(Viện chính trị và an ninh quốc tế Đức)
Đăng bởi anhbasam on 17/03/2011
THÔNG TẤN XÃ VIỆT NAM
Tài liệu tham khảo đặc biệt
Thứ Tư, ngày 16/03/2011
TTXVN (Béclin 7/3)
Những sự cố gia tăng và việc làm sống lại nhận thức về mối đe doạ quân sự đang phát ra tín hiệu về một sự biến chuyển tình hình an ninh ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Trong khi Mỹ đang tìm cách xác lập lại vị trí của mình ở khu vực này, thì Bắc Kinh đã nhiều lần bị lôi kéo vào việc thể hiện sức mạnh quân sự, nhất là khi họ cho rằng sự toàn vẹn lãnh thổ của mình bị đe doạ. Nhằm bảo đảm sự ổn định lâu dài trong khu vực, cần thiết phải có một trật tự an ninh mới trên cơ sở cơ chế đa phương. Điều này chỉ có thể do Mỹ cùng với Trung Quốc tổ chức.
Tình hình an ninh ở châu Á – Thái Bình Dương đã trở nên căng thẳng rõ rệt trong năm 2010. Trong những tháng qua ngày càng hay xuất hiện sự khiêu khích lẫn nhau giữa Trung Quốc và các nước trong khu vực như Nhật Bản, Mỹ và Việt Nam. Gần đây nhất lại nổi lên sự tranh cãi Trung – Nhật về đòi hỏi chủ quyền lãnh thổ đối với quần đảo Senkaku/Đảo Điếu Ngư ở biển Hoa Đông. Ngược lại, sự đối đầu giữa Trung Quốc và Mỹ không phải xoay quanh những vấn đề lãnh thổ chưa được giải quyết hoặc tiềm năng đe doạ thực sự. Chính vai trò ngày càng không rõ ràng của Mỹ và sự vươn lên về quân sự của Trung Quốc đã tạo ra sự không chắc chắn lớn về an ninh khu vực. Những nước cờ chiến thuật của Mỹ, qua đó họ tìm cách xác lập lại vai trò chiến lược của mình trong khu vực, đã làm bất ổn thêm trật tự an ninh về cơ bản dựa vào sự cân bằng quân sự vốn đã hay thay đổi.
Vòng xoáy xung đột hay việc xác lập lại vị trí chiến lược
Những sự cố lặp đi lặp lại ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương và những tranh cãi ngoại giao về những vấn đề tranh cãi lãnh thổ nhiều năm trời có thể được hiểu là sự khởi đầu của một vòng xoáy xung đột mới. Nhưng nếu người ta phân tích về bối cảnh sẽ lại tạo ra một hoạt cảnh khác. Khuynh hướng hiện nay trong tương quan an ninh Đông Á ám chỉ một sự xác lập lại vị trí chiến lược của Mỹ. Đi trước việc này là một loạt sự phát triển làm thay đổi trật tự an ninh hiện hành, tình trạng khu vực và qua đó cũng làm thay đổi vai trò của các nhân vật như Trung Quốc và Mỹ. Yếu tố gây tác động quan trọng nhất ở đây là sự hoà hoãn ở eo biển Đài Loan, việc hiện đại hoá quân sự của Trung Quốc cũng như sự nhận thức về khu vực của Mỹ ở Đông Á.
Đứng trước việc thiếu những sáng kiến ngoại giao lâu dài thì sự đối đầu là triệu chứng của việc thiếu một cơ cấu an ninh đa phương. Các nước trong vùng đặt cược vào việc xích lại gần nhau thông qua cơ chế đối thoại không ràng buộc, ví dụ với sự trợ giúp của các hình thức đa phương như Diễn đàn Khu vực ASEAN (ARF). Nhưng với chiến lược này, họ không có ảnh hưởng tới các điểm nóng như Đài Loan hoặc Bắc Triều Tiên. An ninh khu vực ở vùng châu Á – Thái Bình Dương được xác định bởi sự cân bằng lực lượng quân sự. Nhưng vì Mỹ cũng tranh giành vị trí chi phối của mình trong khu vực nên thường xuất hiện căng thẳng giữa Bắc Kinh và Oasinhtơn. Ví dụ, trong tháng 6/2010, Hàn Quốc và Mỹ công bố một cuộc tập trận hải quân chung ở Hoàng Hải. Qua đó, họ đáp lại cuộc tấn công bằng ngư lôi của Bắc Triều Tiên vào chiếc tàu hộ tống Cheonan của Hàn Quốc. Sau đó, Bắc Kinh phản đối sự hiện diện của Mỹ ở khu vực. Giữa Trung Quốc và Nhật Bản cũng nhiều lần xảy ra các cuộc chiến ngoại giao, sau khi một tàu đánh cá Trung Quốc đâm vào một tàu tuần tiễu của Hải quân Nhật Bản vào tháng 9/2010.
Tại vùng biển Hoa Nam (biển Đông) trong những năm qua thỉnh thoảng cũng xảy ra va chạm giữa hải quân Trung Quốc và Mỹ. Tại Hội nghị thượng đỉnh ARF diễn ra ở Hà Nội, ngày 23/7/2010, Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton tuyên bố, việc đi lại tự do vào vùng biển này là lợi ích quốc gia của Mỹ và như vậy đã thực hiện một bước đi bất ngờ. Ngay từ những năm 1930, Trung Quốc đã đòi hỏi gần như toàn bộ vùng biển này. Về mặt chính thức, Oasinhtơn lập luận cho bước đi của mình là sự xuất hiện ngày càng tự tin về mặt quân sự của Trung Quốc và phát biểu của những chính khách đối ngoại quan trọng của Trung Quốc như uỷ viên Quốc vụ viện Đới Bỉnh Quốc nói rằng biển Hoa Nam là lợi ích sống còn đối với Trung Quốc và đòi hỏi chủ quyền lãnh thổ của Trung Quốc đối với khu vực này là không thể chối cãi được.
Với lời kêu gọi các nước trong vùng nên giải quyết hoà bình những tranh chấp lãnh thổ và phù hợp với những thoả thuận quốc tế, bà Clintơn đã phớt lờ những nỗ lực hiện có và cố tình khiêu khích sự phản ứng của Bắc Kinh. Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Dương Khiết Trì cảnh báo Mỹ chở nên can thiệp vào những cuộc xung đột hiện có hoặc thậm chí quốc tế hoá những cuộc xung đột này. Trung Quốc sẽ dẹp bỏ những bất đồng chỉ thông qua những cuộc đối thoại và đàm phán với những nước liên quan. Ngày 26/7/2010, trong một cuộc tập trận trên biển, hải quân Trung Quốc đã thể hiện sức mạnh của mình được cải thiện thông qua quá trình hiện đại hoá.
Trên thực tế, trong quá khứ Trung Quốc đã thử tìm ra những giải pháp cho các cuộc xung đột lãnh thổ ở nhiều cấp ngoại giao. Họ đưa ra những sáng kiến để xây dựng lòng tin ở các nước láng giềng và trên cơ sở Hiệp định thương mại tự do với tất cả các nước ASEAN là động lực cho sự hội nhập kinh tế khu vực. Bắc Kinh sử dụng những diễn đàn ngoại giao như ASEAN +3, ARF và Hội nghị cấp cao Đông Á (EAS), để chấm dứt những tranh cãi về lãnh thổ. Ví dụ như năm 2002, các nước ASEAN và Trung Quốc đã ký một Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở biển Đông. Những Quy tắc ứng xử này cần góp phần dẹp bỏ những tranh cãi ở biển Hoa Nam (biển Đông).
Theo Công ước Liên hợp quốc về Luật biển (UNCLOS), Trung Quốc đã cùng với Hàn Quốc và Nhật Bản đưa ra những thoả thuận về quy định tạm thời đối với quyền đánh cá, khi mà Khu vực đặc quyền kinh tế (EEZ) chưa được áp dụng. Thêm vào đó, tất cả các bên đã nhiều lần cố gắng tạo ra những khu vực phát triển chung để khai thác tài nguyên. Nhưng điểm tranh cãi vẫn tồn tại là chủ quyền đối với những hòn đảo ở biển Hoàng Hải. Nhật Bản đòi hỏi một khu vực 200 hải lý theo những quy định của EEZ, trong khi Trung Quốc viện cớ vào HIệp định Giơnevơ và chỉ muốn chấp nhận một khu vực 12 hải lý.
Những nước liên quan ở Đông Bắc Á và Đông Nam Á đã liên tục tìm cách giải quyết các xung đột bằng ngoại giao. Với chính sách can thiệp của mình, Mỹ gây ra ấn tượng là họ muốn sử dụng sự căng thẳng này làm công cụ để tăng cường ảnh hưởng của mình ở trong vùng.
Chính sách Đông Á mới của Mỹ?
Năm 2009, Chính phủ Mỹ dưới thời Tổng thống Obama đã công bố một chính sách châu Á mới, hợp tác và một sự hợp tác chặt chẽ hơn với Trung Quốc. Trên bình diện đa phương, Mỹ khẳng định sự khởi đầu mới của mình, ít nhất mang tính tượng trưng, với việc ký Thoả thuận cơ bản của các nước ASEAN vào tháng 7/2009. Tháng 7/2010, Mỹ gia nhập EAS. Nhưng sau 2 năm, những ý kiến thất vọng ngày càng tăng trong Chính quyền Obama, cho rằng kế hoạch mới này là sai lầm. Tuy nhiên, một đánh giá như vậy là quá sớm. Chính sách đối ngoại mới phải tiếp quản một di sản nặng nề và phải đối đầu với một số thay đổi trong khu vực.
Một là, trong nhiệm kỳ của Bush, nhận thức được phổ biến ở Đông Nam Á là Mỹ muốn hạn chế những hoạt động của mình với tư cách là cường quốc giữ gìn trật tự trong vùng. Việc thiếu vắng sự hiện diện trong những diễn đàn khu vực và những đòi hỏi do các cuộc chiến tranh ở Irắc và Ápganixtan đã củng cố cho nhận định đó. Oasinhtơn đã không thành công trong việc sửa chữa nhận thức này và xuất hiện một cách rõ rệt hơn, cho dù Kurt Campbell, Trợ lý Ngoại trưởng phụ trách khu vực Đông Á và Thái Bình Dương Bộ Ngoại giao Mỹ nhấn mạnh rằng Mỹ không rút khỏi khu vực này vào bất kỳ thời điểm nào và vẫn là một cường quốc thường xuyên ở châu Á.
Hai là, sự xích lại gần nhau và sự hoà dịu về quân sự trong vấn đề Đài Loan đã ảnh hưởng tới lý do tồn tại chiến lược của Mỹ với tư cách là cường quốc bảo vệ và giữ gìn trật tự ở Đông Á.
Ba là, triển vọng chiến lược quân sự của Mỹ đã thay đổi trên cơ sở một loạt chiều hướng thay đổi. Vào thời kỳ của hệ thống gọi là trung chuyển khu vực ở trong vùng, Mỹ đã có thể tin tưởng dựa vào các đối tác trong khu vực Thái Bình Dương là Nhật Bản, Hàn Quốc, Ôxtrâylia và Ấn Độ. Hệ thống trên thực tế nhằm kiềm chế Trung Quốc này đã tồn tại. Lý do là sự phụ thuộc kinh tế lẫn nhau của từng nước với Trung Quốc và có những lúc không có sự chắc chắn về tương lai các căn cứ quân sự của Mỹ ở Nhật Bản. Về mặt địa chiến lược, Mỹ đã bị đẩy ra cái gọi là chuỗi đảo thứ hai, một đường phòng thủ giữa Nhật Bản, Guam và Inđônêxia, do việc tăng cường trang bị cho hải quân Trung Quốc, ban đầu nhằm vào khả năng chống xâm nhập khu vực.
Đứng trước sự phát triển được mô tả ở trên, Mỹ chỉ còn ít khả năng để lập lại vị trí chi phối trước đây của mình ở Đông Á. Do Oasinhtơn mất dần ảnh hưởng ở đó, nên có sự can thiệp muộn màng vào các cuộc xung đột lãnh thổ lâu năm và Mỹ tìm cách lôi kéo các nước về phía mình dựa trên cơ sở sự hoài nghi với Trung Quốc. Cả Mỹ và Hàn Quốc cũng khơi dậy sự căng thẳng trên bán đảo Bắc Triều Tiên sau sự cố Yeonpyeong và sử dụng nó để thuyết phục Bắc Kinh tăng cường sức ép với Bắc Triều Tiên.
Mặc dù Mỹ tìm cách xác lập lại vị trí chiến lược của mình dựa trên những lò lửa khủng hoảng cấp tính (Bắc Triều Tiên) hoặc tiềm năng (xung đột lãnh thổ), nhưng họ vẫn không đáng tin cậy là một nhân vật hợp tác, đa phương ở Đông Á. Ngoài ra, Mỹ phải xem xét lại quan điểm về trách nhiệm. Cho tới nay, điều này có nghĩa là Bắc Kinh phải hành động theo đường hướng của Oasinhtơn. Nhưng nếu như người Mỹ đã hối thúc Trung Quốc tăng cường hoạt động với tư cách là một cường quốc giữ gìn trật tự khu vực, họ cũng phải chấp nhận là không gian hành động của Trung Quốc gia tăng và của Mỹ co lại.
Cường quốc giữ gìn trật tự Trung Quốc?
Hành động về chính sách an ninh của Bắc Kinh được xác định rõ và đi theo hai mục tiêu chiến lược chính: Phòng thủ hiện trạng lãnh thổ trong những khu vực gây tranh cãi và bảo đảm sự ổn định ở khu vực láng giềng. Trong những năm qua có thêm việc bảo vệ đường giao thông và đấu tranh chống những nguy cơ an ninh phi truyền thống. Học thuyết quốc phòng của Trung Quốc không có việc tự định nghĩa là cường quốc giữ gìn trật tự khu vực, cũng như định hướng chiến lược lớn về một sự cân bằng lực lượng của các cường quốc khu vực ở Đông Á vượt qua sự răn đe hạt nhân phòng thủ.
Về mặt chiến lược, khả năng quân sự của Trung Quốc cho tới nay nhằm vào việc khẳng định sự toàn vẹn lãnh thổ, mà từ góc độ Bắc Kinh, việc phòng thủ nó là bộ phận cơ bản của nhiệm vụ quốc gia đại sự. Sự thể hiện sức mạnh chỉ diễn ra, khi đòi hỏi chủ quyền bị đặt thành câu hỏi nghi vấn trong cũng như ngoài nước. Nhìn chung, học thuyết an ninh của Trung Quốc giới hạn vào những lợi ích riêng trực tiếp về chính sách an ninh, không gắn với một chiến lược khu vực.
Phù hợp với điều đó, mối quan tâm tới sự ổn định ở khu vực láng giềng Đông Á cũng được theo đuổi với chiến lược phi quân sự. Ngoại giao đa phương trong khuôn khổ các diễn đàn khu vực thường phục vụ cho Trung Quốc mở đường cho ngoại giao song phương và dẹp bỏ tranh cãi. Ngoài ra, Trung Quốc tìm cách xây dựng lòng tin ở các nước khác, bằng cách mời chào những mối quan hệ kinh tế có lợi và hỗ trợ về cơ cấu.
Với việc hiện đại háo và tăng cường trang bị quân sự của Trung Quốc, có thể hy vọng là việc thể hiện sức mạnh cũng sẽ trở thành một phương tiện trong chính sách an ninh của Trung Quốc. Trung Quốc vẫn chưa muốn là cường quốc giữ gìn trật tự. Tuy nhiên, từ góc độ một số chính phủ Đông Nam Á, họ đã là một cường quốc khu vực, khó mà ràng buộc về ngoại giao. Đồng thời, ở Bắc Kinh người ta cũng ý thức được rằng khả năng Mỹ xuất hiện với tư cách cường quốc giữ gìn trật tự khu vực sẽ giảm và chưa có trong tay một sự lựa chọn nào khác.
Một cơ cấu an ninh khu vực chung
Cho tới nay, Trung Quốc và Mỹ đối lập với nhau với những chính sách an ninh chiến lược khác nhau. Đối với Mỹ, Trung Quốc là đối thủ chính về chiến lược quân sự ở Đông Á. Ngược lại, Bắc Kinh tiếp tục chỉ tập trung vào việc bảo về những lợi ích lãnh thổ cơ bản của mình. Trên thực tế, Trung Quốc chỉ có thể là đối thủ địa chiến lược của Mỹ, khi tiềm năng xung đột lẫn nhau còn tồn tại. Sau khi xung đột chính ở eo biển Đài Loan từng bước lắng dịu, sự thù địch chiến lược chỉ có thể châm ngòi trên những lĩnh vực căng thẳng mới. Đó là một thách thức lớn đối với các nước và sự ổn định trong vùng. Ngay ở Đông Bắc Á có nguy cơ leo thang, khi chưa có cơ cấu an ninh có thể ràng buộc tất cả các nhân vật về mặt ngoại giao và chống lại những động lực tiếp tục tăng cường vũ trang.
EU và các nước thành viên có thể cần phải chú tâm theo dõi sự phát triển chiến lược khi nhìn vào an ninh ở Đông Á. Bởi vì họ có một lợi ích lâu dài đối với sự ổn định khu vực, đứng trước những hậu quả có thể xảy ra của một sự bất ổn của Đông Á đối với an ninh quốc tế, cũng như trên cơ sở sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế.
Việc khuyến khích một cơ cấu an ninh đa phương phải là một mong muốn cấp thiết của người châu Âu. Bên cạnh việc tăng cường ngoại giao của ARF và việc xây dựng lòng tin khu vực, châu Âu cần thúc ép những nhân vật chính là Trung Quốc và Mỹ, tăng cường hoạt động cho một cơ cấu an ninh như vậy. Sự căng thẳng hiện nay là một cơ hội phù hợp cho một bước đi như vậy.
*
*
TTXVN (Hồng Công 5/3)
Trang web Đa Chiều ngày 3/3 đăng bài của Phó Giáo sư Alexei Pilko thuộc Học viện Chính sách Thế giới, Đại học Quốc lập Mátxcơva (Nga) cho biết cùng với sự cải thiện trong quan hệ giữa hai bờ eo biển Đài Loan, các học giả Mỹ bắt đầu chỉ trích việc Chính phủ Mỹ coi nhẹ quan hệ với Đài Loan. Mỹ rất nhạy cảm đối với sự phát triển trong quan hệ giữa hai bờ eo biểu Đài Loan, tìm mọi cách để ngăn cản hoặc đẩy lùi việc Đài Loan trở về Đại lục. Trong khi đó, điểm then chốt nhất trong việc giải quyết vấn đề Đài Loan giữa Trung Quốc và Mỹ lại nằm ở bán đảo Bắc Triều Tiên. Đáp án mà người Trung Quốc có thể tìm thấy để giải quyết vấn đề Đài Loan chính là việc tìm kiếm khả năng tiến hành trao đổi chiến lược với Mỹ: Dùng “lập trường Bắc Triều Tiên” đổi lấy “sự trở về của Đài Loan”.
Pilko cho rằng từ sau Chiến tranh Thế giới thứ II tới nay, tất cả những sự răn đe mà Mỹ tạo ra ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương luôn nhằm tới việc hạn chế phạm vi và sức ảnh hưởng của thế lực Trung Quốc. Tuy nhiên, sự phát triển về kinh tế của Trung Quốc đang dần chuyển hoá thành thực lực quân sự, bắt đầu gây khó khăn và tạo ra áp lực đối với Mỹ mà những khó khăn và áp lực này sẽ ngày một lớn. Hơn nữa, chiến lược của Mỹ ở châu Á – Thái Bình Dương không có lợi cho lợi ích của Trung Quốc tại khu vực này, khiến quân đi Trung Quốc cảm thấy tức giận trước sự kiềm toả của Mỹ.
Trong khi đó, Đài Loan hiện là khâu yếu nhất trong chiến lược răn đe của Mỹ ở châu Á – Thái Bình Dương và việc Đài Loan trở về Đại lục sẽ mở ra cánh cửa tự do ra vào vùng biển châu Á – Thái Bình Dương của Trung Quốc. Ngoài ra, sự trở về của Đài Loan không chỉ có ý nghĩa về mặt chiến lược và quân sự, mà còn rất quan trọng đối với Trung Quốc trên phương diện kinh tế và chính trị. Bởi cùng với sự trở về của Đài Loan, kho dự trữ ngoại tệ và vàng của Trung Quốc sẽ lớn thêm, giúp Trung Quốc tăng cường hơn nữa vai trò của mình trong nền kinh tế thế giới. Đồng thời, việc Đài Loan trở về dưới sự bảo hộ của Trung Quốc cũng có nghĩa Trung Quốc có thể cùng Đài Loan thảo luận thực hiện những mục tiêu lịch sử quan trọng và đưa ra sự bảo đảm về lợi ích chính trị quan trọng.
Theo Pilko, sở dĩ Trung Quốc biểu thị sự ủng hộ chính thức đối với Bắc Triều Tiên chỉ là mang tính truyền thống, thậm chí còn do thói quen. Tuy nhiên, nếu phát triển vũ khí hạt nhân, Bình Nhưỡng sẽ tạo ra mối đe doạ an ninh lớn nhất đối với Bắc Kinh. Do đó, Trung Quốc có thể lấy Bắc Triều Tiên làm con bài để đàm phán với Mỹ, có thể đồng ý với đề xuất của Mỹ thực hiện chế tài hoặc giữ lập trường trung lập khi Mỹ tiến hành hoạt động quân sự mang tính trừng phạt đối với Bắc Triều Tiên, nhưng là dưới tiền đề “Mỹ đồng ý với sự thống nhất giữa Đài Loan và Đại lục”, phương thức thống nhất nó có thể theo mô hình Hồng Công.
Với Mỹ thì sao? Nước này chắc chắn không muốn nhìn thấy cảnh chiến tranh toàn diện bùng nổ trên bán đảo Triều Tiên, đặc biệt là việc Bắc Triều Tiên có thể quyết định sử dụng vũ khí hạt nhân tấn công Hàn Quốc và Nhật Bản. Nói một cách khác, nếu Bắc Triều Tiên có vũ khí hạt nhân, Nhật Bản và Hàn Quốc khẳng định sẽ không khoanh tay đứng nhìn, học tập Bắc Triều Tiên phát triển vũ khí hạt nhân để bảo vệ bản thân. Việc này không chỉ làm gia tăng căng thẳng chính trị, quân sự ở khu vực Đông Á, mà tới lúc đó về căn bản Mỹ sẽ không còn cơ hội cũng như sức ảnh hưởng trong việc xoay chuyển xu thế tiêu cực này.
Liên quan tới vấn đề này, trang web Đa Chiều cho biết Giáo sư Charles Glaser thuộc Đại học George Washington cũng tuyên bố Mỹ nên vứt bỏ Đài Loan để loại bỏ chướng ngại về lợi ích trong quan hệ Mỹ – Trung và nhằm tránh xảy ra xung đột giữa hai nước. Theo Glaser, Mỹ cần nhận thức được rằng Đài Loan trên thực tế không phải là lợi ích cốt lõi của Mỹ. Đài Loan không giống với các đồng minh quan trọng khác của Mỹ như Nhật Bản và Hàn Quốc. Trước tiên là việc Trung Quốc kiên trì lập trường Đài Loan thuộc chủ quyền nước này và không thể đàm phán. Tiếp đó là việc Oasinhtơn và Bắc Kinh có cái nhìn khác nhau về hiện trạng của Đài Loan. Cho nên, cùng với việc Trung Quốc phát triển năng lực phản kích hạt nhân và thực tế là Trung Quốc và Mỹ không lựa chọn biện pháp ngoại giao để giải quyết vấn đề Đài Loan, rủi ro chiến tranh hạt nhân giữa Mỹ và Trung Quốc sẽ ngày một lớn. Để tránh rơi vào tình thế nguy hiểm, Mỹ chỉ có cách là đưa ra sự điều chỉnh cần thiết, vứt bỏ Đài Loan. Do vậy, lựa chọn duy nhất có thể của Mỹ là đổi lầp trường của mình trong vấn đề Đài Loan lấy lập trường của Trung Quốc trong vấn đề Bắc Triều Tiên.
Tuy nhiên, ở Mỹ, quan điểm của Glaser cũng bị không ít người phê phán. Họ cho rằng việc trao đổi chiến lược nói trên sẽ kích thích tham vọng lãnh thổ của Trung Quốc, có thể trở thành động lực để Bắc Kinh mở rộng hoặc tăng cường lập trường chủ quyền đối với những vùng lãnh thổ liên quan. Trong một bài viết trên tạp chí “Chính sách Ngoại giao” số ra ngày 2/3, chuyên gia về các vấn đề châu Á Daniel Blumenthal cho rằng Mỹ cần xem xét lại chính sách đối với Đài Loan, không thể vứt bỏ Đài Loan bởi việc này sẽ gây bất lợi, cho sự ổn định về địa-chính trị ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương, thậm chí còn tạo ra mối đe doạ đầu tiên đối với Mỹ kể từ sau sự kiện Trân Châu Cảng.
Blumenthal đưa ra ba lý do để bảo vệ quan điểm của mình. Thứ nhất, người dân Đài Loan không muốn sống dưới sự thống trị của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Nếu Đài Loan trở về Trung Quốc, người dân hòn đảo này sẽ bỏ nó mà đi và Đài Loan có thể không còn là một động cơ của kinh tế châu Á nữa. Đặc biệt, nếu khả năng đó xuất hiện, những thế lực kiên trì ủng hộ Đài Loan độc lập sẽ phát triển vũ khí hạt nhân cùng hệ thống vận hành loại vũ khí huỷ diệt hàng loạt này. Thứ hai, nếu Đài Loan rơi vào vòng kiểm soát của Bắc Kinh, Trung Quốc Đại lục sẽ biến Đài Loan thành căn cứ quân sự quan trọng, lấy đó làm bàn đạp để loại bỏ khả năng khống chế chiến lược của Mỹ đối với Trung Hải Nam từ Nhật Bản, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho Trung Quốc mở rộng ảnh hưởng ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Hơn nữa, sau khi kiểm soát được Đài Loan, Trung Quốc sẽ tạo ra mối đe doạ lớn đối với Bộ Chỉ huy châu Á- Thái Bình Dương của Mỹ, nghĩa là đặt Mỹ trước mối đe doạ lớn đầu tiên kể từ sau sự kiện Trân Châu Cảng. Tiếp đó, Trung Quốc có thể can dự vào việc bảo vệ Nhật Bản của Mỹ, vấn đề biển Đông (Trung Quốc gọi là Nam Hải hay biển Nam Trung Hoa)… Thứ ba, chính giới Mỹ vẫn tồn tại mối quan ngại hiện thực đối với Trung Quốc. Cho dù hiện nay các nghị sĩ Mỹ không tập trung thảo luận vấn đề Đài Loan, nhưng việc bãi bỏ Luật Quan hệ với Đài Loan vẫn nhận được sự quan tâm chú ý, có liên quan chặt chẽ tới sự thất vọng của dân chúng Mỹ và những nghị sĩ đại diện lợi ích của họ đối với những vấn đề liên quan đến Trung Quốc như thương mại không công bằng, kiểm soát Internet hay vi phạm nhân quyền…
*
*
TTXVN (Bắc Kinh 13/3)
Trang “China.com.cn” ngày 11/3 đăng bài “Chính sách Trung Quốc của Mỹ không liên quan đến quyết định bổ nhiệm Đại sứ Mỹ tại Trung Quốc là người gốc Hoa” của Từ Vĩnh Thắng, có nội dung như sau:
Ngày 9/3, Tổng thống Mỹ Barack Obama chính thức bổ nhiệm Bộ trưởng Thương mại Lạc Gia Huy (Gary Locke) làm tân Đại sứ Mỹ tại Trung Quốc, thay thế người tiền nhiệm Jon Huntsman xin từ chức và sẽ rời nhiệm sở vào ngày 30/4 tới. Đây là lần đầu tiên một người Mỹ gốc Hoa được bổ nhiệm làm Đại sứ Mỹ tại Bắc Kinh. Theo luật pháp Mỹ, bổ nhiệm này còn phải được thông qua tại Thượng viện, tuy nhiên căn cứ vào tình hình hiện nay, rất ít khả năng Thượng viện phủ quyết đề cử của Obama. Sau khi quyết định bổ nhiệm của Obama được công bố, rất nhiều Nghị sĩ Mỹ đều bày tỏ thái độ hoan nghênh. Cho nên, nếu không có gì đột xuất, người Trung Quốc sẽ lần đầu tiên nghênh đón một vị Đại sứ Mỹ “ruột thịt” làm việc tại quê nhà.
Quyết định bổ nhiệm ông Lạc Gia Huy cho thấy Chính phủ Obama rất coi trọng quan hệ với Trung Quốc, vì trong lịch sử, một vị Bộ trưởng đương nhiệm được bổ nhiệm làm Đại sứ là trường hợp hiếm thấy, hơn nữa Lạc Gia Huy còn là vị Bộ trưởng Thương mại hết sức quan trọng trong chính phủ. Việc bổ nhiệm nhân vật người Mỹ gốc Hoa, cho thấy rõ tham vọng của Obama là khiến người Trung Quốc cảm thấy thân thiết, kéo hai nước xích lại gần nhau hơn, Trên thực tế, Obama cũng không giấu giếm ý đồ trên. Khi tuyên bố quyết định này Obama nói, quan hệ Trung-Mỹ là một trong những cặp quan hệ song phương quan trọng nhất thế kỷ 21, Lạc Gia Huy là người được lựa chọn đúng đắn nhằm tiếp tục thúc đẩy quan hệ hợp tác giữa hai nước.
Dư luận Trung Quốc hết sức kỳ vọng vào quyết định này. Rất nhiều người nghĩ rằng với bối cảnh là người Mỹ gốc Hoa của Lạc Gia Huy sẽ khiến chính sách của Mỹ đối với Trung Quốc ngày càng “thân Trung Quốc” hơn, khi xảy ra rắc rối giữa hai nước, Lạc Gia Huy sẽ biết thông cảm và xử lý với Trung Quốc tốt hơn so với những người tiền nhiệm. Thật ra, đây là cách nghĩ mang đặc tính phương Đông của người Trung Quốc, tuyệt đại đa số người Mỹ trong đó bao gồm cả Lạc Gia Huy đều không nghĩ như vậy. Mặc dù Lạc Gia Huy là Hoa Kiều, nhưng là một chính khách chuyên nghiệp, xử lý tốt mối quan hệ giữa lợi ích quốc gia với bối cảnh huyết thống cá nhân là một đặc tính then chốt buộc phải có của một số người Mỹ gốc Hoa làm chính trị tại Mỹ. Nếu không làm được điều này, chắc chắn Lạc Gia Huy không thể có được vị trí như hiện nay.
Trên thực tế, có nguồn gốc Trung Quốc hoặc am hiểu về Trung Quốc hoàn toàn không ăn khớp với “thân Trung Quốc”. Như trường hợp của cựu Thủ tướng Australia Kevin Rudd là một điển hình về “phái am hiểu Trung Quốc”, không chỉ nói lưu loát tiếng Trung, mà còn có thể kể tên từng địa danh của Trung Quốc. Nhưng chính sách ngoại giao của Ôxtrâylia dưới thời Kevin Rudd đối với Trung Quốc không thể thân thiện và hữu nghị bằng thời của cựu Thủ tướng J. Howard. Không chỉ có vậy, nếu xử lý không tốt, bối cảnh là người gốc Hoa còn có thể trở thành rào cản cho quan hệ hai nước.
Trong lịch sử, dám vượt qua áp lực dư luận, phát triển mang tính đột phá trong quan hệ với Trung Quốc, chính là các chính trị gia thuộc phái bảo thủ. Nixon là một ví dụ điển hình. Đa số người dân Trung Quốc đều cảm thấy thân thiết với cái tên “Nixon”, cho rằng Nixon là người đặt nền móng cho quan hệ Trung -Mỹ. Nhưng trên thực tế, sở dĩ Nixon có thể nổi lên mạnh mẽ trên chính trường Mỹ, chủ yếu do lập trường chống cộng cứng rắn thời kỳ đầu. Chính vì vậy, Nixon căn bản không cần phải lo lắng khi bị chỉ trích “phần tử đỏ hoá”, cho nên mới có dũng khí tiến hành “chuyến đi phá băng” tới Trung Quốc làm thay đổi tiến trình lịch sử trong quan hệ với Trung Quốc. Hy vọng với bối cảnh là người gốc Hoa của Lạc Gia Huy có thể khiến chính sách của Mỹ mềm hoá đối với Trung Quốc, mặc dù chức vụ Đại sứ của Lạc Gia Huy không có quyền lực như vậy, chủ yếu đóng vai trò “mang tính liên kết” truyền đạt thông tin giữa chính phủ hai nước, quyền quyết định chính sách ngoại giao là Tổng thống và chính phủ.
Trên thực tế, lập trường của Lạc Gia Huy trên các vấn đề có liên quan đến Trung Quốc cũng không hề mềm mỏng so với những người tiền nhiệm. Trong buổi chất vấn về chính sách thương mại của Mỹ đối với Trung Quốc tại Quốc hội hồi tháng 6/2010, Lạc Gia Huy tuyên bố cứng rắn rằng “sẽ sử dụng mọi biện pháp để xoá bỏ rào cản thương mại của Trung Quốc”, “trong tình huống đối thoại thất bại, bất cứ thời điểm nào cũng sẽ kiện Trung Quốc lên WTO”. Ngoài ra, tren một số vấn đề khác như tỷ giá đồng nhân dân tệ, mở cửa thị trường, tình trạng vi phạm bản quyền, Lạc Gia Huy cũng bày tỏ lập trường cứng rắn như vậy.
Trên thực tế, việc phát triển quan hệ Trung – Mỹ là do nhu cầu chiến lược tương hỗ của cả hai nước quyết định. Hiện nay, nhu cầu chiến lược tương hỗ của hai nước có xu hướng tiêu trừ lẫn nhau, địa vị của Trung Quốc trong quan hệ Trung-Mỹ cũng ngày càng chủ động tích cực hơn. Trong bối cảnh này, khó có thể hy vọng vấn đề thay đổi nhân sự trong ngoại giao của Mỹ nhằm mục đích cải thiện và phát triển quan hệ hai nước, hy vọng của dư luận Trung Quốc về chính sách “thân Trung Quốc” của Mỹ cũng không có căn cứ hiện thực. Ngược lại, bối cảnh là người gốc Hoa của Lạc Gia Huy lại có lợi cho việc tăng thêm sự thiện cảm và tính hoà hiếu của người dân Trung Quốc đối với Chính phủ Mỹ, từ đó tác động Chính phủ Trung Quốc xây dựng chính sách ngoại giao “thân Mỹ” hơn. Đây chính là một trong những tính toán quan trọng của Obama khi đề cử Lạc Gia Huy làm Đại sứ Mỹ tại Trung Quốc./.
.
.
.
No comments:
Post a Comment