David Dapice, Harvard University
Tqvn2004 chuyển ngữ
Thứ Ba, 22/03/2011
Việt Nam gần đây phá giá đồng tiền của mình xuống còn 21 ngàn đồng ăn một USD. Vào cuối năm 2008, tỷ giá còn là 17 ngàn, một sự suy giảm 24 phần trăm trong khoảng 2 năm. Trên thực tế, tình hình còn tồi tệ hơn bởi tỷ giá đô-la chợ đen là vào khoảng 22 ngàn, và nhiều người cần tiền đô đã phải trả cái giá đó. Nếu dùng tỷ giá chợ đen thì giá trị đồng Việt Nam giảm gần 30 phần trăm so với đô-la Mỹ. Khi lãi suất gửi tiết kiệm bằng tiền đồng chỉ vào khoảng 15%, rõ ràng giải pháp giấu đô-la dưới thảm an toàn hơn là gửi tiền đồng vào ngân hàng.
Trong khi phần lớn các quốc gia Châu Á đang lo ngại về dòng vốn lớn đổ vào trong nước, và đồng tiền quá mạnh gây bất lợi cho xuất khẩu, Việt Nam đang đứng ở vị trí không tránh khỏi sẽ cạn nguồn dự trữ ngoại tệ - không ai biết con số dự trữ ngoại tệ chính xác của Việt Nam, nhưng nó có lẽ vào khoảng 6-7 tháng nhập khẩu cách đây chừng 1 năm. Mức đánh giá dành cho trái phiếu của Việt Nam đang tụt xuống hàng trái phiếu rác [junk bond = loại trái phiếu cấp thấp về giá trị] với triển vọng tiêu cực. Một trong số các tập đoàn / tổng công ty nhà nước lớn của Việt Nam, Vinashin, đã bị coi là phá sản và không còn khả năng trả lãi suất cho các khoản nợ nước ngoài - những khoản nợ mà người cho vay tin rằng có sự bảo đảm phía sau của chính quyền. Lạm phát chính thức là vào khoảng 1% mỗi tháng, nhưng có lẽ lạm phát thực tế vào khoảng 15-20% vào năm ngoái. Tại sao Việt Nam, một quốc gia có triển vọng rực rỡ và nắm kỷ lục về tốc độ tăng trưởng, lại bỗng gặp rắc rối như thế?
Có một số lý do. Thứ nhất là chính sách của Đảng dành cho doanh nghiệp quốc doanh "vai trò chủ đạo" trong phát triển kinh tế. Trên thực tế, điều này có nghĩa là cho các doanh nghiệp này quyền lực độc quyền, cùng với đất đai giá rẻ, tín dụng và các hợp đồng chính phủ theo các cách khác nhau. Vào khoảng một nửa số vốn doanh nghiệp tăng kể từ năm 2004 đã rơi vào các doanh nghiệp quốc doanh, nhưng họ chỉ tạo ra khoảng một phần tư tăng trưởng đầu ra và tạo ra vài trăm ngàn việc làm. Sự lãng phí vốn đầu tư này đi kèm với việc đổ tiền vào những dự án cơ sở hạ tầng đáng nghi ngờ, bởi chúng thường thiếu cân nhắc, chi tiêu vượt tầm hoặc không cần thiết. Những lựa chọn tồi này không bộc lộ nhược điểm của nó trước đây, khi mà các khoản vay có lãi suất thấp và tiền nhận được từ các quỹ tài trợ khiến cho nền kinh tế thiếu hiệu quả không gây đau đớn [như bây giờ].
Kể từ khi Việt Nam trở thành quốc gia "có thu nhập trung bình", quốc gia này không còn nhận được nhiều khoản vay trợ giúp "siêu rẻ", cũng như chi phí đi vay cũng tăng lên hàng năm. Thêm vào đó, tín dụng trong nước đã tăng lên một cách đáng ngạc nhiên khoảng 30% mỗi năm kể từ năm 2000, tức là gấp đôi sau mỗi 30 tháng. Một phần lớn lượng tín dụng này đã chuyển vào bất động sản và các khoản vay phát triển. Đất đai ở Hà Nội gần đây được mua bán với giá 10 ngàn đô-la một mét vuông, cao hơn cả Bắc Kinh. Đất đai là một lựa chọn đầu tư "được ưa chuộng" cho các khoản tiền kiếm được một cách "đáng ngờ", bởi không ai đánh thuế sau khi nó được mua, cũng như không được niêm yết một cách tập trung. Đối với nhiều người Việt Nam, đất đai tỏ ra an toàn hơn các tài khoản ngân hàng với lãi suất thực âm [tức là lãi suất thua tốc độ lạm phát] hay cổ phiếu trên thị trường chứng khoán đã mất hơn nửa giá trị so với năm 2007. Tiền cho thuê hoặc bán đất cũng giúp các tỉnh chi trả chi phí của địa phương, do đó ngay cả một chủ tịch tỉnh không tham nhũng cũng thích giá đất tăng lên. Nhưng giá đất tăng đã làm méo mó sự tăng trưởng của thành thị và việc thiếu hụt các khoản thuế nhà đất có nghĩa là cư dân thành phố sẽ thiếu ngân sách cho các dịch vụ hay khoản đầu tư cần thiết như tàu điện ngầm - một thứ cần có bởi giá đất cao khiến người ta xây nhiều chung cư cao tầng, dẫn đến mật độ giao thông tăng.
Người Việt Nam thiếu niềm tin vào tiền đồng thể hiện qua việc họ mua vàng và đô-la bất cứ khi nào có thể - con số này lên tới 9 tỷ đô-la năm 2009 và có thể còn cao hơn vào năm ngoái. Con số ước lượng nói vàng và đô-la tích trữ trong dân có thể lên tới hàng chục tỉ đô-la. Mặt tốt của nó là có rất nhiều vốn trong dân, nếu chính quyền có thể tạo ra những chính sách hợp lý và tái xây dựng niềm tin. Điều tồi tệ là người dân luôn hoài nghi, mà chính phủ thì thường "chóng quên" việc giữ ổn định mỗi khi thoát hiểm và quay ngay lại với những chính sách dẫn đến lạm phát của mình. Bởi vì việc làm giảm tăng trưởng tín dụng sẽ tạo áp lực bắt nhiều chủ thầu và ngân hàng phải ra hạn các khoản vay bằng cách dùng đất đai - vốn bị định giá quá cao - ra làm khoản thế chấp, việc duy trì tình trạng lạm phát thấp cũng có thể dẫn đến triển vọng đau đớn. Mặt khác, khi mà cả nước ngoài lẫn người trong nước đều không muốn cấp tín dụng cho nhà nước, thì không thể cứ tiếp tục in tiền. Với tín dụng chạm mức 130 phần trăm GDP (vào năm 2000 chỉ mới ở mức 30%), thì trò chơi đã gần kết thúc. Hoặc là mức tăng tín dụng chỉ nhỉnh hơn tốc độ tăng GDP thực một chút thôi, hoặc là lạm phát sẽ xảy ra.
Con đường phía trước thực khó đoán. Một số người vẫn không thấy cái lỗ đã quá sâu, và vẫn muốn tiếp tục đào. Các doanh nghiệp nhà nước, ngân hàng và các đại gia vẫn không muốn dừng nhảy múa, và họ có những ảnh hưởng khủng khiếp [tới người ra chính sách]. Một khoản vay của IMF với những điều kiện thực tế là một lựa chọn. Một khoản vay từ các hàng xóm Châu Á (có lẽ qua hiệp định Chiang Mai không rõ ràng) là một lựa chọn khác. Nhưng cái ngày mà chính quyền còn có thể tạo ra tín dụng, sử dụng chúng một cách tồi tệ, và thuyết phục người khác rằng đó là cách làm đúng đắn đã qua rồi.
Giáo sự David Dapice là một Kinh tế gia tại Chương trình Việt Nam của Trung Tâm Quản lý Hành chính Dân chủ và Sáng tạo Ash thuộc trường Quản lý Chính Phủ John F. Kennedy, Đại học Harvard và là Phó Giáo sư Kinh tế Đại học Tufts.
-------------------------
Tin liên quan:
.
.
.
No comments:
Post a Comment