay cuối buổi chiều muộn. Từ phút đặt chânlên thuyền đến khi ra biển, trí nhớ của họ tự động ghi lại tỉ mỉ những gì họ đãthấy, đã nghe, đã cảm nhận hay có khi trí nhớ chỉ làm công việc của nó một cáchthụ động bởi những gì đang diễn ra khi đó đã tự động ùa vào tâm trí họ và hằnghi ở lại mãi mãi. Hãy xem ký ức họ thâu nhận những gì về ngày ra đi?
Là sàn tàu chật ních người chồng chất lên nhau đến ngộp thởhay hầm tàu tối bưng? Là “gió nóng và bỏng rát...” Là cơn say sóng “ói tận mật xanh mật vàng...”khiến người “mệt lả, lịm đi không còn cảm giác” hay cơn khát khô cổtrong sắc xanh ngút ngàn của biển cả... Có lẽ bản thân họ chưa hề có sự chuẩn bịvà không thể hình dung ra hết những gì phải trải qua trên chuyến hải trình vượtbiển định mệnh đó. Vượt biên ― chỉ giản đơn như suy nghĩ của tác giả Mắtthuyền: “Khi mở mắt tôi không thấy gì ngoài bóng tối. Nhưng nhắm mắt tôicó thể hình dung đến tương lai. Tôi hình dung đến bờ bên kia của biển cả. Vượtbiên đối với tôi lúc ấy giống như đi đò từ bên này sông sang bên kia sông. Chỉmột lát thôi, tôi sẽ đến bến.” Lớn lên bên lề chiến tranh, tuổi dậy thì đếnvới họ vừa như một chu trình tự nhiên vừa trong sự chờ đợi và cảm giác bất an.Do vậy, bên cạnh nỗi thao thức ngày ra đi thì tâm trí họ còn canh cánh nỗi lo lắngmơ hồ về những biến đổi trong cơ thể mình. Và phút họ được cứu sống ― lẽ ra phảilà cảm giác mừng vui thì ngược lại, cảm giác tủi hổ, nghẹn ngào xâm chiếm lấy họ.
Trong tự truyện Cyanidechẳng mệnh chung, Nguyễn Hương viết: “Tôi không nhìn thấy mặt họ. Tôi không dám ngước nhìnmắt họ. Bộ đồ vải sợi in bông tôi mặc lóp ngóp dán vào da. Nhìn vào tôi, hànglính Mỹ sẽ thấy gì? Thân thể xấu hổ của đứa con gái da vàng sắp đến tuổi dậythì? Nhìn vào chúng tôi, những con người lóp ngóp trước họng súng, người ta sẽthấy gì? ”
Nối tiếp nỗi niềmcủa Nguyễn Hương, ký của Phạm Chi Lan thổn thức: “Cái đau ngất ngư” của chu kì con gái lần đầu tiênxảy đến bất ngờ. “Cơn đauhành kinh của tuổi 13 đã xảy đến đúng cái ngày oan nghiệt. […] Cơn đau ngấm ngầmcủa một đổi thay, ùa vỡ.” (Tháng Tư tội lỗi – Phạm Chi Lan)
Còn với NguyễnXuân Tường Vy, dù không phải là lần đầu tiên trải qua “biến cố con gái” nhưngphút giây ấy với cô vẫn đọng lại ám ảnh: “Tôi không nhớ đến những giọt máu rỉlúc ghe gặp bão, tôi ngồi trên bong tàu lạnh buốt. Lên đến tàu Nhật ShonanMaru, tôi không còn thấy máu chảy. Quần lót khô cứng với những giọt máu bầm đen.[…] Tôi vo chiếc quần lót trong lòng bàn tay và ném qua ô cửa sổ. Phải mất cảphút tôi mới thấy nó đáp xuống mặt biển. Cuốn vải thấm nước bung ra như một đóahoa… ” (Puerto Princesa City – Nguyễn Xuân Tường Vy)
Sở dĩ, ký ức vượtbiên trở thành ấn tượng ám ảnh là vì được cộng hưởng thêm bằng một sự đổi thaycó tính chất bước ngoặt của tuổi dậy thì. Lần đầu tiên các thiếu nữ này thấymáu chảy ra từ trong người mình và liên tưởng đến máu của những người lính CộngHòa và biết bao nhiêu người dân miền Nam đã đổ xuống trong và sau ngày 30 tháng4. Hai biến cố xảy đến cùng một lúc đã nhân lên những suy ngẫm cay đắng về sự mấtmát, chia lìa: “Tôi ghét tôi, tôi ghét thân phận mình trong một đất nước ViệtNam đã sinh ra tôi, để phải tủi cực bỏ nó ra đi trong một ngày kinh hoàng nhất ”.(Tháng Tư tội lỗi – Phạm Chi Lan)
Ấn tượng này càngdữ dội, khi trước ngày ra đi các thiếu nữ này ở vào lứa tuổi đẹp nhất : “Mườisáu tuổi, chúng tôi đẹp như những búp hồng nhung muốn bật tung cánh.” (Mưa quasân thượng – Trầm Hương)
Bên cạnh đó, ký vàtự truyện của Đinh Từ Bích Thúy, Đinh Linh, Trầm Hương và Nguyễn Thanh Hùng ômtrọn những thao thức, băn khoăn trước hành trình ra đi. Tuy gần nhau về nộidung phản ánh nhưng xuất phát từ điểm nhìn cận ảnh của người viết mà thông điệpcủa mỗi tác phẩm khác nhau. Một mặt, ký của Đinh Từ Bích Thúy, Đinh Linh và tựtruyện của Nguyễn Thanh Hùng là tâm tình của lứa tuổi không chứng kiến tận mắtbiến cố 30 tháng 4, chưa ý thức được hết nguyên do phải lìa bỏ quê hương, xứ sở.Họ hoàn toàn thụ động trước sự sắp đặt của người lớn. Và cuộc di tản cótính chất bước ngoặt đối với cuộc đời họ ― trong suy nghĩ của họ lúc bấy giờ chỉ như một chuyến đi chơi xahay đi đâu đó chỉ vài ngày rồi lại về: “Mấy đứa tụi tôi mỗi đứa ôm một cáitúi vải chỉ toàn quần áo, đồ chơi không được mang theo lệnh trên đã đưa ra …Bốtôi đã nói đi nói lại …Ra ngoài sân hai anh em tôi đứng tần ngần nhìn lũ cá taitượng, những chậu lan treo lủng lẳng tiếc rẻ, mong ước thầm biết đâu không cầnmang theo chắc tý nữa là về ”. (Những tháng ngày không bao giờ lớn –Nguyễn Thanh Hùng)
Trong khi sáng tác của những ai đã ý thức được điều này thì đongđầy nước mắt: “Gió đã hạ và trong hương sứ trắng, cô gái bé nhỏ của cha LongVương đang tấm tức khóc. Tôi chậm vòng xoay rồi dừng lại nhìn cô. Nước mắt côlà những hạt trân châu từng thấm trên da tôi. Ánh mắt cô là ánh mắt tôi tha thiếtniềm thương tiếc. Cô không nỡ xa rời sân thượng đầy kỷ niệm, nên cô ở lại. Ngườithiếu nữ đã biến mất còn tôi sẽ không thể trở về.” (Mưa qua sân thượng – Trầm Hương)
Như một tự khúc, Mưa qua sân thượng là tâm tình xáo trộncủa lứa tuổi đã ý thức được bi kịch ly tán và mang nhiều mộng mơ nuối tiếc trướcngày ra đi. Bằng giọng văn mềm mại thanh nhã và giàu cảm xúc, tác giả dẫn dắtngười đọc đi qua miền hồi ức có sắc hoa sứ trắng, có những vì sao lấp lánh xaxôi, với những trận mưa ngây ngất đất trời… Trong thinh không ấy, hình ảnh côngchúa nhỏ ở lại sân thượng và cô nữ sinh ngày ra đi - cùng song hành hiện diện đểsoi chiếu, tỏ bày những nỗi niềm.Công chúa nhỏ của tuổi thơ và cô nữ sinh đang tuổi dậy thì của Trầm Hương làhai phản thể : tình thương đất mẹ với nỗi lòng con gái ở lại - còn thân xác phảira đi chịu cách ly vĩnh viễn. Và việc rađi như đặt một dấu chấm hết đột ngột và khiên cưỡng khiến tất cả đều hóa dởdang. Khước từ hay chấp nhận, cô không có quyền lựa chọn ra đi hay ở lại. Mộtcách từ tốn, Trầm Hương đã giãi bày niềm tiếc nuối cho những gì mình quý mến sẽkhông thể đem theo trên hành trình sắp tới - hành trình ra biển đi tìm tươnglai khi “biển đã tràn vào thành phố”. Tác giả đã tự hỏi mình nên chuẩn bịgì cho hành trình ấy? Hành trang đâu chỉ có niềm lưu luyến với gia đình, ngườithân, bè bạn mà là những nỗ lực nhận diện thần chết trong sự hoang mang tộtcùng: “Sự chết là gì mà đầy uy quyền, chỉ nghe phong phanh đã khiến con ngườisợ hãi? Một thiếu nữ cần bao nhiêu can đảm để đi gặp thần chết cũng như đối đầuvới những xâm phạm còn tệ hơn cái chết? […] Tôi chưa bao giờ biết thần chếtkhoác nhiều lớp áo mang nhiều màu sắc đến vậy.” Bằng lối so sánh “lạ hóa” đầyhình ảnh cộng với những động từ, tính từ mạnh được sử dụng liên tiếp; Trầm Hươngđã diễn tả khá trọn vẹn những hiểm nguy trực chờ trên hành trình ra biển của nhữngthuyền nhân.
Tái hiện lại thời khắc mà thân phận mình lênh đênh cùng chiếcthuyền vượt đại dương như trong sáng tác của Phạm Chi Lan, Nguyễn Xuân Tường Vylà một ký thác. Tái hiện nỗi trăn trở trước chuyến hành trình ấy như sáng tác củaTrầm Hương là một sự tìm tòi thể hiện để không trùng lặp. Những văn phẩm bổsung cho nhau giúp nói lên một cách trọn vẹn tâm tình của thế hệ thiếu niên miềnNamđã phải rời bỏ quê hương trong một tình cảnh bất thường. Vì vậy, sẽ là rất thiếusót nếu bỏ qua ký của Trần Vũ ― một minh chứng giúp người đọc có cái nhìn toàndiện hơn về bi kịch thuyền nhân. Tác giả đã dành một phần dung lượng trong ký Hiệphội tương tế Bắc Việt nghĩa trang ghi lại hồi ức về những ngày đói lả sauthảm họa bị chìm tàu trên đại dương: “Tôi theo đám ma đói tỵ nạn gõ cửa từngtúp lều. […] Tôi lùng sục khắp các hẻm rừng, K kiệt sức nằm thiêm thiếp dưới gốccây đợi. Tay chân tôi mưng mủ những vết cắt của san hô, da dẻ tôi nhănnheo… Tôi mang cơn sốt bừng bừng của 13 ngày đứng biển, mặt đất chòng chành nhưtrôi trên sóng. Tôi lấy vạt áo học sinh… mừng quýnh đựng cơm ông lão chài lướibốc cho. Miệng tôi ngậm miếng cá khô, hai tay tôi bụm áo chạy về gốc cây K đangđợi. Tôi mừng quýnh muốn kêu: Anh ơi, có cơm rồi. Tôi mừng quýnh quên gan bànchân rách nát vết cắt đá ngầm. Tôi mừng quýnh vấp ngã sấp mặt, miếng khô cá lănlông lốc…”
Những hồi ức này của Trần Vũ khiến tôi liên tưởng tới bài ký PuertoPrincesa City của Nguyễn Xuân Tường Vy. Bằng giọng văn tự nhiên bình dị, TườngVy đã đưa người đọc đi tiếp hành trình bi kịch của thân phận thuyền nhân ở mộtchặng khác: trại tỵ nạn trên đảo Palawan. Đâylà điểm đến. Điểm dừng chân của họ sau hải trình nhọc nhằn và đầy hiểm nguytrên những con thuyền mong manh. Đến được trại tỵ nạn là một may mắn vì dẫu saohọ đã bảo toàn được mạng sống ― hơn là bỏ mạng trên đại dương bão tố hay dướibàn tay tàn bạo của hải tặc. Mang tính chất là một địa điểm chuyển tiếp, trại tỵnạn không phải đích cuối cùng trên hành trình đi tìm tương lai như cáchnói của những người ra đi. Nhưng từ nơi đây, họ đã định nghĩa được nỗi mất máttừ chọn lựa của chính mình. Thay lời chung, tác giả Puerto PrincesaCity hạ bút : “NgườiViệt bỏ lại trên mảnh đất quê hương nhiều hơn một mối tình. Chúng tôi đã mất hết.”Ở lứa tuổi đó, lớp người thuyền nhân như trường hợp Nguyễn Xuân Tường Vy “chưabiết quay quắt về thân phận mình ” mà nỗi nhớ chỉ mới đong đầy hình ảnh củabạn bè, của những kỉ niệm tuổi thơ bị bỏ lại sau lưng. Không nhiều cây bút Didân thế hệ 60 viết hồi ký tỵ nạn như Nguyễn Xuân Tường Vy. Văn phẩm của chị đãkhép lại chặng hành trình trên biển và là điểm nối tới đích đến là những miền đấtmới ― nơi mà thuyền nhân hoán đổi vị thế thành những người lưu vong. Vì vậy, PuertoPrincesa City đã góp thêm một tiếng nói vào việc nhận diện mảng hiệnthực quá khứ u trầm của một thế hệ “lớn lên bằng một chấm dứt phũ phàng, khởiđầu bằng một tuyệt vọng.”
Ngược dòng thời gian, chuyến tàu ký ức của những cây bút Didân thế hệ 60 đã tìm thấy bến đỗ trong những ký thác riêng. Mỗi một ký tháckhông chỉ là sản phẩm của tài năng và tâm huyết mà quan trọng hơn, là “tiếngnói của một lớp người đã trực tiếp cọ xát với biến cố, cùng thảm kịch do biến cốnày tác động trực tiếp lên cuộc đời họ”. Vì vậy, sẽ không có gì là khó hiểukhi những dòng văn trữ tình thắm thiết và cũng đau thương nhất trong ký và tựtruyện của các cây bút Di dân thế hệ 60 lại dành cho những thao thức về quá khứ.Đồng thời, những thao thức này đã góp phần cắt nghĩa những suy tư về thân phậncủa chính họ.
2.2. Những tra vấn và tự vấn về thân phận.
Vừa là nạn nhân vừa là chứng nhân của bi kịch nội chiến, cáccây bút Di dân Việt Nam sinh trưởng trong thập niên 60 là thế hệ mang đặc điểmriêng. Sau biến cố tháng Tư, chỉ một số ít ở lại trong nước sống cuộc sống camchịu lặng câm, còn lại phần lớn đều bị ném ra khỏi đất nước. Từ đây, cuộc đời củahọ được viết tiếp bằng những ngày long đong trên biển và những vất vả cay đắng đểhòa nhập với cuộc sống nơi xứ người : lam lũ, nhọc nhằn, bị kì thị, cảm giác lạcloài, nhớ nhà, nhớ gia đình, cô đơn, đơn độc… Chính những trải nghiệm như thế đãthôi thúc họ cầm bút. Họ đã viết bằng tất cả sự đau đáu khắc khoải về quá khứvà bằng những suy ngẫm mang chiều sâu ý thức về thân phận. Có thể nói ý niệm vềthân phận là điều bất cứ cá nhân nào cũng từng nghĩ đến chứ không riêng gì nhữngngười viết văn. Với các nhà văn Di dân thế hệ 60 thì ý niệm về thân phận đã trởthành một trọng điểm cơ bản trong sáng tác của họ. Lý giải điều này, theo tôi –nguyên do chủ yếu xuất phát từ chính sự thức nhận về bản thân họ. Có thể khẳng địnhrằng các cây bút di dân sinh trưởng trong thập niên 60 là một thế hệ mất mát. Sựmất mát này biểu hiện qua năm sinh và hoàn cảnh cụ thể của mỗi cá nhân đã chứa đựngđịnh nghĩa/tiền định sự cắt đoạn trong thân phận và bản sắc. Thay lời chung tácgiả Ngày tôi mất tháng Tư đã định danh đặc điểm thế hệ mình bằng lời tựbạch : “Tôi đã thay đổi vì biến cố tháng 4/1975 nhưng cũng có thể tôi đã mấtthiên đường từ trước khi ra đời”. Chỉ một câu văn ngắn song ý nghĩa mà nótruyền tải có một độ mở và chiều sâu vượt ra ngoài khuôn khổ của từ ngữ. “Mấtthiên đường từ trước khi ra đời” là một cách nói ẩn dụ kín đáo. Nó biểu cảmmột điều : trước khi tác giả và những người cùng thế hệ như chị chào đời thì ViệtNam đã bị ly tán thành hai miền Bắc và Nam và sự kết thúc của chiến tranh ViệtNam trong năm 1975 với sự thất thủ của miền Nam là một định mệnh không thểtránh khỏi. Rồi sau tháng Tư 1975, bản thân họ cũng bị mất đi chính tuổi thơ vàtuổi mới lớn khi phải rời bỏ nơi “chôn rau cắt rốn” và phiêu dạt nơi đất kháchquê người. Mất mát nối tiếp nhau, họ cũng không có được một tuổi thơ hay tuổi mớilớn trọn vẹn ở những quốc gia phương Tây mà họ định cư. Họ đã bị mất cả hai : Đôngvà Tây, nhưng nếu nói một cách khả quan hơn thì có lẽ họ đã có cả hai Đông vàTây ... méo mó. Khi đến với văn chương và ít nhiều khẳng định được tên tuổi củamình thì sự thành công này với họ không phải là ngẫu nhiên. Bởi vì không khí “mới”trong sáng tác của họ là kết quả của những mất mát sâu xa, như chuyện tiền định,như điều không thể tránh khỏi từ biến cố bi thảm 30 tháng 4.
Mang trong mình tự sự bi kịch nói trên – tâm thế ấy đã trởthành hành trang để họ khám phá thế giới xã hội bên ngoài. Bản sắc thế hệ đã kếtđọng lại trong sự tự vấn và tra vấn về thân phận của họ ở một số câu hỏi như :Tôi là ai? Vì sao tôi và gia đình tôi ly tán? Quê hương là gì/ở đâu? Nhìn mộtcách tổng thể thì những câu hỏi này có sự liền lạc nhất định với nhau, cùngsong hành trong mỗi ký thác trên trang văn và trong tâm tưởng của họ.
Về câu hỏi thứ nhất : “Tôi là ai?” thực chất là một câu hỏimang màu sắc triết học và có thể được cắt nghĩa với một nội hàm tương đối rộng.Riêng trong địa hạt của văn chương, con người cũng không ngừng đào sâu, tìm hiểuvà khám phá để cắt nghĩa cho câu hỏi đầy ưu tư : “Tôi là ai?”. Nên chăng có thểhiểu câu hỏi này ở một phạm vi hẹp là sự băn khoăn của con người về vị trí củamình trong vũ trụ. Đối với người Việt Nam thì câu hỏi ấy chính là sự bănkhoăn giản dị về vị trí, vị thế của mình trong xã hội. Mỗi một thế hệ sẽ tìm thấycâu trả lời cho riêng mình trong cộng đồng xã hội đương đại. Với riêng những ngườiViệt di dân thì nỗi băn khoăn này càng tăng lên. Bởi vì khi ra khỏi đất nướcmình – họ không còn thuộc về xã hội cổ truyền phương Đông nữa mà là xã hội phươngTây – khác chủng tộc, văn hóa và nếp nghĩ. Người bản xứ sẽ không bao giờ xem ngườinhững người Việt di dân là dân của họ mà coi là dân nhập cư, ngụ cư. Vấn đề căncước, gốc gác, do vậy đè nặng lên tâm thức của mỗi di dân. Đặc biệt, với thế hệsinh trưởng trong thập niên 60 thì sự băn khoăn này càng đậm nét vì thế hệ nàyít chất Việt khi rời tổ quốc, do họ còn nhỏ. Một cách nhanh chóng, họ đã hội nhậpvào xã hội phương Tây da trắng, nói tiếng bản xứ lưu loát nhưng vẫn còn trong hồnhọ một phần Việt Nam mà họ không thể quên và chính phần nhỏ nhoi này từng lúcthức giấc trong tiềm thức họ. Thế hệ lớn tuổi thuần Việt Nam thì không đặt câu hỏi này vì biết mình 100 %Việt Nam.Thế hệ 70, 80 cũng không đặt câu hỏi này vì họ bị “Tây hóa” hoàn toàn. Vì vậythế hệ 60 là một thế hệ mất mát tang thương vì họ tan vỡ trước khi kịp thànhhình, nhưng ngay cả khi tan vỡ, vẫn sót lại những mảnh chai quá khứ trong lònghọ. Vì vậy ký và tự truyện của họ là những mảnh thủy tinh – đã cứa đứt tay họkhi họ cúi nhặt; đã cứa ruột họ khi họ mang trong mình và chúng hãy còn lấplánh những hình ảnh cũ xưa. Một trong số đó, ký của Nguyễn Xuân Tường Vy làminh chứng tiêu biểu cho nỗi băn khoăn thân phận đầy day dứt kết lại ở câu hỏi:“Tôi là ai? ”. Nếu “ngoái đầu lại là cái thường tình của kẻ ra đi” (Võ Phiến)thì Puerto Princesa City của Nguyễn Xuân Tường Vy là một sự“ngoái đầu lại” như thế. Từ thời điểm hiện tại, tác giả trở về trại tỵ nạn Palawan để chiêm nghiệm lại bi kịch của quá khứ. Trongchuyến hành trình ấy, không chỉ những kỉ niệm được đánh thức mà những suy ngẫmvề thân phận cũng mở ra : “Một ngày thật dài. Dài hơn cả là sự hụt hẫngtrong lòng tôi. Tôi là ai? Câu hỏi tôi loáng thoáng bắt gặp trên đất Mỹ, nhưngkhông ngờ hôm nay trở nên mãnh liệt." “Tôi là ai?” – câu hỏi chỉ vỏn vẹn với ba ký tự mà sao sự cắt nghĩa về nó không hề giản đơn. Và dường như mỗi ngày nó càng nhân lên trong sự trăn trở bất tận của người viết : từ “loáng thoáng bắt gặp” hôm qua đến “trở nên mãnh liệt” hôm nay. Bằng giọng văn từ tốn ẩnsâu dưới những xúc cảm cay đắng, tác giả đã từng bước đi tìm câu trả lời chokhông chỉ riêng mình mà cho cả chung một thế hệ. “Tôi là ai?” – “ là côngdân Việt, thứ công dân sổ đen con Ngụy ” buộc phải dứt bỏ quê hương ra đitìm tự do, tìm tương lai. “Tôi là ai?” – là con người đáng thươngchạy loạn vì biến cố, tạm lánh ở xứ người nên gọi là kẻ tỵ nạn mang trong mìnhnỗi quay quắt thân phận “không có quê hương, không thể có quê hương vì khôngđược quyền sở hữu quê hương”. “Tôi là ai?” – là thân phận di dân ngơ ngác không biết trả lờithế nào với bạn bè quốc tế : “Where are you from?” (Bạn từ đâu đến?) và“What’s your country?” (Quê hương bạn là gì?) khi “không có cờ, khôngcó tên, tôi bước hụt hẫng trong lòng thành phố lạ ”. Đó còn là tâm trạng củamột kẻ “biết đâu nguồn cội” khi trong đầu còn vang lên hai tiếng thân thương“Việt Nam”mà môi ngập ngừng không thể cất lời. Hòa chung vào những tự vấn và tra vấn thânphận trong sáng tác của Nguyễn Xuân Tường Vy còn là sự cộng hưởng trong ký và tựtruyện của các cây bút di dân khác nữa. Mặc dù có thể họ không trực tiếp đặt racâu hỏi nhưng nỗi băn khoăn này thường ẩn hiện thấp thoáng đằng sau những câuchữ bởi hiếm có di dân nào không “loay hoay tự hỏi mình là ai, không khátkhao tự định nghĩa lại mình”.
Về câu hỏi thứ hai : “Tại sao tôi và gia đình tôi ly tán?” –thực chất là nỗi băn khoăn về hệ quả bi kịch của cuộc nội chiến. Và điều này đãđược ngầm định cắt nghĩa trong những thao thức về quá khứ trên trang văn củacác cây bút Di dân thế hệ 60. “Tại sao tôi và gia đình tôi ly tán?” không giản đơnchỉ là một câu hỏi mà đã trở thành một vết cắt – vết đau mãi mãi trong tâm hồnhọ. Ai/ Điều gì có thể bù đắp, xoa dịu vết thương này cho những di dân như họ?Tiếc rằng không gì cả. Lịch sử không thể đảo ngược lại vòng quay của nó tựa nhưviệc họ đã bị đẩy bật khỏi quê hương và không thể nào quay trở về để được làm mộtngười Việt bình thường như biết bao người Việt khác trên mảnh đất hình chữ S.Vì không thể trở về nên đời sống hiện tại của họ chông chênh ở khoảng giữakhông gian của quê nhà và quê người, quá khứ và hiện tại, hoài niệm và hoàibão. Đồng thời chính điều này đã bắc nhịp cho câu hỏi thứ ba hiện dần lên trongtâm trí của họ : “Quê hương là gì, ở đâu?”
“Quê hương là gì, ở đâu?” là biểu hiện cao độ của sự ý thức vềthân phận - hướng vào sự cắt nghĩa về nguồn cội mà mỗi cá nhân họ thuộc về. Họkhao khát kiếm tìm sự định nghĩa trọn vẹn nhưng lại không dễ tìm thấy ngay câutrả lời vì quê hương trong lòng họ không còn là mảnh đất Việt Nam. Hoặc nếucòn thì cũng trở nên mơ hồ như sự cảm nhận của tác giả Mở tương lai : “Quê hương bây giờ đã quyvề một người nào đó, một tình cảm nào đó, một khoảng thời gian nào đó trong đờichúng ta. Quê hương bây giờ đã thu về một ảo ảnh nào đó, một dạng vô hình nào đó,bao la hơn và mơ hồ hơn”. Có thể nói, ở đây “quê hương” đã không còn gắn liềnvới không gian địa lý của biên giới và lãnh thổ như sự hình dung thông thường.Nó đã trở thành sản phẩm của ký ức, được đan dệt và tạo hình lại bằng chính ký ứccủa mỗi người ra đi: “Tấtcả bắt nguồn từ ngày 30/4, cái ngày như một thứ lỗ đen, hút quê hương vào lòngchúng ta. Đứng trước đe dọa của chuyển dời và ly tán, trong nỗi lo sợ bị mấtmát – như trong một cơn động đất hay một cuộc cháy nhà – chúng ta hốt hoảng gomgóp cho vừa tay nải để làm hành trang. Nhưng còn vô số những điều không mangtheo được, những thứ quá lớn phải bỏ lại[...]Mỗi con người tha hương trở thànhchính quê hương của mình”. (30 tháng 4 và một ngày ở phía tương lai– Đặng Thơ Thơ)
“Mỗi con người tha hương đã trở thành chính quê hương củamình” là câu trả lời mà hầu hết các cây bút di dân thế hệ 60 đã lần lượt tìm thấyvà ít nhiều gửi gắm vào trang văn. Vì vậy, thế hệ của họ không chỉ là một thế hệmất mát mà còn là một thế hệ luôn sống trong niềm hoài vọng thiết tha. Bởi khinói đến bản sắc của một cá nhân, chính quê hương sẽ là một trong những yếu tố đầutiên góp phần hình thành nên “cái tôi” ấy. Sự ý thức về bản sắc nào cũng gắn liềnvới sự ý thức về nơi chốn mà tâm hồn đã được hoài thai và nuôi dưỡng. Vì vậy,“Quê hương là gì, ở đâu?” là một câu hỏi mở, chờ đợi những giãi bày còn ẩn giấu.
3. Thay lời kết
Nếu “một nhà văn cần viết cho tuổi trẻ của thế hệ mình, các nhà phê bình cần viết cho (tuổi trẻ của) thế hệ kế tiếp, và nhà giáo dục thì viết cho (tuổi trẻ của) mãi mãi về sau” (F. Scott Fitzgerald) thì các cây bút Di dân Việt Nam thế hệ 60 đã đạt được tâm nguyện ấy. Một tâm nguyện chứa đựng đầy thử thách đối với những ai muốn kiếm tìm những giá trị đích thực. Lựa chọn được thể tài phù hợp để ghi lại tâm tình, ký và tự truyện đã giúp họ biểu đạt trọn vẹn những gì họ muốn nói. Khi nỗi niềm của họ được chắp bút và thăng hoa trong cảm xúc, hơn một lần họ đã mở lòng và chia sẻ. Và sự mở lòng này thật đáng quý vì họ đã dũng cảm đối mặt với sự thật thay vì né tránh nó. Đó còn là cách duy nhất để họ có thể tự chữa lành những vết thương đau đớn trong tâm hồn.
Là một độc giả, cá nhân tôi đã tiếp nhận ký và tự truyện của các cây bút di dân thế hệ 60 với tất cả sự trân trọng và cảm thông. Nỗi niềm trên trang văn của họ là những minh chứng sinh động đã giúp tôi hiểu rõ hơn về một thế hệ với nhiều trải nghiệm bất thường. Rồi khi những trang sách đã khép lại, chính những thao thức của họ đã trở thành nỗi ám ảnh đối với tôi. Tôi đã tự hỏi mình rằng : sao họ không đóng lại vết thương lòng của quá khứ để sống với hiện tại? Tôi biết quá khứ không thể bị đánh tráo hay bôi xóa nhưng nên chăng – hãy nhìn nhận lại nó từ nhiều góc độ để có được câu trả lời thỏa đáng nhất : mãi thao thức với quá khứ hay mở lòng đón tương lai?
Nguyễn Hạnh Nguyên
Hạ Long, tháng 2-2011
(Đã in trên Hợp Lưu 113, số tháng 3&4-2011)
.
.
.
No comments:
Post a Comment