Phạm Mai Hương
Tuesday, April 12, 2011 2:38:17 PM
Kính tưởng nhớ Thân Phụ, nhà thơ Việt Trang Phạm Gia Triếp
Từ giã mái trường thân yêu (15.3.1975)
Ðà Lạt, tháng 3/1975, thành phố tôi ở vốn bình yên, an lành trong các tỉnh thành miền nam ngay cả những ngày chiến tranh khốc liệt nhất bỗng trở nên xáo trộn. Người ta bàn tán, thì thầm to nhỏ về cuộc chiến, tính chuyện tản cư, dù không hiểu hết điều gì sẽ xảy ra nhưng ai cũng cảm nhận không khí chiến tranh đang tới gần, tới rất gần. Ðể trấn an nỗi sợ hãi, người dân đổ tiền ra mua đồ dự trữ: gạo cơm, thuốc men, xăng dầu, nhất là mì ăn liền phòng khi cuộc chiến xảy ra. Bề ngoài thành phố bình yên đến lặng lẽ, người ta dấu nỗi sợ hãi vào trong lòng. Dọc các con phố chính, các cửa hiệu lần lượt đóng cửa báo hiệu chủ nhân đã đi tản cư. Người ta bỏ ra đi, không ồn ào sôi động. Sáng nay, tôi và các bạn đồng nghiệp vẫn đến trường trên chiếc xe lam đưa rước hàng tháng. Ngôi trường tiểu học Ða Phước nằm tận Trại Mát, cách trung tâm thành phố mười kilômét, dưới chân ngọn đồi cao làm trung tâm huấn luyện Cảnh Sát Dã Chiến. Ðường đi rất thơ mộng, len qua những rặng thông xanh thẳm, vòng quanh những ngọn núi trập trùng. Mấy hôm nay, chúng tôi không cảm thấy vẻ đẹp của giọt sương mai ướt đẫm lá cây hay tia nắng sáng rọi qua tán lá. Dẫu không nói ra, nhưng mọi người đều e ngại nhìn hai bên sợ bóng những người mặc áo bà ba đen xuất hiện, lo lắng nhìn trên lòng mặt đường xem có cây cối chắn ngang đắp ụ. Chiếc xe lam bỏ chúng tôi trước cổng trường rồi vội vàng qua về lại thành phố. Sân trường không bóng dáng một em học sinh. Chúng tôi hoang mang nhìn nhau, vội vàng vào văn phòng. Ông hiệu trưởng già dường như chờ chúng tôi từ lâu, ông nhỏ giọng:
- Tôi muốn liên lạc với các cô mà không được. Tình hình an ninh không xuôi lắm. Cha mẹ học sinh không cho con đến trường, họ sợ có chuyện gì, con họ còn nhỏ về nhà không kịp.
Giọng ông nhỏ hơn, lo âu:
-Với lại ở dưới này xa quá tôi có nghe trong Tây Hồ, Trạm Hành, buổi tối V. C. đã về. Thôi các cô mau quay về, khi nào tình hình sáng sủa hãy xuống. Giờ không còn xe lam các cô qua đón xe đò nghe.
Chúng tôi nặng trĩu lòng, đứa nào cũng mới ra trường nên đối với ông như một người cha, chúng tôi chào ông và băng qua bên kia đường. Chờ chúng tôi ra khỏi cổng, ông lấy chiếc xích lớn khóa hai cánh cổng lại với nhau rồi đi về hướng chợ. Dáng ông nhỏ lại, hai vai trĩu xuống như vác một gánh nặng trên lưng. Ðứng chờ xe, tôi chưa hoàn hồn, tiếc nuối vì chưa một lời từ biệt với học sinh, những em học sinh đầu tiên của tôi, hình ảnh hai mươi tám em hiện lên rõ từng nét mặt, dáng người. Võ Quang Nam nhỏ con nhưng chững chạc, ngồi ngay bàn đầu, em giỏi và ngoan nhất lớp, chẳng khi nào nói chuyện khi tôi giảng bài. Hôm Nam bị ốm, tôi rủ cả lớp đi thăm, cả lớp thưa:
-Cô ơi! Vào nhà trò ấy sợ lắm, ba trỏ chết rồi, mẹ trỏ hay nổi cơn điên cầm dao chém người. Mọi chuyện ở nhà, trỏ đều tự làm lấy.
Thảo nào mà khuôn mặt em mang vẻ cam phận, nhẫn nhục mỗi khi bạn bè tị nạnh bảo tôi thiên vị. Nguyễn Mẹo thông minh, giỏi toán, chăm học nhưng viết chữ xấu, không chú ý nên bài làm ít được điểm cao. Mẹo tốt với bạn bè, lễ phép với tất cả các thầy cô trong trường, đôi khi em làm tôi bối rối vì những câu hỏi thông minh bất ngờ. Tôi thực sự thương em hơn khi biết nửa năm ngoái, em phải nghỉ học đi làm thuê cho người ta, vậy mà khi đi học lại vẫn không chịu kém ai. Nguyễn Văn Mỹ mồ côi cha mẹ, ở với cậu mợ. Khi người chị ruột duy nhất của em chết vì bệnh thì khuôn mặt em tắt tiếng cười, học hành sút hẳn, người như ở trong mê. Trần Phương có khuôn mặt luôn cười, mấy ngày đầu vào nhận lớp, tôi cho bài tập, em không làm. Bực mình, tôi hỏi:
-Ba em làm gì?
-Thưa cô!Ba em đi lính ở xa.
-Má em làm gì? -Thưa cô! Má em đi làm thuê.
-Em có anh chị không?
-Thưa cô, không. Em là anh đầu.
-Ba em đi lính biết sống chết ra sao, má em đi làm thuê cực khổ mà em không chịu học để buồn lòng ba má. Em lại là anh đầu không làm gương cho các em sao.
Tôi bất ngờ khi thấy em khóc, từ đó em học ngoan hơn. Danh sách hai mươi tám em học sinh nam được tôi viết trên một miếng bìa cứng treo sau lưng với bảng đen, trong đó ghi địa chỉ học sinh, tên học sinh được khen thưởng. Hai mươi tám em đầy đủ cá tính, có em ngoan hiền như Ngô Ðình Vân, Nguyễn Tấn Ðạo... Nghịch ngợm như Kiều Phương, Bùi Ðức Danh... Ở ngôi trường tiểu học nằm ven đô thành phố này, học sinh đều nghèo, rời cuốn vở là về phụ với cha mẹ làm vườn. Hai mươi tám em tuổi mới lên mười mà số mồ côi cha không ít. Một số ghi cha mất nhưng mẹ ở nhà vẫn sinh thêm em, có phải trong đêm tối cha đã về đâu đó. Nhìn lại cổng trường bị khóa chặt, tôi xót xa, biết rằng không bao giờ còn được dạy hay nhìn lại đầy đủ các em. Buổi chia tay cuối cùng không học trò, không một chiếc bánh liên hoan, cũng không có lễ phát thưởng. Giờ mới giữa tháng ba, còn hơn tháng nữa đến tháng năm nghỉ hè. Tôi đi dạy chưa trọn năm, lương tháng vừa nhận hôm qua, biết còn tháng lương nào để được nhận nữa không? Tôi không thể hình dung mình sống ra sao khi không còn được đi dạy. Mười bốn năm ăn học để có một nghề sinh sống, giờ không biết mình còn có cơ hội nào đứng trên bục giảng nữa? Bỗng dưng tôi thấy mình thật nghèo nàn đáng thương. Buồn cười thật, cuộc chiến sắp tới, ngày mai biết sống chết ra sao mà còn nghĩ chuyện dạy dỗ. Giờ mới giữa tháng ba, tôi còn chưa tròn tuổi hai mươi. Tháng sau mới đến sinh nhật.
Ðể thành phố lại phía sau (20.3.1975)
Sự hoảng sợ của mọi người lên đỉnh điểm khi đài BBC loan tin Buôn Mê Thuột thất thủ. Tin dữ lan nhanh như ngọn lửa giữa mùa hè nóng bỏng. Buôn Mê Thuột cách Ðà lạt khoảng 200 cây số, tính theo đường chim bay còn ngắn hơn nữa. Không khí cuộc chiến đã lởn vởn ở thành phố có lẽ yên bình nhất nước này. Chính quyền không thông báo về tình hình chiến sự, người dân tự tìm hiểu theo cách nào mà mình có được nên sự mù mờ càng làm cho họ rối rắm, hoang mang. Chị ruột tôi dạy học và lấy chồng, một sĩ quan bộ binh đóng quân trên Quảng Ðức mới về ăn Tết với gia đình mà không có anh rể đi theo vì phải cắm trại. Chị vừa trở về trường nay phải quay lại Dalat một mình, anh rể tôi hứa sẽ xuống đón chị để cùng đi về Saigòn. Chị tôi vô tư lên trường Bùi Thị Xuân vào ngày 17.3.1975 dự buổi cắm trại mừng kết thúc đệ nhị cá nguyệt và họp mặt cựu học sinh. Buổi lễ còn đang vui, nhà trường được lệnh bế mạc để học sinh về nhà khi nghe tin V.C. đã về đến ngoại ô thành phố.
Người dân Ðà lạt sống trong nỗi sợ hãi, ban ngày họ hạn chế việc ra khỏi nhà, đêm về thành phố im như chết. Viện Ðại Học đóng cửa từ lâu để sinh viên ở xa về với gia đình, toàn bộ học sinh tiểu và trung học được lịnh nghỉ học vô thời hạn. Sĩ quan và khóa sinh các trường Võ Bị Quốc Gia, Chiến Tranh Chính Trị, Cảnh Sát Dã Chiến cắm trại 100%. Dân chúng đi tản cư khá nhiều, nhất là gia đình có thân nhân ở Sài Gòn, Nha Trang...
Buổi chiều, ba tôi từ công sở về. Khuôn mặt ông đăm chiêu, bồn chồn khi gia đình bạn bè của ông đi tản cư gần hết. Không lo lắng sao được khi gia đình tôi không có người quen thân ở Sài Gòn, con cái đông đúc, tiền bạc không nhiều, về Sài Gòn không biết tá túc ở đâu. Mọi người đồn đoán: có thể vĩ tuyến 17 sẽ dời đến Ðà Nẵng vì vậy ông quyết định cho gia đình về lánh nạn ở Nha Trang với cậu T., em ruột mẹ tôi. Còn ông sẽ đi sau. Tác phong, nề nếp công chức ăn sâu vào nếp sống, suy nghĩ, ông không thể bỏ nhiệm sở khi chưa có lệnh. Mặc dù trời đã tối, mạ tôi cũng thuê được một chiếc xe G. M. C. mui trần. Cả nhà quyết định: ba tôi và anh trai đầu ở lại Dalat, mạ tôi dắt cả nhà ra đi. Bỗng dưng tôi trở thành lớn nhất nhà. Mạ tôi cho xếp một loạt bao gạo dự phòng trên sàn xe, vài tấm nệm, mùng mền cột chặt từng gói. Chúng tôi xếp tất cả quần áo, sách vở vào trong túi sắc, ba lô, thậm chí cả bao đựng gạo. Mỗi đứa con một tay nải. Một đứa em ngây thơ xì quả banh da cho xẹp nhét giữa bộ quần áo. Cơ nghiệp của ba mạ tôi gầy dựng 25 năm trời chất được một góc xe. Ba tôi vào bàn thờ, thắp nhang khấn vái tổ tiên, rồi lấy tấm di ảnh của ông bà nội cùng cuốn băng mangétophone lưu giọng ông nội tụng kinh khi còn sống để vào chiếc cặp da trao cho đứa em tôi giữ. Chị gái của tôi gói ghém vài bộ quần áo đi cùng các em. Cả nhà như đang trải qua cơn mê. Phút chốc gia đình chia đàn xẻ nghé: bố mẹ, anh chị em chia tay nhau mà không chắc có ngày gặp mặt, đoàn tụ, còn anh trai thứ đóng quân ở Qui Nhơn không biết giờ này phiêu bạt nơi đâu. Cũng như bao gia đình khác trong chiến tranh, gia đình tôi cũng không tránh khỏi những mất mát đau thương. Chú tôi, quận trưởng Tuy Phước-Quy Nhơn bị bắn chết tại nơi làm việc cùng mấy giáo sinh Sư Phạm khi VC tấn công vào quận. Rồi Tết Mậu Thân, bên nội và ngoại tôi ở Huế cũng có người mất tích sau khi bị bắt đưa đi, đến nay cũng chưa tìm thấy xác. Ở Ðà lạt yên bình, chúng tôi tuy chưa tiếp cận với cuộc chiến nhưng những hình ảnh, thước phim mồ chôn tập thể, vụ nổ rạp ciné Ngọc Lan... làm chúng tôi lo sợ cho ba tôi và gia đình mình khi V. C. đến. Trời Ðà lạt còn sương mù, chúng tôi chất xong đồ đạc lên xe. Các em chạy quanh xóm từ giã bạn bè, tôi đi vòng quanh nhà xem lại còn sót vật dụng nào không, căn nhà nơi lưu dấu tiếng khóc chào đời của anh em chúng tôi trống trơn đến lạnh người. Mạ tôi gởi nhà cho hàng xóm trông giùm. Bà vẫn nghĩ đến ngày trở lại. Dân Lò Gạch thuộc xóm lao động nên nhiều người không có điều kiện ra đi phải ở lại. Ông Tư Mạnh, bác Lợi, o Liên... ra tiễn đưa, nhìn theo gia đình chúng tôi nửa ao ước có cơ hội để được đi, nửa thương xót vì ra đi mà đích đến thật mông lung. Tình cảm xóm giềng thật sâu đậm. Ðêm qua tôi viết thư từ giã ba đứa bạn thân nhưng sáng ra lại xé bỏ, kẻ đào tẩu biện minh đâu có giá trị, tôi không biết mình còn được gặp lại các bạn, những người bạn chí cốt từ thuở bé, san sẻ với nhau biết bao buồn vui tuổi học trò. Xe nổ máy, từ từ lăn bánh. Bóng người ở lại khuất dần trong khói xe. Xe chạy lên đường Duy Tân, phố xá hai bên đường vắng vẻ cùng khu Hòa Bình bình yên trên con dốc cao của thành phố; rồi xuôi theo đường Lê Ðại Hành. Hồ Xuân Hương lặng im in bóng nhà Thủy tạ. Bên kia hồ, Ðồi Cù xanh ngắt cỏ và thông. Cảnh vật chung quanh không thay đổi, chỉ có lòng người là bất an. Sáng nay, chúng tôi vội vã ra đi. Bỏ lại thành phố, nhà cửa, bạn bè, xóm giềng và muôn vàn kỷ niệm dấu yêu phía sau lưng.
Nha trang, ngày hoảng loạn (1.4.1975)
Chịu nửa ngày dưới cái nắng cháy người của miền Trung, chúng tôi đến NhaTrang với khuôn mặt đỏ bừng như tôm luộc. Nhà ông cậu không lớn, chúng tôi chỉ ăn uống tại đó, tối đi ngủ nhờ chỗ khác. Qua cơn mệt mỏi, các em tôi theo đám em họ háo hức xuống biển, tưởng như để lại mọi nguy hiểm trên Ðà lạt.
Sau khi Quảng Ðức bỏ ngỏ, anh rể tôi đi đường bộ về Ðà lạt, ba tôi bảo anh nghỉ ngơi vài hôm, ông xuống đón chị tôi lên tiện thể thăm vợ con. Ba tôi xuống NhaTrang được một hôm, NhaTrang trở nên hỗn loạn hơn vì lính các nơi đổ dồn về đây. Dân NhaTrang cũng bắt đầu tản cư. Gia đình cậu tôi và người bạn cho gia đình tôi tá túc trong những ngày qua quyết định về Saigon. Cậu rớm nước mắt khi ra đi vì chính bản thân cậu cũng khó có thể cưu mang nổi gia đình cậu nói chi mang theo gia đình tôi. Sau khi tiễn cậu xong, ba mạ tôi đưa cả nhà quay lại Ðà lạt, bởi gia đình tôi thực sự không biết đi đâu khi mà đứa lớn nhất mới tròn hai mươi, đứa bé nhất chỉ lên mười. Giữa cái chết đói, chết vì súng đạn, dường như chọn cái chết trong nhà mình thì vẫn dễ hơn. Mạ tôi cùng chị và các em lên trước với ít quần áo trong người. Ba và tôi thu dọn đồ đạc thuê xe lên sau. Mạ và các em đi rồi, tôi gói quần áo của bà lại, chỉ lõm loi vài bộ. Tôi nhớ bà vẫn ao ước có một chiếc áo dài nhung màu hạt xay, và tự hứa khi nào có tiền sẽ may cho mạ áo dài nhung đủ màu. Dọn xong đồ đạc, trong lúc chờ ba thuê xe quay trở lại, như có linh tính tôi lấy chiếc cặp da đen mà ba đựng tấm hình của ông bà nội, gói ghém thêm một vài bộ quần áo. Tôi thay chiếc quần tây đen, áo chemise trắng, chân mang đôi giày bata trắng, dưới lòng bàn chân, trong chiếc bít tất tôi lót ba mươi ngàn đồng tiền lương vừa lãnh. Ðúng lúc ba tôi vừa về, ông bảo tìm xe không có, hai cha con hốt hoảng chạy ra đường. Như một luồng bão thổi qua, thành phố vắng hoe, thay đổi đến không ngờ, không khí lặng ngắt, ngột thở. Ba và tôi chạy đến bến xe đi Cam Ranh. Chỉ thấy người chen nhau mà không một chiếc xe... Hai cha con lại chạy về bến xe đi Ðà lạt nhưng ở đó tình hình không khác mấy. Lúc này súng nổ vang trời. Ðường phố thấp thoáng tù vượt ngục đầu trọc, cởi trần, tay mang súng, bắn vang trời. Tôi hoảng sợ, ba và tôi núp vào một chiếc xe đậu dọc đường. Ngớt tiếng súng, hai cha con chạy xuống bãi biển. Bất ngờ ba đón được chiếc xe Minh Tâm của một người thuê đón gia đình về lại Ðà lạt. Hai cha con mừng rỡ leo lên. Thành phố lại vang tiếng súng, ngoài bóng dáng người tù còn đầy rẫy lính tráng đeo ba lô, súng ống đầy đủ, khuôn mặt ai cũng hoang mang, không hiểu chuyện gì xảy ra, tiếng súng nổ khắp nơi. Ra khỏi Nha Trang vài chục cây số, xe không thể chạy tiếp vì phía trước ngổn ngang xe cộ. Tôi luôn miệng hỏi ông tài xế:
-Ðà lạt có gì không bác?
-Lúc bảy giờ tôi đi xuống đây thì Ðà lạt vẫn bình thường.
Xe chạy ngang qua trung tâm II, con đường tràn ngập những tân binh xả trại. Ai cũng tìm đường về nhà. Trong số đó có hai người quen của tài xế, họ mừng rỡ trèo lên xe. Những chiếc xe nhích từng mét một, xe nào tắt máy bị kéo bỏ sang hai bên đường. Rồi chiếc xe chúng tôi đi cũng hết xăng. Ba tôi nóng lòng muốn xuống đi bộ, nhưng hành lý còn ở trên xe không thể mang đi theo, vả lại xung quanh toàn là lính tráng, khuôn mặt ai cũng căng thẳng tôi lại là thân con gái, cuối cùng hai cha con phải ở lại với những người trên xe ngủ gật gù. Tôi thấp thỏm nguyện cầu cho mạ, chị và các em về Ðà lạt bình an. Bởi nhìn sự hỗn loạn chung quanh, súng nổ rền trời thì khó mà biết được chuyện gì xảy ra nếu mạ và các em còn ở đây. Một chị trên xe nấu được miếng cơm chia cho hai cha con. Bấy giờ tôi mới cảm thấy cái đói, bởi từ hôm qua đến giờ không một cái gì bỏ bụng. Mười giờ đêm, ba tôi sốt ruột không chịu nổi, hai cha con bỏ lại hành lý trên xe lần mò đi bộ hướng về Ðà lạt.
Con đường về nhà (2. 4.1975)
Hai cha con đi suốt đêm, không hiểu được bao nhiêu kilômet. Tôi ôm chiếc cặp như một đứa trẻ lạc nhà, hết đêm qua sáng, mặt trời xứ biển lên mau và nắng gay gắt nhưng hai cha con không cảm thấy khát nước. Chân tôi mỏi nhừ, tưởng chừng như bị bỏng thì ba tôi vẫy được chiếc xe hồng thập tự quân đội, hai cha con được quá giang, phải đứng trên hai chiếc bánh xe secour. Tới một ngã ba, xe rẽ hướng khác, hai cha con đi bộ thêm vài cây số đến Cam Ranh. Thành phố đầy người đi hôi của, người ta phá kho, vác gạo, sữa, đồ hộp quân tiếp vụ... không chỉ có người dân địa phương, mà có cả người dân tản cư, lính lạc đơn vị, tù phá ngục, đúng là một sự hỗn loạn, hai cha con ngơ ngác nhìn mà quên bẵng mình rất đói. Không biết cơ man người từ đâu về, đông nghịt người và người, hai cha con đón được chiếc xe G. M. C. chở những người tản cư ở Qui Nhơn đến, họ cho đi không đòi lấy một đồng. Ði một đoạn khá xa, đến một chiếc cầu dài bị gãy mấy nhịp. Từng đoàn xe dừng lại bên cầu nhưng toàn là xe dân sự, hình như sau khi rút quân, người ta bỏ bom cho sập. Hàng loạt người đứng ngồi theo từng nhóm dọc hai bên chiếc cầu, đồ đạc, quần áo, máy móc, gạo cơm, sách vở, thậm chí những tập album hình ngổn ngang khắp nơi, người ta quá vội vã bỏ đi không có thời gian cúi xuống nhặt nhạnh. Hai cha con đứng lặng bên cầu, nhìn dòng nước chảy, cuối cùng xắn quần lội nước. Qua được cầu, chúng tôi đón được chiếc xe về Phan Rang. Trên xe người ta bàn tán nhau về tình hình chiến sự. Một người cho biết đoàn quân của các trường Võ Bị Quốc Gia, Chiến Tranh Chính Trị, Cảnh Sát Dã Chiến di tản xong. Ðà lạt trở nên thành phố chết, không chính quyền, không quân đội, sự tan rã lan dần đến Phan Rang, hiện nay không ai biết điều gì đang xảy ra trong thành phố tôi ở. Tôi cố an ủi ba:
-Mới có một ngày thì không thể mau như vậy được. Vả lại đâu có đánh nhau, mà không thể nào không có đánh nhau. Trung tâm thành phố Phan Rang tràn người tản cư, họ ngồi hai bên lề đường, trong chùa, trong trường học. Niềm vui tràn ngập khi tôi gặp được bác Hai Dĩ, một người hàng xóm. Bác cho biết:
-Mạ và các em con đã về đến Ðà lạt tối hôm trước, nhưng không biết sáng nay có đi di tản theo đoàn quân hay không. Chị con đã gặp được anh rể. Như vậy anh chị con và anh đầu chắc theo đoàn quân đi về Sài Gòn rồi. Hoang mang, tôi để ba ngồi dựa vào gốc cây còn mình chạy vào trường học, vào chùa để kiếm mạ và các em, không trông mong thấy được anh chị, vì đoàn quân đã đi qua. Và tôi biết mình đang tự lừa dối mình vì không bao giờ mạ tôi dám đưa đám con còn quá nhỏ để ra đi lần nữa, mạ sẽ chờ cha con tôi trở về nhà. Một người đàn ông tốt bụng thấy tôi chạy loăng quăng, lên tiếng khuyên:
- Cháu tìm ai, giờ này sao không về nhà, còn cắp cặp đi đâu nữa, về nhà đi cháu ơi, coi chừng lạc bố mẹ đó. Tôi không thể giải thích với ông lý do mình đi tìm mẹ. Ba tôi ngồi bên gốc cây trông thảm hại. Ông như một cây cổ thụ bị đốn ngã. Trước đây ông luôn tự hào mình là người thành đạt, từ một cậu học trò nghèo ham học, ông vươn dần lên chức vụ của người đứng đầu một cơ quan trong tỉnh, nay theo bản năng ông muốn trở về Ðà lạt tìm lại vợ con nhưng ông cũng hình dung ra những gì chờ đón mình khi mình bước chân về nhà khiến ông chùn chân, ngồi suy nghĩ với trăm bề khổ đau. Trước cổng chùa có một em bé ngồi khóc, có người dỗ dành, em nức nở:
- Mẹ bảo cháu ngồi đây để mẹ đi tìm cha mà giờ này không thấy mẹ quay lại.
Chẳng biết bà mẹ đó giờ này cuống cuồng chạy ngược xuôi tìm con hay nằm lại một góc đường nào đó. Không tìm thấy mẹ và các em, tôi tuyệt vọng. Hai cha con ngồi ở ngã ba Phan Rang, khóc ròng. Bỗng một đoàn lính đi ngang, một vài người đóng quân gần trường tôi dạy nhận ra tôi. Một vài người chào ba tôi, bởi thành phố Ðà lạt quá nhỏ, mọi người hầu như biết nhau. Ðó là những anh lính Ðịa Phương Quân được lệnh về đóng ở Ninh Thuận, hỗ trợ cho trường Võ Bị Quốc Gia, Chiến Tranh Chính Trị rút quân. Khi đoàn quân di tản đi qua, các anh không biết đơn vị mình đi đâu nên họ trở lên lại Ðà lạt vì gia đình còn trên đó, không còn gì may mắn hơn, ba và tôi vững niềm tin, chúng tôi hòa vào đoàn người, một người lính nào đó bắt một chiếc xe tải dừng lại, cũng may ông tài xế cũng có ý định lên lại Ðà lạt, mọi người trèo qua thành chiếc xe tải phủ kín mui, người nào đó chìa những chiếc bánh lương khô cho ba và tôi, tôi thực sự cảm động biết ơn. Những người lính lạc đơn vị từ khắp nơi đổ về, không người chỉ huy, ai có súng là có sức mạnh, thêm vào đó, không chính quyền, tù hình sự phá ngục thoát ra phá phách và hôi của. Một thành phố kinh hoàng, súng nổ rền trời. Một toán lính khác lên cò súng bắn chỉ thiên, bắt chiếc xe tôi đang chạy dừng lại, hai toán lính đối đầu nhau, cả hai bên cùng có súng, cuối cùng toán lính đứng dưới bỏ đi sau khi lột chiếc đồng hồ của ông tài xế. Ông tài xế sợ hãi không dám đi tiếp, ông bỏ xe lại lẫn vào dân. Mọi người xuống xe lại tiếp tục đi bộ đến gần tối thì đón được một chiếc xe chở thuốc tây cho pharmacie Dalat ngay trung tâm thành phố. Ông tài xế rộng rãi cho tất cả mọi người lên xe. Xe chạy ra khỏi Phan Rang, không khí yên tĩnh, người đi đường thưa thớt, không có đoàn người chạy ngược xuôi. Ðêm buông dần xuống, xe dừng giữa đèo Song Pha để nghỉ, không dám lên đèo trong một không khí lặng đến ghê người. Một chiếc xe lambetta bỗng xuất hiện trong đêm tối mịt mùng. Khuôn mặt một người đàn ông vẫn còn nét hoang mang, ông nhận ra ngay ba tôi:
-Anh ơi! Quân đội đã rút đi hết rồi. Không còn chính quyền trên đó, nghe nói Việt Cộng về rồi, họ đã đặt đại diện. Anh không nên lên, không nên... Báo tin xong, ông hối hả chạy tiếp. Mọi người trên xe nửa tin nửa ngờ vì thông tin này, còn đang bàn tán thì trong rừng, bóng hai người đàn ông khác xuất hiện. Họ là hai cha con, tay đeo nải, khoác ruột tượng đựng gạo trên vai. Dáng người cha to lớn in trong rừng cây tối đen. Ba tôi nhận ra bác Ngãi, một công chức đồng sự với ông. Chỉ vài câu nói bác xác nhận tin trên là đúng sự thật. Bác khuyên ba tôi không nên trở lại Dalạt. Ba tôi sụp xuống, ông giãy giụa, bác Ngãi quay qua tôi nói nhỏ:
-Bác nói cho cháu nghe, cháu phải cản không để ba cháu lên Ðà lạt nữa, nguy hiểm lắm. Tôi òa khóc, người như mê đi, trong tiếng mọi người bàn tán, tôi nghe tiếng bác Ngãi an ủi, vỗ về. Con đường phía trước không còn lối thoát. Với ngần ấy năm làm công chức cao cấp, bây giờ Ðà lạt không còn là đất cho ba tôi dung thân. Tôi nhớ khi còn học bậc trung học, ba bạn tôi là bác Tăng Văn Danh làm trưởng ấp dưới Trại Hầm, một đêm họ về đem ra xử bắn trước sân ngay trước mặt vợ con. Tôi sợ thất thần, tôi biết nếu mình trở lên chắc không chết nhưng ba tôi không có cơ may sống sót hay thoát cảnh tù tội. Tôi không nghĩ ba tôi có thể thoát chết trong cuộc chiến này được nhưng tôi không muốn chính mình là người đem cha lên Ðà lạt để nạp mạng. Những thước phim về những cuộc đấu tố, những hố chôn tập thể hiển hiện trước mắt làm tôi điếng người. Giờ thì ba tôi không còn một chút tâm trí nào, không biết quyết định ra sao, ông khóc than, tự trách mình không lên chuyến xe cùng vợ con, nay gia đình ly tán, ông không cùng vợ chia sẻ nỗi nhọc nhằn, thậm chí giờ không biết vợ con vất vưởng ở đâu. Tôi cũng khóc hết nước mắt giữa đèo Sông Pha, tôi không biết mình còn gặp lại mẹ và các em. Tôi nhớ từng khuôn mặt của mỗi đứa em: Hoành nhỏ nhất mới lên mười, ít nói có đôi mắt to buồn, Phương nhí nhảnh, lên xe về Ðà lạt mặc bộ đồ mới tôi vừa mới may trông thật dễ thương. Sâm chính là đứa em đặt trái banh giữa bộ quần áo để tôi không thấy bắt bỏ lại, em còn có tên Sâm Banh. Cẩn đi xe đạp đến trường xa hơn năm cây số mà không than thở. Ngày xưa còn bé, tôi bồng Chi suốt trên tay, mỗi khi em đòi tôi bế, giọng nói ngọng nghịu: Gương ơi! Gương! Lạc, Lâm tuy lớn nhưng rất ngoan, dẫu gần nhà có một điểm bán bạch phiến mà các em không hề ghé mắt nhìn qua. Quyền chăm lo học hành, lúc nào sách vở cũng trên tay. Một đêm hãi hùng giữa đèo Sông Pha, bỗng nhiên tôi trở thành người tứ cố vô thân không một mái nhà, hay có một mái nhà mà không dám về, có người thân chờ đợi mà không dám ghé. Tôi không dám nghĩ ba tôi sẽ sống như thế nào nếu cha con thoát thân về được Sài Gòn nhưng tôi cố tự nhủ mình: nếu không về gặp được mẹ và các em thì phải cố đưa ba tìm gặp các anh và chị vì tôi tin họ đã về đến Saigòn và nghiến răng thầm bảo hãy để nước mắt ở giữa đèo. Với một con bé suốt tháng năm qua chỉ biết ăn và học, ra đời chưa được bao lăm nay phải tự mình quyết định một việc như thế, tôi biết tóc mình đã bạc dẫu chưa qua tuổi hai mươi.
Con đường tìm sự sống (3.4.1975)
Sáng sớm, ông tài xế xe thuốc tây e dè hỏi cha con tôi có muốn lên Dalat nữa không. Mọi người đã xuống xe, ba muốn trèo lên nhưng tôi níu tay lại. Xe chạy, hai cha con lại chạy theo một đoạn rồi đứng lại nhìn chiếc xe mất hút đem theo niềm hy vọng trở về nhà. Toán người đi xuống đèo, ngoài cha con tôi, hai cha con bác Ngãi còn có ba người lính địa phương đóng trong trường tôi dạy, hai người tên Phụng và Tân, còn người kia thì tôi không biết, ba người lính muốn về Sài Gòn để trình diện tại Bộ Tổng Tham Mưu. Trên đoạn đường đi, mỗi người một suy nghĩ, chỉ có cha con bác Ngãi hăng hái nhất, bởi gia đình bác về được Sài Gòn mấy hôm, bác đi sau cũng chỉ vì không dám bỏ nhiệm sở. Ba người lính tuy từng trải trong chiến trường nhưng cũng không hình dung nỗi việc mình đang làm, không nhận thức mình muốn và đang muốn cái gì. Ba đi như người mộng du. Tôi nhìn mặt đường đi trong lòng chỉ cầu nguyện, biết chừng anh chị tôi thuyết phục mạ chạy theo đoàn quân và cũng sẽ về được Sài Gòn, nhưng trong thâm tâm tôi cũng tự biết điều đó là không thể. Nước mắt đã cạn ở giữa đèo, trong tôi có một sức cứng rắn đến tàn nhẫn, tôi kéo mũ sụp che khuất khuôn mặt, tay cầm cặp, tay dìu ba tôi đi, phải đi nhanh cho bằng những người nam đồng hành để không bị bỏ lại phía sau. Xuống cuối đèo, có một tượng phật Quan Thế Âm nhỏ bên cạnh đường, mọi người đứng lặng, ba tôi chắp tay cầu xin Phật phò hộ, tôi không biết mình ao ước điều gì, bởi mỗi bước chân là mỗi bước cách xa mạ và các em. Ði thêm một đoạn đường dài, đoàn người đón được chiếc xe đò từ Ðơn Dương xuống, chúng tôi leo lên. Xe chạy được một lúc lại đến ngã ba rẽ đường khác, chúng tôi lếch thếch đi bộ, khác với ngày hôm qua, con đường đi vào Phan Rang đầy nghịt người không biết từ đâu đổ về, không hiểu người ta đi đâu, nhóm người này đi tới lại đụng phải nhóm người đi lui, có lẽ họ cũng như chúng tôi, người muốn trở về nhà người muốn đi tiếp về Sài Gòn, hình như mọi người thấy phải đi thì mới cảm thấy yên tâm hơn. Phan Rang thực sự một thành phố kinh hoàng, ngày hôm qua chỉ là hôi của còn giờ thành phố đầy rẫy sự cướp bóc. Ðoàn người chúng tôi không có hành lý. Tôi có tháng lương để dưới bít tất và chiếc cặp da nhỏ, ba có 10. 000 đồng, hai cha con bác Ngãi đeo tay nải lương thực, ba anh lính với chiếc ba lô. Chúng tôi đi giữa sự hỗn loạn, dưới cái nắng nóng của Phan Rang. Ðến lúc mọi người tưởng như chịu không nỗi lại đón được xe vào thành phố, lính tráng có mặt khắp nơi, đủ các binh chủng, họ đi thành từng nhóm, mặt mày căng thẳng, một toán lính đứng trên thành cầu, nhóm khác đứng hai bên vệ đường, một người ra giữa đường chĩa súng lên trời bắn chỉ thiên buộc xe của chúng tôi dừng lại, chiếc xe ngang ngạnh không chịu dừng, một tràng súng bắn ngang. Xe dừng lại, có người trúng đạn, xác chết bị kéo xuống đặt dưới đường, không một tiếng khóc có lẽ là một người đi lẻ loi, gia đình không biết con mình đã chết nằm ở vệ đường. Toán lính dưới đất trèo lên xe, xe lại tiếp tục chạy. Tôi ngồi giữa những người lính đầy súng ống, sợ điếng người vì phải đối mặt với cái tàn nhẫn của chiến tranh. Những người lính lạc đoàn quân từ miền trung chạy vào, họ không có một thông tin, không biết chỉ huy nay ở đâu, không biết cấp chỉ huy ai còn ai mất, những cuộc phục kích khiến họ không biết cuộc chiến nay đã xảy ra nơi đâu và kết quả như thế nào. Những người lính bình tâm lại, họ hỏi thăm những người ngồi trên xe, thương hại cha con tôi. Tôi không dám nhìn ai, không hé môi một lời, có lẽ họ cũng chỉ nghĩ tôi là một con bé trung học lạc nhà. Xe chạy đến Phan Rí thì ngừng lại. Ðoàn người đi từ đèo Song Pha giờ như một gia đình nhỏ, tá túc dưới một mái hiên, mấy anh lính Ðịa phương Quân cho ba tôi mượn chiếc poncho, họ cho tôi nắm cơm, với bàn tay mấy ngày không nước rửa tôi bẻ nắm cơm ăn đến hạt cuối cùng.
Ðoạn đường kinh hoàng (4.4.1975)
Sáng hôm sau, xe chạy ngang qua Phan Thiết, mặc dù xe chở đầy lính tráng không bị chặn lại nhưng đi rất chậm vì người đi đầy đường bằng đủ các loại phương: xe ba gác, xe đạp, xe gắn máy, xe tải, xe quân đội người đi bộ gồng gánh lấn ra cả lòng đường... Ðến ngã ba vào Bình Tuy, đoàn người phải xuống đi bộ. Ðoạn đường dài, nắng nóng, không một bóng nhà, không một bóng cây. Không nước uống, chỉ có những vũng lầy nước đục ngầu. Ba và tôi nhắm mắt cố uống cho qua cơn khát. Con đường đầy những xác chết. Mới thoạt nhìn tưởng người ngoại quốc vì ai cũng to lớn. Nhưng thực ra đó là những người lính, người dân xấu số bị chết trương phình vì không người chôn cất. Xung quanh, những đám ruồi xanh bay vo ve. Tôi không dám nhìn chung quanh, cúi mặt sát đường hơn, nhìn kỹ bước chân để tránh đạp nhầm súng ống ngổn ngang. Ba tôi cũng chẳng hơn, ông vốn chỉ là một công chức lại mang trong người một dòng máu của nàng thơ nên sống không thực tế, tất cả mọi việc trong gia đình đều một tay mạ tôi lo toan. Không có bà bên cạnh, ông hụt hẫng không quyết đoán được việc gì. Hai cha con dìu nhau đi trên đoạn đường địa ngục, sự sợ hãi quá sức khiến mọi xúc cảm không còn, tôi lẩn thẩn tự hỏi: chắc gì mình may mắn hơn những người nằm xuống. Buổi tối bên hiên nhà trên con đường vào Bình Tuy. Trời mưa, tôi nằm dưới đất, gối đầu trên chiếc cặp da, người lấm lem đất cát, đoàn người đã khốn khổ vì chạy loạn nay lại chịu ướt đến khốn khổ. Trên bầu trời, hỏa châu soi sáng một góc trời, tiếng súng ầm ì ở đâu đó, tôi mong một trái đạn pháo nào rớt vào; nếu tôi chết, chắc chắn hồn tôi sẽ linh thiêng, tôi phù hộ cho ba mạ và các em tôi.
Miền đất hứa (5.4.1975)
Tôi thức giấc khi bầu trời còn tinh tú và không ngờ mình vẫn còn sống, tôi dẫn ba lầm lũi đi sau cha con bác Ngãi. Mấy lần ba thối chí muốn dừng lại bên lề đường nhưng tôi không cho. Tôi cúi đầu không nhìn ai, níu tay ba tôi không cho ông dừng lại để nói chuyện với ai, bởi một lần gặp gỡ ông lại khóc. Có lúc ông bảo tôi thấy một người nào đó mặc chiếc áo len của anh rễ do chính tôi đan tặng nhưng tôi dứt khoát không cho ông hỏi thăm bởi nếu đúng chiếc áo của anh thì điều đó chỉ báo điềm không may mà thôi. Giờ ông lại xem tôi là người có tội khi hai cha con lâm vào tình thế này. Bao nhiêu lời trách móc ông dành cho tôi, kết tội tôi không cho ông lên đèo, ông cứ hỏi tại sao tôi lại là con gái mà không phải con trai. Từng đoàn người tản cư của khắp miền trung đổ dồn về, tới đây họ cảm thấy yên tâm, họ cảm giác mọi chuyện trở nên bình yên nếu về được Sài Gòn, thánh địa cuối cùng. Ðường đi về bãi biển nóng khá nguy hiểm bởi ngoài đồ đạc vất ngổn ngang còn lẫn súng ống, những quả lựu đạn nằm lăn lóc đến đáng sợ, người ta chen lấn nhau thuê ghe máy vào Long Hải. Trời về chiều, ba người lính có lẽ tìm được đơn vị hay gặp nhiều người trong đơn vị nên đi đâu mất, cha con bác Ngãi ái ngại hoàn cảnh cha con tôi nên dọc đường có ý chăm sóc, bác thuê giùm ghe máy và cùng nhau đến Long Hải. Chiếc ghe máy chật người, nước mấp máy vào mạn ghe, khuôn mặt nhiều người đã thấy nụ cười, miền đất hứa hiện ra trước mắt. Lòng tôi khô cứng lại, tôi biết không thể nào mình gặp mẹ và các em nữa. Giờ ba tôi như một người điên, ông ôm, đánh, cấu véo tôi như thể tôi là nguyên nhân gây cho ông nỗi khổ này, rồi ông lại khóc ôm tôi, quay quắt gọi tên từng đứa con. Ghe cập bến, mọi người xuống ghe với nụ cười, chúng tôi xuống ghe với tâm hồn nặng trĩu. Bờ biển Long Hải đầy người. Không muốn nhìn niềm hạnh phúc của cha con bác Ngãi cũng như không muốn ba tôi khốn khổ khi thấy bác sắp gặp lại gia đình khiến ông nổi cơn khủng hoảng, tôi dẫn ông lẫn vào đám đông mà không cám ơn cha con bác lấy một lời. Trời sập tối, tôi ra bể nước giặt cho ba tôi chiếc áo chemise, hai cha con mua một dĩa cơm, đó là dĩa cơm đúng nghĩa sau mấy ngày chạy loạn, khiến tôi cũng ngạc nhiên về cái ngon miệng của mình. Ðêm đó, cha con tôi thuê chiếc ghế bố ngủ trên bãi biển, chung quanh tôi rất đông người, nơi hội tụ của trăm ngàn hoàn cảnh từ khắp nơi đổ về. Hoàn cảnh như cha con tôi không phải cá biệt, những người giàu có đã đi tản cư bằng máy bay, phần còn lại đi bộ thất lạc nhau, chết chóc dọc đường. Một ông đứng tuổi nằm gần bên ba khóc nức nở, vợ con ông chết ngay trước mắt, ông thấy xe cán lên mà không thể dừng lại để chôn cất; tiếng khóc, tiếng than, tiếng kể lể nổi lên; con xa cha mẹ, vợ lạc chồng. Tiếng người bàn luận nhau về cuộc chiến, người ta không biết vĩ tuyến 17 giờ sẽ đặt ở đâu. Tôi nhìn trên trời cao, tìm ngôi sao bản mệnh của mình. Ngày mai, hai cha con tôi sẽ thuê xe về Sài Gòn, tôi có gặp được các anh chị trong đoàn quân di tản? Anh trai tôi trong đoàn quân tan tác miền trung có về kịp hay bị bắt, bị chết ở đâu? Hai cha con về Sài Gòn để làm gì khi anh chị không ai về được. Cuộc chiến sắp kết thúc hay chỉ là mới bắt đầu! Sự trầm luân của hai cha con tôi mới khởi sự và bao giờ thì kết thúc... Tiếng khóc, tiếng cười ồn ào xung quanh mà không ai trả lời câu hỏi đó... Tôi ngậm ngùi nghĩ tháng ngày này thật khủng khiếp khi tôi mới ở tuổi hai mươi.
*30 năm qua tôi chưa bao giờ dám mở lại những trang nhật ký này. Mãi đến hôm nay đọc lại, tôi mới thấy những ngày tháng ấy thật đáng sợ, đủ để bạc cả mái tóc dù chỉ ở tuổi hai mươi.
(Nguồn: Hoai Phuong Pham)
.
.
.
No comments:
Post a Comment