Friday, May 6, 2011

CÁCH MẠNG ARẬP - MÙA XUÂN NHÂN DÂN (Nguyễn Quang)

Cách mạng Arập
Révolution arabe
LE PRINTEMPS DES PEUPLES

Nguyễn Quang
Cập nhật : 01/05/2011 22:36

Có những vận hội hiếm quý trong lịch sử thế giới được mang cái tên gọi đẹp đẽ là « mùa xuân nhân dân » (...) Và bây giờ, phải chăng chúng ta đang sống « mùa xuân Arập » ?
« Một ngày kia khi nhân dân muốn sống,
thì định mệnh buộcphải đáp lại nguyện vọng. »
Một bài thơ Tunisia

Có những vận hộihiếm quý trong lịch sử thế giới được mang cái têngọi đẹp đẽ là « mùa xuân nhân dân ». Đólà năm 1848 khi cách mạng Pháp đã thiết lập nền Đệnhị Cộng hòa và làm lay chuyển trật tự mà ở Đạihội Vienna năm 1815, các lực lượng đánh bại Napoléon đãáp đặt lên Châu Âu. Rồi tới năm 1989, khi cuộc nổidậy hòa bình của nhân dân các nước Đông Âu, trong vòngvài tháng, đã san bằng thành lũy của « chủ nghĩaxã hội hiện tồn ». Và bây giờ, phải chăng chúngta đang sống « mùa xuân Arập »? Cũng không quásớm (và cũng chẳng quá muộn) để chúng ta thử xét xemnó sẽ để lại những dấu tích gì trong kho lưu trữ củatương lai, nhưng chính các nhà sử học cũng thừa nhậnrằng họ « tiên tri » quá khứ dễ hơn là tiêntri tương lai, nghĩa là nhận chân ra những nguyên do sâuxa có thể « lí giải » được diễn trình củacác sự kiện sau khi nó đã xảy ra xong xuôi rồi. Xongxuôi rồi, vì bùng nổ cách mạng vốn là điều bất ngờ,lần này hơn mọi lần khác. Phải nói thẳng rằng chẳngai có thể đoán trước được những cuộc nổi dậy haycách mạng đang lật nhào những chế độ độc tài ởhai khu vực Maghreb và Machrek. Ở Tunisia và Ai Cập, hai nhàđộc tài đã bị lật đổ, Libya đang chìm trong máu lửa,Syria và Yemen tiếp tục xuống đường biểu tình mặc dầubị đàn áp, và những chế độ quân chủ vốn nổi tiếnglà ổn định, như ở Morocco hay Jordan, cũng bắt đầu rạnnứt...

KHỐI THỐNG NHẤTARẬP

Cũng phải thú thựclà bản thân chúng tôi còn kinh ngạc hơn vì từ ítnhất bốn chục năm nay, « thế giới Arập »dường như đã đứng ngoài Lịch sử. Đầu tiên, cũngnên xác định nội hàm của cụm từ « thế giới Arập ».Về mặt địa lí, người ta vẫn phân vùng khu vực nàynhư sau : trước hết là Ai Cập, nước rộng và đông dânnhất (xem khung kèm theo bài); rồi vùng Maghreb (tiếngArập : Mặt trời lặn) bao gồmMorocco, Algeria, Tunisia vàLibya ; tới vùng Machrek (Mặt trời mọc) bao gồm các nướcnằm trong Lưỡi liềm màu mỡ (Palestin, Jordan, Irak, Syria,Lebanon) và các nước thuộc bán đảo Arập (Arabia Saudivà các tiểu vương quốc). Về mặt lịch sử, hai khu vựcCận Đông và Trung Đông (trong này có những nước khôngthuộc thế giới Arập) trong suốt mấy thiên niên kỉ,hơn cả các khu vực khác trên thế giới, đã dao độnggiữa hai hình thái, một bên là những cấu trúc đế chế(từ Đế chế Assyrian đến Đế chế Ottoman, qua các Đếchế Ba Tư, La Mã, Arập), bên kia là tình trạng chia nămxẻ bảy (nhất là trong vô vàn những cuộc chiến tranhcục bộ thế kỉ 19). Ở đây không phải chỗ kể lạilịch sử hiện đại của « Phương Đông phức tạp »,song cũng không thể hiểu được vấn đề khối thốngnhất Arập nếu ta không trở lại tình hình vào buổichiều hôm trước của Thế chiến lần thứ nhất – thờiđiểm mà nhà sử học Eric J. Hobsbawm đã chọn làm khởiđiểm của « Thế kỉ 20 ngắn ».Khi ấy Ai Cậplà một nước đặt dưới quyền bảo hộ của Anh. ỞBắc Phi, Libya là thuộc địa Ý, Algeria thuộc địa Pháp,Morocco và Tunisia đặt dưới quyền bảo hộ của Pháp.Các nước Machrek là chư hầu của đế chế Ottoman, trongđó có hai nước có ảnh hưởng lớn : Hejazcủa quốcvương Hussein, xứ sở của những vùng đất thiêng Hồigiáo (Mecca và Medina), và Najdcủa quốc vương Abdul Aziz(sau này trở thành Ibn Saud, quốc vương Arabia Saudi). Chiếntranh thế giới đã làm thay đổi cục diện toàn bộ khuvực này : năm 1916, Anh đã « tranh thủ » đượcHussein bằng cách hứa hẹn thành lập một đại liên bang Arập đặt dướiquyền hai người con trai của Hussein,Abdallah ở phía nam (Palestin) và Faisal ở phía bắc (Irak vàSyria bây giờ). Nhân vật chủ chốt của cuộc « khởinghĩa Sa mạc » chống lại đế quốc Thổ chính làđại tá T.-E. Lawrence, tục gọi « Lawrenceof Arabia ».Có lẽ Lawrence thành thật khi ông ta nói lên mong ướcthống nhất các nước Arập (1),nhưng khi Thế chiến kết thúc, người ta đã trở về với« Chính trị hiện thực » (Realpolitik). Vươngquốc Ai Cập được độc lập năm 1922, sau những lộnlạo đẫm máu, nhưng khu vực Maghreb (Bắc Phi) vẫn giữnguyên trạng. Ở khu vực Machrek, giữa các giải pháp khácnhau – một quốc gia Arập to lớn, một liên bang gồmnhững nhà nước nhỏ, hay một loạt lãnh thổ đặt dướichế độ giám hộ – các cường quốc thực dân đã chọngiải pháp thứ ba, và đã quyết định ngay từ năm 1916(đế quốc Anh quả là một tay đểu có hạng) với mậtước Sykes-Picot đặt Syria dưới sự giám hộ của Pháp,vùng Lưỡng Hà và Palestin dưới sự giám hộ của Anh.Abdallah thì được một lô an ủi là vùng Transjordan, vàFaisal vùng Irak. Còn bán đảo Arabia, lịch sử khu vực nàylà lịch sử cuộc tranh chấp giữa hai vương quốc Hejazvà Najd kéo dài nhiều năm, mãi đến năm 1928 mới kếtthúc với thắng lợi của Ibn Saud và sự thành lập vươngquốc Arabia Saudi.



Sở dĩ chúng tôi nhấnmạnh đến chuỗi sự kiện trên là vì, sau đó, diễnbiến tình hình trong thế giới Arập sẽ luôn luôn bịhai hấp lực giằng co : một bên là Arabia Saudi bảo thủvà Hồi giáo, một bên là Ai Cập hiện đại và thế tục.Mô hình Ai Cập còn có một chiều kích thứ ba nữa là xuhướng « liên Arập » : nước Cộng hòa ArậpThống nhất, hợp nhất hai nước Ai Cập và Syria (từ1958 đến 1961), có thể coi là biểu hiện của giấc mơthống nhất ấy – cũng như sau này, mưu đồ thất bạinhằm hợp nhất Libya và Morocco của đại tá Gaddafi. Khiphương Tây chống lại chủ nghĩa Nasser, tiếp đó là sựthất bại của chủ nghĩa liên Arập và chủ nghĩa thếgiới thứ ba, sự thất bại trước Israel, sự thất bạitrong cố gắng giải quyết vấn đề Palestin, tất cảnhững nhân tố đã khiến cho Ai Cập mất đi vài trò lãnhđạo và thất thế trước sức mạnh của đồng đô ladầu mỏ Arabia Saudi, chúng tôi cho rằng từ lúc đó, thếgiới Arập đã đứng bên ngoài lề Lịch sử. Với mộthệ tư tưởng lạc hậu như hệ tư tưởng của vươngquốc Arabia Saudi – mơ ước quay lại Thời đại HoàngKim của đế chế Arập thế kỉ thứ 8 – thì không đờinào nó sẽ trở lại dòng chủ lưu của Lịch sử.

NỖI NHỤC ARẬP

Có dịp trò chuyệnvới một số trí thức Arập, mới cảm thông được nỗinhục của họ. Phải nói là hai lần nhục. Đầu tiên lànỗi nhục của một dân tộc kế thừa một nền văn minhkỳ vĩ mấy nghìn năm, nay bị tước đoạt vận mệnh,bị xua đuổi khỏi Lịch sử, phải đứng ngoài lề, thụđộng hay bất lực. Thứ nữa là nỗi nhục của nhân dânnhững nước Arập từ mấy chục năm nay phải sốngtrong tình trạng chậm tiến, thiếu tự do, chịu sự chàđạp của những chế độ cường quyền phi nghĩa và giớithượng lưu cực kì thối nát. Tổng kết năm mươi nămqua là gì ? Là nghèo nàn, thất nghiệp, di cư, mất độclập về kinh tế và chính trị, thoái hoá về văn hóa,nạn toàn thống tôn giáo, chính quyền độc đoán, Nhànước bạo lực, lực lượng đối lập bị tiêu diệt...
Về tính chất phinghĩa của các chính quyền ấy, khỏi cần nhắc lạinhững thăng trầm, những cuộc đảo chính, phản đảochính liên tiếp từ ngày (giành được) độc lập cho đếnnhững chế độ hiện tồn. Cũng chẳng cần nói tớinhững triều đại thần quyền tự xưng là hậu duệ củanhà tiên tri Mahomet. Còn lại là gì ? Là những « ngàitổng thống » đã được bầu, tự xưng hay do chatruyền con nối, mà thời gian trị vì đo bằng đơn vịthế hệ : Mubarak (Ai Cập) 31 năm ; cha con Al Assad (Syria) 41năm ; Ali Abdallah Saleh (Yemen) 21 năm ; Gaddafi (Libya) 42 năm ;Ben Ali (Tunisia) 24 năm, tiếp theo 30 năm Bourguiba ; Bouteflika(Algẻia) 12 năm, tiếp theo 37 năm độc đảng FLN... Danhnghĩa duy nhất mà họ trưng ra – ấy là khi họ hạ mìnhlàm chuyện này – để biện bạch là nhân danh sự nghiệpCách mạng, y hệt những chế độ độc tài Châu Á. Thếhệ người viết bài này có nhớ tới thứ ngôn từ cáchmạng thập niên 1970, khi Mặt trận giải phóng dân tộcAlgeria (FLN) – và cùng với họ, một số trí thức Phápvà nhiều nước khác – dè bỉu nền độc lập củaMorocco và Tunisia vì không giành được qua lò lửacủa đấu tranh vũ trang (2).Vậy mà ngày nay, chính Tunisia đã nêu gương giải phóng,còn Algeria thì...
Tục ngữ Pháp cócâu, cá ươn từ cái đầu ươn đi, tương đương với thành ngữViệt Nam nhà dột từ trên nóc dột xuống. Nạn tham nhũng ở đâycũng thế : vấn đề không phải là quyền lực, mà làđồng tiền do quyền lực mang lại trong một chế độ cóthể gọi là « chôm trị » (kleptocratie) với cấutrúc những vòng tròn đồng tâm. Ở tâm điểm, nhà độctài và vợ con họ hàng tha hồ vơ vét. Gia sản của họ,những tạp chí chuyên môn như Forbes,Challenge... cũng nhưcác nhật báo Le Monde, Le Figaro... đã tiết lộ những consố có thể còn phải bàn cãi, nhưng đại lượng củachúng cũng đủ làm cho người ta phải chóng mặt. Cố nhiên có giatài xây dựng trên mỏ dầu : tiền của nhà vua ArabiaSaudi, Abdallah, được ước tính là 14 tỉ € ; củaGaddafi, giấu kĩ hơn, lên tới gần 100 tỉ € (!) ; tiềndầu mỏ Algeria càng khó truy tìm hơn, một số điều traước lượng khoảng 30 tỉ € (tương đương với 1 nămGDP của cả nước) do Bouteflika và đám tướng lĩnh kí gửiở Liechtenstein và Brasil. Ngoài dầu mỏ ra, còn các doanhvụ. Trong những nước không có dầu khí, tập đoàn giađình Moubarak có khoảng từ 30 đến 60 tỉ € (một kỉlục), gia đình Ben Ali 5 tỉ €, vua Mohammed VI (Morocco) (tựxưng là « ông vua của những người nghèo) 2,5 tỉ,tổng thống Al Assad 2 tỉ..... Trong vòng tròn thứ nhất, màngười thường gọi là makhzen(tiếng Morocco, có nghĩa làcung điện, triều đình), hay camarilla(tiếng Pháp gốc TâyBan Nha), đám đại gia kinh doanh bằng sự ủy thác quyềnlực. Dòng họ Trabelsi chẳng hạn (đây là dòng họ củabà vợ thứ nhì của Ben Ali) đã thao túng từng mảng lớncủa nền kinh tế quốc gia (báo chí, đại lí xe hơi, siêuthị, ngân hành, viễn thông, công ti hàng không, nôngtrại...), gia tài ước tính khoảng 12 tỉ € (số liệu2010), nghĩa là hai gia đình Ben Ali và Trabelsi chiếm khoảngmột nửa GDP toàn quốc. Vòng tròn thứ nhì là giớinomenklatura, tức tầng lớpthượng lưu nhờ khéo thu xếphay nhờ thẻ đảng mà giành được ưu quyền. Cứ nhưthế, từ cá lớn đến cá bé. Nhà sử học Pierre Hasnertóm tắt bản chất của những chính thể này là những« chế độ độc tài thừa kế và tư bản cựcquyền ». Vòng tròn tham nhũng càng mở rộng thì quátrình ấy càng phổ biến và pha loãng nhưng tác động củanó trong cuộc sống hàng ngày vẫn hiển nhiên. Như khoản« phụ phí mặt đường » mà cảnh sát đứngthu, như những phong bì phải nộp cho bọn công chức. Vàsong song, là những chiếc tàu đắm, những đoàn xe lửatrật đường rầy, những cái xe đò bị lật, chỉ vì kỉcương lơi là hay tham lam vô độ ; những chiếc cầu haynhững tòa nhà sập đổ vì vật tư không đúng tiêu chuẩn; thực phẩm hư ôi, thuốc men giả mạo... Và cũng khôngphải ngẫu nhiên mà tình trạng này cũng giống như nhữngchế độ độc tài ở Á Đông. Lần nào cũng thế, nạnnhân sẽ bị tố cáo, người phản đối sẽ bị bịtmiệng, người biểu tình bị giam cầm. Làm sao không ngạcnhiên khi thấy trong hơn bốn mươi năm trời, dân chúng Arập đã cam tâmchịu đựng biết bao đàn áp, nhục nhằn,hiện tại bị chối bỏ, tương lai bị phủ nhận – đúngnhư hình ảnh người ta thường nghĩ về « quầnchúng » Arập ù lì, cam chịu ?
- Hiện tại : chẳnghạn như Ai Cập, theo số liệu thống kê kinh tế vĩ mô,đây là nước phát triển nhất của Châu Phi, chỉ thuaNam Phi. Vậy thì tại sao vẫn có những cuộc nổi loạnvì thiếu đói, y hệt như ở Cameroun và Sénégal ? Làmsao cứ 10 người dân Ai Cập, thì có 4 người chỉ có mỗi ngày2 € để sống ? Làm thế nào giải thích được là tronglứa tuổi 15-29, cứ 10 thanh niên thì có 2 người thấtnghiệp ? Làm sao cắt nghĩa được rằng, ngoại trừ nhữngđiểm du lịch và đô thị lớn, Ai Cập thiếu vắng nhữngcơ sở hạ tầng (vận chuyển công cộng, trường học,nhà ở) ? Và ngay ở các thành phố, một nửa nhà ởkhông có hệ thống thoát nước, còn ngoại ô thì đầyrẫy những khu nhà ổ chuột ?
- Tương lai : Ở trênđã nói đến nạn thất nghiệp trong giới thanh niên AiCập. Tình hình còn đen tối hơn tại Tunisia, « KhuLatin của khu vực Maghreb », nước có nền giáo dụcphát triển nhất ở Bắc Phi (ngân sách giáo dục năm 2008bằng 7,2 % GDP, trong khi ở Algeria là 4,3, ở Morocco 5,7).Ngày nay, khoảng 70% thanh niên tới tuổi đỗ tú tài, mỗinăm 75 000 sinh viên tốt nghiệp đại học bước vào thịtrường lao động – theo một số nhà kinh tế học, muốnthu nhận số tốt nghiệp này, thì tăng trưởng kinh tếphải đạt 8% mỗi năm. Còn xa Tunisia mới đạt đượctốc độ tăng trưởng ấy, nên kết quả là tỉ số thấtnghiệp trong tuổi thanh niên lên tới 32 %, riêng trong giớisinh viên đã tốt nghiệp là 22 % (kết quả điều tra củaQuỹ Carnegie năm 2008). Cũng không nên quên rằng đằng saumột thanh niên đi tìm việc là cả một gia đình đã hisinh chắt chiu nuôi con ăn học. Cả một thế hệ « nofuture ». Điều đó cho ta hiểu tại sao có những đợtthuyền nhân đi tới đảo Lampedusa (3)với hi vọng đặt chân lên châu Âu.

CÁCH MẠNG ARẬP

Sự tự mãn xấc xượccủa đám độc tài, là họ lầm tưởng rằng quần chúngđã im lặng suốt nửa thế kỉ thì sẽ đời đời nínthinh. Không có khoa học về cách mạng, nên không ai cóthể nói một cách « khoa học » rằng điều gìđã làm cho « nắp nồi » nổ tung. Nói nhưHegel, thì « thời thế thế thờiphải thế ».Tất nhiên, những luận điểm kinh tế - xã hội thườngđược nêu ra đều đúng cả. Đầu tiên là tình thếkinh tế : giá nông phẩm tặng vọt, công nghiệp dệt vàmay mặc bản địa bị suy sụp (ở Tunisia và Ai Cập) từnăm 2005 khi các « hiệp định đa sợi » và cáccô-ta xuất khẩu bị bãi bỏ, phải cạnh tranh không địchlại với Trung Quốc... Tiếp theo là áp lực xã hội phátsinh từ nạn thất nghiệp tràn lan, nhất là trong giớithanh niên (xem ở trên) chiếm40 % dân số ở Maghreb. Trênmàn truyền hình, ngay từ các cuộc biểu tình đầu tiênở Tunisia, người ta có thể thấy những thanh niên trưngra những tấm bằng đại học như những tờ giấy lộn...Và một quy trình xã hội - chính trị mà chủ nghĩa Marxđã từng phân tích : giai cấp thống trị mất đi tínhchính đáng khi các giai cấp trung gian đoạn tuyệt với nóvì cái « thang máy » thăng tiến xã hội bị panbởi nạn gia đình trị, làm tiền, thiên vị... Lí giảicủa Emmanuel Todd (4)dựa trên dân số học cũng rất thuyết phục : nhữngcuộc nổi dậy / cách mạng này nổ ra khi tỉ số ngườidân biết đọc biết viết đã tăng vọt ở các nước Arập, trình độ học vấncủa phụ nữ nâng cao, dẫn tớigiảm tỉ số sinh đẻ – tóm lại, mô hình dân số họccủa các nước này tiến dần tới mô hình các nướcphương Tây... Tất cả những nhân tố kể trên tạo ramột sơ đồ nhất quán, song ta phải nhìn lại diễn biếnở Tunisia mới thấy rõ cái gì đã châm ngòi. Mọi ngườicòn nhớ : ngày 16 tháng 12 năm 2010, tại Sidi Bouzid, tỉnhlị của một wilaya (tỉnh) miềntrung Tunisia, nơi tỉ sốthất nghiệp của thanh niên tốt nghiệp lên tới gần48%, một thanh niên đỗ tú tài phải đẩy xe đi bán rau,anh Mohammed Bouazizi, bị công an tịch thu cái xe, nguồn sốngcủa anh và của cả gia đình (theo tin đồn, thì Bouazizicòn bị một nữ công an bạt tai, nhưng trong phiên tòa mớiđây, « nữ chiến sĩ công an » này đã đượctha bổng). Ngày hôm sau, Bouazizi quay trở lại tự thiêutrước dinh tỉnh trưởng. Bây giờ được biết đâykhông phải là một trường hợp cá biệt, đã có nhữngtrường hợp phản kháng tương tự xảy ra trong năm 2010,và sau đó năm 2011 vẫn tiếp tục (ở Tunisia, và ở cảAlgeria nữa). Điều chắc chắn là vụ tự thiêu này giốngnhư giọt nước cuối cùng làm tràn đầy biển cả ônhục trong lòng người dân (5). Một cao trào đãdấy lên,xuất phát từ các vùng sâu vùng xa, rồi vượt ra khỏibiên giới Tunisia. Những con người cùng khổ đã đứnglên, khẳng định mình là người. Tại quảng trườngTahrir ở thủ đô Ai Cập, Cairo, bên cạnh khẩu hiệu« Cút đi ! », người ta nghe thấy khẩu hiệu này: « Chúng tôi muốn sống như nhữngcon người »– họ dùng chữ bani admin,những đứa con của Adong (vàEva).
Vào ngày giờ này,chẳng ai dám liều lĩnh tiên đoán cuộc nổi dậy ởTunisia sẽ biến thành cuộc (đại) cách mạng của thếgiới Arập hay không. Tại Libya, tình hình quân sự cònnhiều bất trắc, nhưng số phận của đại tá Gaddafi coinhư đã được định đoạt về trung hạn với việc LiênHợp Quốc thông qua nghị quyết 1973 cho phép các nướcphương Tây can thiệp bằng không quân, nhất là khi bộ baPháp-Anh-Mĩ đã công khai khẳng định « xử lí »tên bạo vương sa mạc. Ở những nước khác mà chínhquyền độc tài đang bị phản đối, khó mà nói tìnhhình sẽ diễn tiến ra sao. Hai vương quốc Morocco vàJordan còn có thể tồn tại nếu chịu cải cách để tiếntới chế độ quân chủ lập hiến. Ở Yemen và Syria mỗinày thứ sáu (ngày chủ nhật của Hồi giáo) hàng ngànngười xuống đường, cực kì dũng cảm trước cảnh sátcông an nã đạn thật vào đoàn biểu tình. Chính quyềnYemen chao đảo, nhưng tình hình Syria lại khác : Syria đóngvài trò thiết yếu trong mọi giải pháp về Lebanon vàPalestin ; bộ máy công an chính trị (moukhabarat)chuyên trịđàn áp ; tập đoàn cầm quyền ở Damascus không ngầnngại dùng bạo lực tàn nhẫn như nó đã đàn áp cuộcnổi dậy ở Hama năm 1982 (số người chết lên tới 10000 – 20 000). Trường hợp Algeria thì thực là khó hiểu.Đây là một nước có tài nguyên phong phú (dầu khí, nôngnghiệp), vậy mà phải chịu đủ mọi thứ tật bệnh củacác nước Arập : chính quyền « chôm trị » (xem trên), giớithượng lưu thối nát, nhân dân sống trong nhục nhằn,tuổi trẻ thất nghiệp và « chán đời »... ;năm 2010 đã có 11 500 cuộc nổi dậy (đã được thốngkê), năm 2011 có cả chục vụ tự thiêu, song cuộc biểutình mới đây ở thủ đô Alger để hưởng ứng cáchmạng Tunisia và Ai Cập chỉ có 2 000 người dũng cảm thamgia, phải đương đầu với 10 000 công an. Điều này thểhiện chính sách đàn áp hiệu quả của chính quyền haytình trạng mệt mỏi của dân chúng vừa trải qua cuộcnội chiến (150 000 người chết), có lẽ cả hai.
Còn một ẩn số cuốicùng : lập trường thực sự của quân đội. Mọi ngườiđều biết rằng ở Tunisia cũng như ở Ai Cập, chínhquyền độc tài sở dĩ bị lật đổ là vì cuối cùng,các tướng lĩnh chỉ huy quân đội đã từ chối khôngchịu đàn áp (« Quân đội sẽ không nhảđạn vàonhân dân »). Ở Libya thì ngược lại, và ở Syriachắc cũng sẽ như thế. Cũng không nên quên rằng ởBahrain, lực lượng đối lập đã bị bịt miệng nhờviện quân của Arabia Saudi. Một số nhà quan sát nghi ngạivề việc Liên đoàn Arập tán thành nghị quyết 1973 củaLHQ, họ tự hỏi phải chăng điều nay che đậy một sự« đổi chác » : phương Tây can thiệp ở Libya,Arabia Saudi rảnh tay tiếp tục khống chế vùng ảnh hưởngcủa mình. Trong khi chờ đợi, ở các nước vừa thoátkhỏi chế độ độc tài, quân đội tham gia chính phủchuyển tiếp : một quân nhân mặc thường phục làm tổngthống, những viên tướng làm tỉnh trưởng, tôn trọngcác hòa ước quốc tế, và (nhất là) duy trì vai trò củaquân đội trong guồng máy kinh tế... đó phải chăng làcái giá phải trả để « quân đội sẽ bảo vệcách mạng » ?

DÂN CHỦ ARẬP

Song những bất địnhvề cuộc cách mạng Arập không thể biện minh cho sựủng hộ ỉu xìu của các nước phương Tây. Cũng nhưthái độ dứt khoát hiện nay của bộ ba Pháp-Anh-Mĩ khôngđược làm chúng ta quên đi sự lần lữa ban đầu củahọ. Tổng thống Obama thì lúng túng không biết chọn thếđứng ra sao : ủng hộ cuộc đổi thay dân chủ, theo chiềuhướng bài diễn văn đọc ở Cairo năm 2009, nhưng khôngbỏ rơi những đồng minh trung thành ở khu vực này, AiCập (đồng minh của Hoa Kì trong cuộc xung đột giữaIsrael và các nước Arập) và Yemen (trong cuộc chiếntranh chống Al Qaeda). Khi người dân Tunisia xuống đườngbiểu tình thì thủ tướng Anh David Cameron chu du Ai Cập để rao bán vũkhí, bà bộ trưởng ngoại giao PhápAlliot-Marie đề nghị « chia sẻ » với công anTunisia « tay nghề » của công an Pháp ; còn tổngthống Sarkozy, khi tìm cách sửa sai vào giờ chót đã trởthành trò cười cho thiên hạ khi nói tới cuộc tự thiêucủa « ông Sidi Bouzid » (nhầm địa danh SidiBouzid với tên người Bouazizi). Còn Liên hiệp Châu Âu,trong suốt thời gian ấy, đã biểu lộ sự « hư vô »của mình về mặt chính trị : chẳng ai thấy « tổngthống » hay « ngoại trưởng » nói lên mộtcâu nghe được, và cho đến hôm nay, dường như Liên hiệpChâu Âu quan tâm tới những người nhập cư chui ở đảoLampedusa hơn là cuộc khai phóng của quần chúng Arập ởphía bên kia bờ Đại Trung Hải. Sự thật là ngườiphương Tây nói chung (cả chúng quyền lẫn dân chúng) chỉbiết quan ngại hai điều (nói ra hoặc giữ trong bụng) :một là cuộc cách mạng Arập sẽ dẫn tới sự kết ántoàn bộ sự ủng hộ các chính quyền tại vị trong suốtmấy chục năm qua ; hai là, công cuộc xây dựng nền dânchủ sẽ trở thành bất an vì bạo động và xáo trộn,với những hậu quả khôn lường, không phải sợ chínhquyền sẽ rơi vào tay quân nhân mà vào tay các phần tửHồi giáo cực đoan.
Song một khi Lịch sửđã cất bước vận động, tại sao ta không cố gắngquan sát, tìm hiểu, mà lại đi lo sợ và hoang tưởng ?
Hãy bắt đầu bằngmối lo đầu tiên : « nguy cơ Hồi giáo cực đoan ».Lập trường mặc nhiên của phương Tây có thể tóm tắtnhư sau : những người « ủng hộ nhưng mà »thừa nhận tiềm năng dân chủ của cuộc khởi nghĩanhưng lại lo rằng các nước Arập không có truyền thốngdân chủ để có thể đối mặt với tổ chức Huynh đệHồi giáo ở Ai Cập, đảng Ennahda ở Tunisia. Và ngườita thường viện dẫn tiền lệ Iran năm 1979 : vua Shah bịlật đổ, thì « cách mạng Hồi giáo ». Đây làmột lập luận kì quái, vừa sai vừa sợ. Trong những nămtrước và sau Thế chiến lần thứ nhì (xemtrên), cácnước Arập đã có những cao trào tiến bộ, dân tộc vàtự do : cuối thập niên 1930, đảng quốc gia tự do chốngphát xít Wafd đã thắng cử ở Ai Cập trong khi – có cầnphải nhắc lại không nhỉ – phe cực hữu đã thắng thếở Châu Âu ; sang đầu thập niên 1950, bác sĩ Mossadegh đãlên cầm quyền thông qua bầu cử dân chủ với mộtchương trình trong đó có dự án quốc hữu hóa các côngti dầu mỏ Anh-Mĩ ; đó là không nói Nasser, cướp chínhquyền từ một vương triều thối nát, nhưng sau đó đãnhiều lần được nhân dân Ai Cập bỏ phiếu tán thànhvì họ ủng hộ chương trình quốc hữu hóa... Chính cáccường quốc Tây phương, vì quyền lợi của phương Tây,đã làm thất bại những công cuộc ấy. Đã nói tớiIran, cũng nên nhắc lại rằng chính CIA đã tổ chức đảochính lật đổ thủ tướng Mossadegh, nhờ đó quốc vươngshah mới thiết lập được chế độcực quyền củamình, và đến năm 1975, ông ta đã giải tán tất cả cácđảng phái chính trị. Chính việc triệt tiêu các lựclượng dân chủ và tiến bộ đã khiến cho các giáo sĩmollah chiếm độc quyền kháng chiến. Bảo rằng các giáochủ đã chiếm đoạt cách mạng là cực kì vô lí bởivì chính họ đã làm cách mạng. Giữa họ và chính quyềnđộc tài không còn lực lượng nào khác nữa. Vậy màngày nay người ta lại vẫn đeo đuổi chính sách vô líấy, nghĩa là ủng hộ những chế độ độc tài để« chống lại chủ nghĩa khủng bố », trong khichính là sự đàn áp các lực lượng đối lập dân chủđã dọn cỗ cho các lực lượng cuồng tín. Làm sao cóthể phủ nhận rằng các cuộc cách mạng đang diễn ra làdo toàn dân, đi đầu là giới trẻ có học, chống lạiđộc tài, và nhân danh những giá trị phổ quát ? Các đàitruyền hình đã soi bằng kính lúp để tìm kiếm những« Hồi giáo cực đoan » dẫn đầu biểu tình. ỞTunisia, họ tìm hoài không ra – à có, sau ngày thắng lợi,một lần người ta có thấy mấy tay râu xồm lên tiếngnguyền rủa, nhưng đã bị đám đông la ó tẩy chay. ỞAi Cập, tổ chức Huynh đệ Hồi giáo lúc đầu vắng mặt,sau đó dần dần xuất hiện, mang lại kỉ luật và tổchức hậu cần. Nhưng họ không hề dám trương cờ củahọ, cũng không dám hô khẩu hiệu tôn giáo, và đám đôngchấp nhận họ « như là một bộphận dân chúng AiCập, như những bộ phận khác, không hơn, không kém »(lời một người biểu tình), coi như không để ý tớiđặc trưng riêng biệt của họ.
Người ta có thểphản bác, nói rằng cho dù phong trào hiện thời chủ yếulà hiện đại, hỗn hợp, thế tục (nghĩa là độc lậpvới các thứ giáo hội), biết đâu, một khi cuộc chơidân chủ mở ra, nó có nguy cơ bị vô hiệu hóa bởi cáctổ chức Islam cực đoan, có tổ chức chặt chẽ và thiệnchiến sau bao nhiêu năm hoạt động trong vòng bí mật ? Vàngười ta có thể dẫn chứng tiền lệ FIS (Mặt trậnIslam Cứu rỗi) năm 1990 đã giành thắng lợi trong cuộcbầu cử năm 1990 ở Algeria. Thí dụ này không phải làbằng chứng nghiêm chỉnh : ở Algeria năm 1990, cũng như ởIran năm 1979, ba chục năm độc tài (của đảng FLN độcquyền) đã tận diệt mọi lực lượng đối lập dân chủ; riêng ở vùng Kabylia, lực lượng dân chủ còn tồn tạithì họ đã thắng cử. Thực ra, có thể nghĩ rằng nỗisợ nguy cơ Hồi giáo cực đoan dựa trên một phân tíchhoàn toàn lỗi thời về thực tế các nước Arập. Nhữngbiến cố mới đây cho thấy thực tế ấy đã biến đổisâu sắc. Như nhà xã hội học Patrick Haenni (việnReligioscop) đã nhấn mạnh, đúng là xã hội Ai Cập đangIslam-hóa trở lại, nhưng Huynh đệ Hồi giáo càng ngàycàng không kiểm soát được động lực của quá trìnhIslam-hóa này. Một mặt, Huynh đệ Hồi giáo dường nhưbị vượt qua bởi một xu hướng Islam « nhẹ »không bị luật đạo charia hayNhà nước Hồi giáo ámảnh. Mặt khác, khả năng tham gia sinh hoạt chính trị đãkhoét sâu mâu thuẫn nội bộ trong Huynh đệ Hồi giáo,giữa một bên là phái cựu trào muốn ưu tiên nhấn mạnhkhía cạnh xã hội và duy trì tín điều, còn lứa tuổi40 thực dụng, được gọi tên là những « phần tửdân chủ phi tự do », sẵn sàng tham gia cuộc chơichính trị tuy vẫn rất bảo thủ về mặt xã hội - tôngiáo. Một xu hướng thứ ba, thiểu số, đã li khai vàogiữa thập niên 90 để lập ra đảng AlWasat (Trung tâm)« tự do - Hồi giáo », tự nhận theo mô hìnhđảng Hồi giáo ở Thổ Nhĩ Kì và mô hình của các đảngxã hội Thiên chúa giáo ở Âu Châu. Như vậy, Huynh đệHồi giáo vẫn còn là một lực lượng đáng kể, nhưngtiên thiên, không có lí do gì để nghĩ rằng phong tràodân chủ, nhất là với động lực hiện nay, sẽ thuacuộc. Mà cứ giả dụ là họ sẽ thua đi nữa, thì chọnsự đoạn tuyệt với quá khứ bất công, với tất cảnhững bất trắc bất định, không tốt hơn là bám chặtlấy nguyên trạng, nghĩa là « thà bất công hơn bấtổn » đó sao ? Xét cho cùng, nếu chỉ tính hơn thiệt,thì « mùa xuân nhân dân » năm 1848 đã kết thúctrong sự thất bại, bắt đầu từ tháng chạp 1848 trởđi, các cuộc nổi dậy/cách mạng đã theo nhau bị dậptắt. Nhưng có một điều không bị dập tắt, là quátrình khai phóng dài hơi về mặt xã hội, kéo dài cho đếncuối thế kỉ 19, đã dẫn tới sự « đào sâu nộidung » của chính thể « cộng hòa tư sản »(trên toàn Tây Âu) và công cuộc thống nhất quốc gia (ởĐức và ở Ý).
Rốt cuộc, tất cảcác khái niệm mà người ta vẫn sử dụng để tiếp cậnthế giới Arập (chủ nghĩa Islam, nạn khủng bố, bệnhgiáo phái, hay ngược lại, sự ù lì, khuất phục, camphận, nhẫn nhục) đều trở thành bất cập. Đó làchính là cái mới, sâu sắc, của mùa xuân Arập. Khôngbiết mọi người có nhận ra điều này chăng : ngay haichữ « dân chủ » cũng không thấy trong các khâủhiệu. Tự do, bình đẳng, nhân phẩm thì có (6).Dân chủ thì không, dường như quần chúng cảnh giác đốivới một danh từ nhàm chán đã quá nhiều lần bị đánhtráo, không những bởi các nhà độc tài, mà bởi cảchính những nhà dân chủ. Trong một bài diễn văn đọctại Tunis năm 1954, Pierre Mendès-France nói thế này : « Mộtdân tộc, được chúng ta nuôi nấng bằng mùi vị của tựdo, đã khổ đau vì cảm thấy bị từ khước những quyềnmà chính chúng ta đã rao giảng ». Giờ đây, kháiniệm dân chủ đang suy sút ở ngay phương Tây là nơi khaisinh ra nó, khái niệm « bác ái » (tình anh em) bịcoi là « hâm », sự bất công được một bộphận phái hữu biểu dương không mảy may ngượng ngùng,Nhà nước pháp quyền thì thi hành những đạo luật giếthại tự do với sự chấp thuận của một xã hội đangmất phương hướng. Chính lúc ấy, cuộc khởi nghĩa Arập bùng nổ, mang lạiminh chứng – hầu như không aidám trông chờ – rằng khát vọng dân chủ là khát vọngphổ quát « không của riêng ai ». Biểu tượngcủa tính phổ quát ấy là lời hô : « Cút đi ! »đang làm run sợ tất cả các nhà độc tài trên thếgiới. Chúng ta biết rằng ở Trung Quốc, các từ ngữ« dân chủ », « đa nguyên », « diễntiến hòa bình » từ lâu đã bị kiểm duyệt mộtcách tự động và có hệ thống. Từ đầu năm nay, song song với việc tăngcường đán áp những ngườiphản kháng, những danh từ « Ai Cập »,« Tunisia », « hoa nhài » cũng bị cấmtrong các diễn đàn thảo luận trên mạng internet, cũngnhư « Tahrir » tên quảng trường ở thủ đôCairo, chắc là vì nó làm người ta liên tưởng tới quảngtrường Thiên An Môn ? Khi nói tới Cách mạng Pháp, Kantbiện minh cho « một mối đồng cảm gợihứng gầnnhư là phấn khởi » vì, theo ông, đó là một thờiđiểm - bản lề, một sự thay đổi khôngthể đảongược trong nhân sinh quan và sử quan của chúng ta. Có lẽhiện nay chúng ta cũng đang được chứng kiến một thờiđiểm như vậy.
Nguyễn Quang

nguyên tác tiếng Pháp : bấm ởđây




(1) "I had dreamed, at the City School in Oxford, of hustlinginto form, while I lived, the new Asia which time was bringinginexorably upon us. Mecca was to lead to Damascus; Damascus toAnatolia, and afterwards to Baghdad; and then there was Yemen.Fantasies, these will seem, to such as are able to call my beginning anordinary effort." T-E. Lawrence, lời mở đầutác phẩm "Seven Pillars of Wisdom"
(2)Chẳng hạn có thể xem cuốn phim Chronique des années de braise / Kísự những năm tháng cháy bỏng (1975) của Mohammed Lakhdar-Hamina
(3)Dòng người di cư này không những chẳng giảm đi mà còn phình to lên saukhi Ben Ali bị lật đổ, khiến cho nhà « triết học chuyêntrách » Alain Finkielkraut đã đưa ra một câu bình luận vừa nguxuẩn vừa bỉ ổi : « Tự do sao lại bỏ trốn ».
(4)Emmanuel Todd : Le rendez-vous des civilisations / Cuộchẹn của các nền văn minh (Nxb Seuil, Paris 2007). Trước đây, E.Todd đã từng tiên tri sự « nổ sụm » (implosion) của« chủ nghĩa xã hội hiện tồn » khi ông dùng phương pháp tiếpcận dân số học, phân tích hiện tượng tỉ lệ tử vong của trẻ em ngày càngtăng ở Liên Xô.
(5)Một truyện ngắn của Gogol kể lại câu chuyện những người mujik ở Nga nguđầncam chịu kiếp sống nông nô, nhưng đến khi nghe tin tên chủ quý tộcboyar đã sắm một cái chậu đi tiểu bằng vàng,thì họ đã nổi loạn.
(6)Trong tiêu ngữ của Cộng hòa Pháp, « Tự do, Bình đẳng, Bácái », chỉ hai từ ngữ đầu là có từ hồi Cách mạng 1789, từ ngữ thứba là do các chiến sĩ cách mạng 1848 thêm vào. Biết nghĩ sao khi màtrên « đất nước của Cách mạng và của các Quyền Con Người »,khi nhân dân một nước vừa tự giải phóng, thì phản ứng đầu tiên củachính quyền là dựng rào cản ?

.
.
.

No comments: