Monday, March 21, 2011

VÌ MỘT NỀN GIÁO DỤC TRUNG THỰC, LÀNH MẠNH và HIỆN ĐẠI (Hoàng Tụy)

(Diễn từ tại buổi lễ trao giải thưởng Văn hoá Phan Châu Trinh, 2011)

Hoàng Tụy

Thật là vinh dự lớn cho một người làm khoa học bình thường như tôi được nhận giải thưởng văn hoá Phan Châu Trinh cao quý. Vinh dự lớn trước hết vì giải thưởng gắn liền với tên tuổi một nhà ái quốc vĩ đại của dân tộc, một sĩ phu thuộc lớp cựu học nhưng đã thoát ra khỏi những quan niệm giáo dục phong kiến cổ hủ đương thời, khởi xướng đường lối canh tân văn hoá, giáo dục để cứu nước: khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh. Vinh dự lớn còn là không phải giải thưởng hay huân chương trong hệ thống hành chính Nhà Nước mà là giải thưởng được trao cho bởi một tổ chức xã hội dân sự, với ý nghĩa cao quý thúc đẩy sự nghiệp văn hoá giáo dục của nước nhà theo tinh thần khai sáng của nhà ái quốc vĩ đại.

Làm khoa học ở một đất nước nghèo khó tôi vốn có duyên nợ nhiều với giáo dục. Xuất thân là một thầy giáo trung học rồi dần dần tự mày mò học tập, nâng cao trình độ mà trưởng thành trong nghề và trở thành một nhà khoa học. Bắt đầu dạy học ở tuôi 20, đến nay đã ngoài 80, suốt hơn 60 năm đó tôi chưa lúc nào xa rời nghề dạy học, tuy học trò của tôi thì tuổi tác, tính chất, trình độ và cả quốc tich cũng ngày càng đa dạng. Được may mắn (chứ không phải rủi ro) học phổ thông ở nhà trường thời thực dân (nhưng không phải nhà trường thực dân), ra đời cũng được đi đây đi đó học, dạy, làm việc trong những môi trường đại học khoáng đạt hiện đại từ Tây sang Đông trên thế giới nên tôi thường có dịp suy ngẫm về nghề nghiệp của mình. Suy ngẫm từ vị trí công dân một nước nghèo, lạc hậu, khát khao mau chóng đuổi kịp một nhân loại đang rộn rịp chuyển lên nền văn minh trí tuệ đầy thách thức. Điều đó tự nhiên dẫn đến mối quan tâm trăn trở gần như thường trực đối với nền giáo dục của nước nhà. Mà cũng từ đó được mở rộng tầm mắt, có cách nhìn hệ thống đối với nhiều vấn đề giáo dục, kinh tế, văn hoá, xã hội của đất nước. Hồi còn anh Tạ Quang Bửu làm Bộ trưởng Đại Học tôi đã có nhiều dịp nghiên cứu và trình bày về tư duy hệ thống trong các xêmina giáo dục do anh ấy chủ trì. Những tư tưởng, quan niệm của tôi về giáo dục, văn hoá, kinh tế xã hội ngay từ những ngày ấy phần lớn đều xuất phát từ cách nhìn hệ thống đó cho nên ít nhiều cũng có tính hệ thống nhất quán, nếu có lúc cần thay đổi thì cũng do logic sự vật chứ không tuỳ hứng, tuỳ tiện, tuỳ thời.

Một thế kỷ nay chưa bao giờ vai trò then chốt của giáo dục trong sự phát triển của dân tộc ta nổi rõ như lúc này. Chỉ trong vòng một thế hệ mà những bước tiến khổng lồ của khoa học và công nghệ đã mang đến cho cuộc sống trên hành tinh những đổi thay sâu sắc hơn cả hàng trăm năm. Trong bối cảnh ấy giáo dục càng quan trọng thiết yếu hơn bao giờ hết cho bất cứ xã hội nào, kể cả những xã hội tân tiến nhất.

Việt Nam không là một ngoại lệ. Nên dù trước mắt kinh tế có khó khăn bức bách bao nhiêu cũng không cho phép chúng ta một phút được lơ là các vấn đề giáo dục. Chừng nào giáo dục còn yếu kém tụt hậu như hiện nay thì dẫu có tăng trưởng kinh tế giữ được tốc độ 7-8%, thậm chí 10% năm chăng nữa đất nước cũng vẫn mãi mãi lẹt đẹt sau thiên hạ. Muốn tăng trưởng kinh tế bền vững, muốn chuyển hướng phát triển từ chiều rộng sang chiều sâu mà để giáo dục yếu kém thì chỉ là nói suông. Ông Lý Quang Diệu từng khuyên chúng ta: thắng trong giáo dục thì mới thắng trong kinh tế. Gần đây ông đại sứ Hoa Kỳ sau nhiệm kỳ công tác ở Việt Nam cũng nhận xét thách thức lớn nhất của Việt Nam hiện nay là giáo dục. Không phải họ hù doạ chúng ta, cũng chẳng phải họ cung cấp cho chúng ta thông tin gì mới mẻ tân kỳ. Họ chỉ nói cho ta biết một điều mà từ nhiều năm rồi ngay chuyên gia trong nước đã có không it lời cảnh báo tương tự. Chẳng qua Bụt nhà không thiêng thì mới cầu tới Bụt ngoài.

Cho nên dù nhiều người đã nói nhiều lần rồi tôi cũng xin nhắc lại lần nữa: chỗ nghẽn lớn nhất trong phát triển hiện nay của xã hội ta là giáo dục. Giáo dục và giáo dục, không có gì quan trọng hơn. Và vì vậy cải cách giáo dục mạnh mẽ, toàn diện và triệt để là mệnh lệnh cuộc sống. Càng chần chừ, càng trì hoãn càng trả giá đắt, và không loại trừ đến một lúc nào đó sẽ là quá trễ như đã từng xảy ra tại nhiều nơi trên thế giới.

Đó là nội dung thiết yếu hai bản kiến nghị mà một nhóm trí thức quan tâm tới vận mệnh đất nước đã gửi Trung Ương Đảng, Quốc Hội và Chính Phủ năm 2004 và năm 2009 (bản Kiến nghị 2004 đã được phổ biến rộng rãi, còn bản Kiến nghị 2009 chưa được nhiều người biết do bị hạn chế phổ biến).

Như chúng ta còn nhớ, cách đây 15 năm từng có nghị quyết lịch sử của Hội Nghị TƯ II, khoá 8, xem phát triển giáo dục, khoa học là quốc sách hàng đầu. Nhưng mười năm sau đó, Thủ Tướng Chính Phủ đã phải thẳng thắn thừa nhận chúng ta chưa thành công trong hai lĩnh vực nêu trên. Cho nên các nghị quyết Đại Hội X và ba Hội Nghị TƯ sau đó đều nhắc lại nhiệm vụ khẩn thiết cải cách giáo dục để ra khỏi cuộc khủng hoảng kéo dài mấy thập kỷ. Đặc biệt sau những lời hứa hoa mỹ của ông tân Bộ Trưởng GD và ĐT năm 2006, nhiều người trong đó có tôi đã đặt niềm tin ngây thơ vào triển vọng công cuộc chấn hưng giáo dục có thể bắt đầu chuyển động. Tiếc thay, hy vọng chưa kịp nhen nhóm thì thất vọng đã mau chóng đến, lần này lo lắng nhiều hơn vì chưa bao giờ giáo dục chạy theo thành tích dễ dãi được quảng cáo ầm ĩ thiếu trung thực lại ngốn nhiều công sức, tiền của mà hiệu quả thấp như 5 năm qua.

May thay, sự kiện Ngô Bảo Châu đã tạo một cú hích, it nhất về nhận thức. Sau một thời gian ngắn được ngộ nhận là thành tich đặc biệt của giáo dục, sự kiện này cuối cùng đã cho thấy quá nhiều vấn đề cần suy nghĩ lại nghiêm túc và tỉnh táo hơn về nhà trường của chúng ta. Đáng mừng là lần đầu tiên sau nhiều năm chờ đợi, người dân đã được nghe Thủ Tướng long trọng tuyên bố cần một cuộc cải cách giáo dục mạnh mẽ, toàn diện, triệt để, để chấn hưng đất nước. Với niềm hân hoan như đã lâu chưa hề có, tôi đã lắng nghe bài diễn văn buổi tối đó của Thủ Tướng, y như người đang khát giữa trưa hè nóng bức mà được uống bát nước chè tươi.

Sau tuyên bố của Thủ Tướng, nguyên Phó Chủ Tịch Nước Nguyn Thị Bình cũng đã lên tiếng đầy sức thuyết phục kêu gọi thực hiện cải cách giáo dục để tiến lên một nền giáo dục trung thực, lành mạnh và hiện đại, đáp ứng nguyện vọng chính đáng của người dân và yêu cầu cấp thiết chấn hưng đất nước. Nhiều bậc thức giả khác đã hưởng ứng lời kêu gọi đó. Ai nấy đều tin rằng đã đến lúc cần kết thúc giai đoạn đổi mới vụn vặt, chuyển sang cải cách mạnh mẽ thì giáo dục mới có thể ra khỏi bế tắc, trì trệ. Trong một buổi làm việc hơn hai giờ vào khoảng giữa tháng 11, tôi cũng đã cố gắng thuyết phục Bộ Trưởng GD và ĐT Phạm Vũ Luận hãy nhân cơ hội này nhận nhiệm vụ lịch sử khởi động công cuộc cải cách giáo dục đã được đề ra trong các nghị quyết lớn của TƯ. Trước hết hãy có một cách tiếp cận mới đối với một số vấn đề nhức nhối nhất hiện nay như thi cử, tổ chức trung học phổ thông và dạy nghề, tuyển chọn GS, PGS, xây dựng đại học đăng cấp quốc tế, v.v.

Tuy nhiên cho đến giờ phút này, nghĩa là gần nửa năm trời sau tuyên bố mạnh mẽ của Thủ Tướng tình hình vẫn im ắng. Một chủ trương đúng đắn có ý nghĩa then chốt chiến lược đến như vậy, lại đã long trọng hứa hẹn với dân nhiều lần, mà đấu tranh thực hiện cũng gian khổ chẳng khác gì việc đòi giảm sưu cao thuế nặng thời thực dân phong kiến hay sao ? Tôi thật sự lo lắng khi thấy bất chấp mọi lời khuyên, cỗ máy giáo dục già nua cổ lỗ vẫn tiếp tục vận hành ì ạch mà chưa thấy tín hiệu gì sẽ thay đổi. Đến hẹn lại lên, cả nước lại chuẩn bị lao vào địa ngục thi cử với biết bao tốn kém, lo âu, để rồi như mọi năm hàng chục vạn học sinh sau 12 năm đèn sách bị ném bơ vơ ra đời, không nghề nghiệp mà cũng chẳng có nơi nào học tiếp, cùng với hàng vạn sinh viên sau 3,4 năm đại học vẫn bỡ ngỡ ngay cả với những việc làm rất thông thường mà ở các nước khác chỉ đòi hỏi một học vấn trung cấp.

Tại sao thanh thiếu niên ta phải chịu thiệt thòi lớn như vây ? Tại sao đã 36 năm ròng rã từ ngày thống nhất đất nước mà giáo dục đến nông nỗi này ?

Hiển nhiên có nhiều nguyên nhân nhưng điều dễ thấy nhất là một đất nước mà người dân tin rằng cái gì tiền không làm được thì nhiều tiền sẽ làm được -- một đất nước như thế thì giáo dục tụt hậu là tất yếu. Suy cho cùng sự nghiệp chấn hưng giáo dục tuỳ thuộc quyết định vào cuộc đấu tranh chống tham nhũng. Chừng nào tham nhũng còn nặng thì dối trá, lừa đảo còn phổ biến khắp hang cùng ngõ hẻm, làm sao giáo dục có thể trung thực, lành mạnh được, nói chi đến hiện đại. Chống tiêu cực trong thi cử, chống bệnh thành tích ư ? thì đó, năm đầu làm nghiêm thì hàng loạt thí sinh trượt, năm sau bắt đầu dễ dãi thì tỉ lệ thi đỗ tăng, năm sau nới rộng nữa thì đạt tỉ lệ thi đỗ cao ngất ngưỡng như ban đầu, thế là chứng minh chất lượng giáo dục đã đựơc nâng cao, giáo dục đã đạt siêu thành tích. Còn mua bằng, bán điểm, chạy trường, chạy dự án, chạy chức, thứ gì cũng chạy được, chạy bằng chân, bằng đầu, bằng vốn tự có, hay gì gì đó thì đố ai biết qui mô đến đâu. Có điều chắc chắn là những chuyện tiêu cực trong giáo dục và kèm theo đó, bạo lực học đường chưa hề giảm mà có phần phát triển bạo liệt tinh vi hơn, có nguy cở trở thành một nét văn hoá tiêu biểu của xã hội ta hiện nay.

Giáo dục là một hệ thống phức tạp, theo nghĩa khoa học của từ này, cần phải được tiếp cận và vận hành như một hệ thống phức tạp mới có hy vọng tránh khỏi sai lầm, thất bại. Lãnh đạo, quản lý giáo dục mà thiếu tư duy hệ thống, thiếu môt tầm nhìn chiến lược bao quát thì chỉ có sa vào sự vụ, nay thế này mai thế khác, “đổi mới” liên miên nhưng vụn vặt, chắp vá, không nhất quán, rốt cục tiêu tốn nhiều công sức tiền của mà kết quả chỉ làm rối thêm một hệ thống vốn đã què quặt, thiếu sinh khí, thường xuyên trục trặc. Trong một thế giới biến chuyển cực kỳ mau lẹ, chỉ chậm một vài năm đã có thể gây thiệt hại đáng kể, huống chi mấy thập kỷ liền hầu như giẫm chân tại chỗ và loay hoay với những vấn nạn nhức nhối kéo dài hết năm nầy qua năm khác.

Không đâu cần bốn chữ cần kiệm liêm chính hơn lĩnh vực giáo dục. Cũng không đâu cần tư duy phê phán, cần tự do, sáng tạo hơn ở đây. Một nền học đã thiếu vắng các đạo đức và đức tính cơ bản ấy tất nhiên sớm muộn cũng biến chất và lâm vào bế tắc. Khi ấy những điều chỉnh cục bộ theo kiểu đổi mới từng việc vụn vặt như vừa qua không những không có tác dụng mà còn làm kéo dài thêm tình trạng trì trệ. Lúc này lối ra duy nhất cho giáo dục là cải tạo cấu trúc, xây dựng lại từ gốc, thay đổi cả thiết kế hệ thống. Chỉ có như thế mới mong cứu giáo dục thoát ra khỏi khủng hoảng triền miên.

Không đi sâu vào những việc quản lý cụ thể tôi chỉ xin nêu một số vấn đề ở tầm chiến lược về chất lượng giáo dục. Dù bảo thủ đến đâu, dù thoát ly thực tế cuộc sống đến đâu, ai cũng phải công nhận chất lượng giáo dục của ta quá thấp. Thấp như thế nào và làm gì để nâng cao chất lượng thì lại có nhiều cách nhìn thiển cận, phiến diện, sa vào chi tiết vụn vặt không thực chất.

Thứ nhất là chuyện học và thi. Năm nào bàn chuyện này cũng có nhiều đề xuất cải tiến nhưng càng bàn càng rối mà chưa thấy hướng ra đúng đắn. Học thì cứ miêt mài nhồi nhét nhiều thứ vô bổ, nhưng lại bỏ qua nhiều điều cần thiết trong đời sống hiện đại. Thi thì mãi vẫn một kiểu thi cổ lỗ, biến thành khổ dịch cho học sinh nhưng là cơ hội kinh doanh, làm tiền cho một số người. Không phải học mà thi mới là chính, học chỉ để đi thi, để có bằng, thậm chí không học mà có bằng thì càng tốt. Đặc biệt thi tốt nghiệp nặng nề như chưa hề thấy đâu trên thế giới văn minh. Tuy đã có không ít hội nghị bàn thảo về cải tiến phương pháp giảng dạy, cho đến nay chủ yếu vẫn chỉ là dạy trên lớp, thầy đọc, trò ghi và bám sát sách giáo khoa. Trong khi đó, với cách nhìn toàn cục có thể thấy rõ cốt lõi của chuyện học và thi ở chỗ khác. Đã sang thế kỷ 21 nhưng giáo dục của ta vẫn giữ nhiều quan niệm cổ hủ như thời phong kiến nho giáo hay thời trung cổ ở Châu Âu, nặng tính giáo điều kinh kệ, vì nhằm mục tiêu thiển cận biến con người thành một phương tiện sử dụng vào các mục đích tôn giáo hay chính trị, hơn là hoàn thiện con người như một chủ thể tự do. Phương Tây đã có thể nhanh chóng bước lên giai đoạn phát triển văn minh công nghiệp hiện đại trong khi Phương Đông còn ngủ dài trong văn minh nông nghiệp chính là nhờ họ đã sớm thế tục hoá giáo dục. Thiết nghĩ một giải pháp tương tự cũng cần nghiên cứu cho nhà trường Việt Nam để bước vào kinh tế tri thức thời nay.

Thứ hai là chuyện đào tạo theo nhu cầu xã hi. Các doanh nghiệp thường phàn nàn gặp nhiều khó khăn khi tuyển nhân lực cần thiết vì trình độ, năng lực thực tế của sinh viên do các trường đào tạo ra quá thấp so với yêu cầu của họ. Trong khi đó, hàng năm có hàng chục vạn học sinh, sinh viên ra trường không tìm được việc làm thích hợp. Mặc cho khẩu hiệu “nói không với đào tạo không đạt chuẩn, không đáp ứng nhu cầu xã hội”, và một số biện pháp đổi mới quản lý giáo dục, chất lượng đào tạo vẫn giẫm chân tại chỗ từ hàng chục năm nay. Quá nhiều trường đào tạo về kinh tế, tài chính, kế toán, ngân hàng, v.v. nhưng rất ít trường về công nghệ, kỹ thuật, khoa học. Quá nhiều đại học, cao đẳng kém chất lượng, nhưng rất it trung cấp kỹ thuật. Cơ cấu đào tạo khiến trong nước rất thiếu công nhân lành nghề, rất thiếu cán bộ kỹ thuật trung cấp giỏi, nhưng thừa kỹ sư, cán bộ quản lý tồi. Không lạ gì có nhà đầu tư nước ngoài từng nhận xét: chúng ta nói nhiều về công nghiệp hoá nhưng ngay một chiếc đinh vít cũng chưa có nơi nào trong cả nước làm được đúng chuẩn quốc tế. Công nghiệp phụ trợ không phát triển nổi, muốn làm ra sản phẩm công nghệ gì tinh vi đôi chút cũng phải nhập phần lớn linh kiện, bộ phận và các sản phẩm trung gian. Rôt cục chỉ lắp ráp là chính thì bao giờ mới xây dựng được công nghiệp hiện đại. Sự thể nghiêm trọng đến mức chuyên gia Nhật đã khuyến cáo: vận mệnh ngành công nghiệp phụ trợ Việt Nam không chỉ ảnh hưởng đến tương lai phát triển kinh tế của Việt Nam mà còn ảnh hưởng đến địa vị chính trị của Việt Nam trong khu vực Đông Nam Á. Mà với cơ cấu đào tạo nhân lực như hệ thống giáo dục hiện nay thì không cách nào phát triển công nghiệp phụ trợ. Cho nên có nhìn rộng ra cả nền kinh tế mới thấy vấn đề đào tạo theo nhu cầu xã hội không chỉ là cải tiến khâu đào tạo ở cấp đại học hay cao đẳng mà phải cải tổ cơ cấu hệ thống giáo dục, theo hướng như đã trình bày trong bản Kiến nghị 2009: sau trung học cơ sở phần lớn học sinh sẽ vào trung học nghề, trung học kỹ thuật, chỉ một tỉ lệ nhỏ vào trung học phổ thông. Bản thân trung học phổ thông cũng cần được cải tổ theo hướng không phân ban cứng nhắc mà có nhiều lựa chọn cho học sinh phát triển năng khiếu sở thích, nhờ đó nâng cao chất lương đầu vào đại học, tạo điều kiện nang cao chất lượng đại học . Như vậy, sau 12 năm học, học sinh nếu ra đời thì đã có nghề, còn số có thể tiếp tục học sẽ không bị nhiều rào cản do cánh cửa chật hẹp của đại học hiện nay.

Thứ ba là xây dựng đại học. Vị trí và tính chất của giáo dục đại học trong sự phát triển của các quốc gia ngày nay đã thay đổi rất nhiều so với chỉ cách đây vài thập kỷ. Nói giáo dục là thách thức lớn nhất cho đất nước hiện nay thì trước hết đó là giáo dục đại học. Trong một thế giới toàn cầu hóa, xây dựng đại học tất nhiên phải hướng tới và tuân thủ các chuẩn mực quốc tế trong mọi lĩnh vực. Trong khi đó, từ việc đào tạo tiến sĩ, việc tuyển chọn giáo sư, đánh giá các công trình khoa học, các nhà khoa học, các trường đại học, đến nay chúng ta vẫn giữ nhiều tiêu chuẩn riêng chẳng giống ai. Mặc dù đã trải qua mấy chục năm trời xây dựng, đại học của ta vẫn còn ngổn ngang rất nhiều vấn đề đòi hỏi không chỉ phải đổi mới mà phải thay đổi tận gốc, từ chiến lược phát triển cho đến cách thực hiện chiến lược. Trong đó việc xây dựng các đại học tiến lên đẳng cấp quốc tế đang gặp nhiều khó khăn, lúng túng, trước hết là về quan niệm. Nếu không kịp thời khắc phục thì căn bệnh thành tich phô trương cộng với tính vô trách nhiệm ở đây sẽ gây lãng phí lớn, làm chậm lại thay vì thúc đẩy quá trình tiến lên hiện đại theo tinh thần khai sáng.
Thứ tư và cuối cùng nhưng then chốt nhất là chính sách đối với đội ngũ giáo chức. Không có khâu quản lý nào thể hiện rõ hơn quyết tâm chấn hưng giáo dục bằng chính sách đối với thầy giáo. Thế nhưng hiếm có nơi nào trên thế giới và cũng hiếm có thời nào trên đất nước ta người thầy mặc dù bị đối xử bất công vẫn tận tuỵ gắn bó với nghề như trong mấy chục năm nay. Khi nói điều này không phải tôi không biết những gương xấu trong ngành, những con sâu làm rầu nồi canh. Nhưng tôi nghĩ số đó vẫn là số ít, số ít đáng ngạc nhiên nếu đặt trong hoàn cảnh xã hội và điều kiện làm việc cực kỳ khó khăn của tất cả thầy giáo của ta. Tôi tin rằng với những hoàn cảnh như thế ở các nước khác tình hình giáo dục phải bi đát hơn nhiều. Với chính sách đối với thầy giáo như của ta mà giáo dục còn được như thế này đó thật sự là kỳ công.

Song cái gì cũng có giới hạn, kể cả lòng tự trọng, thiện chí và … lương tâm. Cứ thế này e sẽ đến lúc lương tâm cũng chai lì, chẳng còn ai biết xấu hổ, để cho cái lá nho cuối cùng cũng không giữ nổi thì sẽ mất hết, chẳng còn gì để bàn về giáo dục, văn hoá, khoa học nữa. Tôi cũng hiểu và thông cảm với những khó khăn thực tế liên quan đến tham nhũng. Song có thể nói không quá đáng, kinh nghiệm hơn ba mươi năm qua đã cho thấy hầu hết mọi căn bệnh tàn phá giáo dục đều có nguồn gốc ít nhiều ở cái chính sách bỏ mặc rồi khuyến khich thầy giáo tự bươn chải để kiếm sống mà làm nghề, trong một môi trường đòi hỏi họ phải toàn tâm toàn ý mới làm tôt được nhiệm vụ. Vậy nên giải quyết cái u nầy là điều kiện tiên quyết mở đường cho giáo dục (và khoa học) thật sự trở thành quôc sách hàng đầu. Tuy nhiên cũng phải cắt u một cách an toàn vì nếu làm không minh bạch đường hoàng như hiện nay thì chỉ gây thêm hỗn loạn, cũng rất nguy hiểm.

Để kết thúc, xin bày tỏ niềm tin cải cách giáo dục mạnh mẽ, toàn diện, triệt để là giải pháp cứu nguy cho giáo dục, cũng là cứu nguy cho phẩm chất Việt Nam khi còn chưa quá trễ.
Và một lần nữa xin trân trọng cám ơn Quỹ Văn Hoá Phan Châu Trinh.

Hoàng Tụy


Giáo sư Hoàng Tuỵ
Ngày 21.03.2011, 08:02 (GMT+7)

SGTT.VN - Bởi những “đóng góp xuất sắc trong lĩnh vực giáo dục, góp phần phát triển nền giáo dục nước nhà”, giải thưởng Phan Chu Trinh năm nay tôn vinh một tên tuổi đã đi vào lịch sử toán học thế giới với biệt danh “cha đẻ của lý thuyết tối ưu toàn cục”… Ông cũng là người đóng vai trò quan trọng trong lĩnh vực này ngay từ cuộc cải cách giáo dục đầu tiên của nền giáo dục cách mạng. Đó là GS Hoàng Tuỵ – người tự thấy mình “nhiều duyên nợ với giáo dục”.

Giáo sư rất vui khi biết sẽ được trao giải thưởng Phan Chu Trinh?

Giáo sư Hoàng Tuỵ  :  Tôi thấy thật là vinh dự khi mình là một nhà khoa học bình thường đã được nhận giải thưởng Phan Chu Trinh cao quý. Vinh dự lớn còn bởi đây không phải giải thưởng hay huân chương trong hệ thống hành chính nhà nước mà là giải được trao từ một tổ chức xã hội công dân, với ý nghĩa cao quý thúc đẩy sự nghiệp văn hoá giáo dục của nước nhà theo tinh thần khai sáng của nhà ái quốc vĩ đại. Vì cao quý nên giải thưởng đó không cần phải ồn ào.

Sáu anh em ông đều là giáo sư nổi tiếng: cùng với ông là GS Hoàng Hỷ, Hoàng Phê, Hoàng Quý, Hoàng Kiệt, Hoàng Chúng. Nếp nhà đó đã được xây cất bởi những “viên gạch” nào, thưa ông?
Giáo sư Hoàng Tuỵ  :  Cố nội tôi chỉ là thường dân, nhà rất nghèo, nhưng cả năm người con của ông đều học giỏi và đỗ đạt. Ông nội tôi đỗ cử nhân, từng giữ chức án sát, sau đó cáo quan về nuôi mẹ để giữ chữ hiếu. Tổng đốc thành Hà Nội Hoàng Diệu là ông chú tôi, đỗ phó bảng. Khi ông Diệu tuẫn tiết, vợ ông đưa ông ra đồng chôn, như một thường dân. Thời Pháp thuộc, các thế hệ trong gia đình tôi vẫn duy trì nho học, học theo kiểu cựu học, rồi ra làm quan, như bố tôi, ông là một tri huyện trước khi về hưu.
Có thể nói, nếp nhà chúng tôi, chuộng chữ nghĩa và ưa sống thanh bạch. Được tiếng là liêm khiết. Làm quan thì được cấp lương và đất, đời sống có dễ dàng hơn thứ dân. Nhưng không nghe nói chuyện hối lộ, nhũng nhiễu gì.
Trừ anh cả tôi được đi học khi bố còn làm quan và tiền có được chỉ đủ nuôi anh, còn lại mấy anh em tôi đều học hành trong điều kiện khó khăn hơn. Thường thì cha mẹ nuôi anh cả học hành, anh cả sau đó có nhiệm vụ nuôi các em ăn học tiếp. Nhưng rồi khi anh cả tôi ra trường đi làm, do tham gia các phong trào yêu nước của ông Phan Chu Trinh, Phan Bội Châu, tham gia hoạt động trong tổ chức Thanh niên cách mạng đồng chí hội, đã bị Pháp đuổi ra khỏi ngành, phải vào Sài Gòn rồi Huế dạy tư. Vào lúc anh tôi mất việc, cũng là khi bố tôi bệnh nặng và ra đi. Thuốc thang, nợ nần nhiều. Có anh trên tôi phải bỏ học đi làm thêm. Em út Hoàng Chúng còn trong bụng mẹ. Tôi mới bốn tuổi, ốm đau liên miên. Mẹ tôi cứ tưởng không nuôi nổi tôi. Khi tôi lên sáu, theo anh trai Hoàng Hỷ vào Nha Trang, anh là hiệu trưởng một trường tiểu học, nhưng chỉ nuôi tôi được sáu – bảy tháng thì anh cạn tiền, mẹ tôi lại đưa tôi và anh Hoàng Quý vào Sài Gòn ở với anh cả. Mấy năm sau chúng tôi lại trở về quê với mẹ.
Cũng như nhiều người đàn bà khác trong họ, chồng làm quan nhưng vợ vẫn giữ nghề tằm tang, mẹ tôi sau đó may mắn làm ăn phát đạt được với nghề này để nuôi chúng tôi ăn học dễ dàng hơn.
Tôi luôn dạy các con cháu noi gương truyền thống gia đình thông qua sáu chữ: trung thực, nhân ái và lao động. Thực hiện được sáu chữ ấy không dễ và không phải ai cũng có thể làm được hết. Nhưng dẫu thế thì vẫn phải cố gắng thôi.

Và tiếp đến là giai đoạn vươn lên không ngừng trong sự học của cậu bé nghèo mồ côi cha?
Giáo sư Hoàng Tuỵ  :  Khi tôi học đến đệ nhị cao đẳng tiểu học (tương đương cấp 2 bây giờ), thì bị ốm nặng tưởng không cứu được. Một chân và một tay liệt hẳn. May nhờ một ông lang châm cứu mà khỏi bệnh. Bây giờ nghiệm lại, chính cái năm bị bệnh nằm nhà đó lại là năm có ý nghĩa nhất. Vì trong nhà có các anh đi học và đi dạy, sách vở nhiều nên tôi thoải mái đọc. Khả năng tự học được xuất phát và rèn luyện từ đó. Tôi tự học toán, rồi tự học chữ nho.
Tôi có một người cháu nhiều hơn tôi một tuổi, con bà chị cả, người được biết nhiều với cái tên Bùi Giáng thi sĩ, tư cách cũng rất độc đáo. Năm đó, nghỉ hè thì Giáng về. Chúng tôi cùng đọc truyện và trao đổi. Việc đó giúp ích tôi rất nhiều… Năm sau, khi trở lại trường học, tôi học đạt loại xuất sắc luôn, và giành được học bổng toàn phần.
20 tuổi làm thầy, 26 tuổi tham gia cuộc cải cách giáo dục đầu tiên của nền giáo dục cách mạng non trẻ với tư cách chủ biên. Từ bấy đến giờ, đã 60 năm trôi qua, hầu như chưa lúc nào ông xa rời nghề dạy học – vốn là một trong hai nghề truyền thống của gia đình...
Khi Nhật đảo chính, tôi về quê, tham gia cách mạng Tháng tám và hoạt động ở địa phương một thời gian. Sau nghe tin trường Quốc học mở lại lớp tú tài năm ba, tôi lại ra Huế tự ôn thi, như một thí sinh tự do, và đỗ đầu khi thi vào. Rồi tôi ra Hà Nội học, dạy tư kiếm tiền. Được một tháng, chiến tranh xảy ra, tôi quay về khu Năm, đi kháng chiến, dạy học ở trường trung học Lê Khiết. Đây là ngôi trường sản sinh ra rất nhiều nhà văn, nhạc sĩ, giáo sư, nhà hoạt động chính trị… Đang dạy, hay tin GS Lê Văn Thiêm về nước, mở trường đại học ở Việt Bắc, tôi đã khăn gói đi bộ ba tháng trời từ Quảng Ngãi ra Việt Bắc tìm thầy, rồi sang Nam Ninh (Trung Quốc) dạy trung cấp vì ông Thiêm đã sang bên đó… Ông Thiêm là thần tượng của tôi.
Sau hiệp định Geneve, bộ Giáo dục gọi tôi về chuẩn bị làm cải cách giáo dục ở Việt Bắc, thống nhất chương trình đào tạo phổ thông mười năm. Bấy giờ ở vùng tự do chỉ dạy hệ chín năm còn ở vùng giải phóng dạy hệ 12 năm. Tuy giữ cương vị chủ biên, nhưng tôi mới 26 tuổi. Chính sách cán bộ hồi đó, không ngại giao việc trọng cho người trẻ. Trong nhóm tôi, toàn các “cây đa cây đề”: cụ Lê Thước, cụ Hoàng Ngọc Phách, GS Trương Chính, GS Huỳnh Lý, GS Lê Trí Viễn, anh trai tôi là Hoàng Hỷ…
Về sau, ngành giáo dục tiếp tục thực thi nhiều cuộc cải cách song dường như vẫn chưa tìm được tiếng nói chung.

Có lúc nào giáo sư nghĩ đến việc “bỏ cuộc” trong hành trình phản biện kiên trì, không mệt mỏi của ông đối với những vấn đề cải cách giáo dục mà ông cho là không hiệu quả?
Giáo sư Hoàng Tuỵ  :  Từ “phản biện” mà bây giờ chúng ta hay nói, tôi đã dùng rất sớm tại khoa toán của trường ĐH Tổng hợp, khi bắt đầu hình thành các hình thức đào tạo đổi mới như tổ chức seminar, tổ chức các hội đồng bảo vệ luận án… Về những đóng góp ý kiến cho giáo dục, tôi thường nhấn mạnh: trung thực, sáng tạo. Phải có tự do tư tưởng, cởi mở với cái mới, độc lập trong suy nghĩ và có tư duy phê phán; tư duy mà theo đường ray sẵn có thì không bao giờ có được sự sáng tạo. Lúc này lối ra duy nhất cho giáo dục là cải tạo cấu trúc, xây dựng lại từ gốc, thay đổi cả thiết kế hệ thống. Chỉ có như vậy mới mong cứu giáo dục thoát ra khỏi khủng hoảng triền miên. Cải cách giáo dục cần phải gắn liền với thay đổi tư duy – đây là vấn đề mà tôi không bỏ cuộc và vẫn kiên trì cho đến lúc này. Tôi nhận thấy mọi sai lầm, bê bối trong giáo dục, đều do không tôn trọng vấn đề đó.
Không chỉ đắm đuối với chuyên môn, giáo sư từ rất sớm đã chú ý và dành nhiều tâm huyết cho công tác đào tạo…
Khi giữ chức chủ nhiệm khoa toán từ năm 1959 đến năm 1968, tôi có đề xuất áp dụng vận trù học, hàng nghìn người tham gia. Giữa thời điểm chiến tranh mà ta có được những thành tựu đáng tự hào về vận trù học, ở Mỹ vận trù học mới ra đời hai năm mà ở ta đã áp dụng, có phóng viên nước ngoài phải kính phục và đưa chuyện đó lên báo Pháp.
Về toán học, thời điểm ấy ta đạt tới trình độ mà một nhà toán học đỉnh cao của thế kỷ 20 đã rất ngạc nhiên. Có được những kết quả đó, là vì anh em làm khoa học chúng tôi đã phải làm việc trong một điều kiện khó khăn ít ai biết được. Đơn giản là lúc đó chúng tôi đã có chủ trương: nghiêm túc trong giảng dạy và học tập; gửi người đủ trình độ đi nước ngoài đào tạo; giao việc trong khoa phải khách quan; chú trọng tài năng của mỗi người; không khắt khe vấn đề lý lịch… Rồi sau vài năm được cho mở lớp toán đặc biệt, học bổng 20 đồng/tháng cấp cho học sinh, lại bị cho là không chú trọng công nông… Đây là một thời kỳ đầy cay đắng trong cuộc đời làm khoa học của tôi.

Giáo sư nghĩ gì về vai trò của giáo dục trong bối cảnh nước nhà đang phải đối mặt với nhiều thách thức về kinh tế, xã hội như hiện nay?
Giáo sư Hoàng Tuỵ  :  Tôi thường suy ngẫm về nghề nghiệp của mình – đó là những suy ngẫm từ vị trí công dân một nước nghèo, lạc hậu, khát khao mau chóng đuổi kịp nhân loại. Tôi được học, được làm việc và đi nhiều, từ đó được mở rộng tầm mắt và có cách nhìn hệ thống đối với các vấn đề của đất nước, không riêng giáo dục mà cả kinh tế, văn hoá, xã hội. Những tư tưởng, quan điểm của tôi về các vấn đề đó ngay từ đầu đã ít nhiều có tính hệ thống và nhất quán, mà không tuỳ hứng, tuỳ tiện, tuỳ thời.
Hiện nay, dù kinh tế có khó khăn bức bách bao nhiêu, cũng không cho phép chúng ta một phút được lơ là với các vấn đề của giáo dục. Chừng nào giáo dục còn yếu kém tụt hậu như hiện nay thì dẫu cho tăng trưởng kinh tế giữ được tốc độ 7 – 8%, thậm chí 10% chăng nữa, đất nước vẫn mãi mãi lẹt đẹt sau thiên hạ. Tôi muốn nhắc lại điều mà tôi đã từng nói nhiều lần: chỗ nghẽn lớn nhất trong phát triển hiện nay của xã hội ta là giáo dục!
Đối xử với người tài cũng là một vấn đề yếu kém của Việt Nam. Yếu kém đó bộc lộ rõ nhất trong vài ba chục năm nay, vào đúng thời kỳ kinh tế tri thức – kinh tế tài năng. Không phải cứ đất nước nào đông dân, giàu tài nguyên, sẽ sớm giàu mạnh mà giàu mạnh chỉ thuộc về đất nước nào biết coi trọng đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng tài năng. Một dân tộc, lớp trẻ kém hơn cha ông, đó là bi kịch. Tôi lo rằng giáo dục yếu kém không đủ hấp dẫn đã và sẽ tiếp tục làm gia tăng hiện tượng “chạy trốn giáo dục trong nước” bằng du học nước ngoài hoặc du học tại chỗ…
Trung thực trong giáo dục những năm qua được đề cập đến một cách khá ráo riết, quyết liệt bằng rất nhiều tuyên bố với từ “không”, nhưng dường như vẫn chưa đủ…
Chúng ta không thể sa lầy mãi với “hai không”, “ba không” hay “năm không”; khẩu hiệu chống tiêu cực trong thi cử được đề ra mấy năm trước là rất mâu thuẫn vì thực tế quá nhiều tiêu cực: thi cử thì đầy phao, quay cóp, rồi bệnh thành tích…; xã hội thì tham nhũng tràn lan và các gia đình ít nhiều đều dính dáng, thế nên cả phụ huynh lẫn học sinh đã dần dà thấy chuyện đó cũng bình thường, không còn là chuyện đạo đức nghiêm trọng… Nên thấy rõ là tiêu cực nhất trong thi cử không chỉ là quay cóp. Đó chỉ là bề mặt!

Cả đời dạy học, giáo sư nghĩ như thế nào về chữ “nghèo” ?
Giáo sư Hoàng Tuỵ  :  Người ta không chỉ nghèo hay giàu bởi đồng tiền!

Thưa giáo sư, còn chữ “danh”?
Giáo sư Hoàng Tuỵ  :  Tôi thấy có một nghịch lý ở đời: người nào háo danh, ắt danh sẽ không tới. Chúng ta có khá nhiều viện sĩ này, viện sĩ nọ… nhưng theo tôi biết, đó chỉ là danh dỏm, là hình thức. GS Lê Văn Thiêm – thần tượng của tôi – có là nhà giáo ưu tú hay nhà giáo nhân dân gì đâu!

Cảm ơn và chúc mừng giáo sư!

thực hiện: Kim Hoa
chân dung hội hoạ: Hoàng Tường
---------------------------------------------




.
.
.

No comments: