Thursday, February 10, 2011

AI CẬP : NGHỊCH LÝ CỦA CẢI CÁCH (RFA)

Việt Long & Nguyễn Xuân Nghĩa, RFA
2011-02-09

Vụ khủng hoảng Ai Cập có thể xuất phát từ nhiều nguyên nhân sâu xa về kinh tế.
Nhưng chính là nỗ lực cải cách nhằm giải quyết các vấn đề kinh tế có khi lại dẫn tới biến động và khủng hoảng chính trị càng gây khó khăn kinh tế cho quốc gia này. Diễn đàn Kinh tế sẽ tìm hiểu về nghịch lý đó qua phần trao đổi sau đây của Việt Long với nhà tư vấn kinh tế Nguyễn Xuân Nghĩa.

Khủng hoảng do cải cách
Việt Long: Xin kính chào ông Nguyễn Xuân Nghĩa. Ăn Tết xong, chúng ta trở lại nhũng trang u ám về kinh tế và đề mục nóng bỏng của thời sự tất nhiên là vụ khủng hoảng tại Ai Cập. Kỳ này, chúng tôi xin đề nghị ông trình bày cho thính giả của đài Á châu Tự do những yếu tố kinh tế trong vụ khủng hoảng. Ông nghĩ sao?
Nguyễn Xuân Nghĩa:  Tôi đề nghị là ta sẽ cùng phân tích cả nguyên nhân lẫn hậu quả kinh tế của vụ khủng hoảng đang xảy ra nhưng xin trước tiên nói đến "nghịch lý của cải cách". Chính là nỗ lực cải cách của Cộng hoà Á Rập Ai Cập, hay Egypt, lại tạo đà gia tốc khiến khủng hoảng bùng nổ. Sở dĩ mình phải nói đến chuyện đó để ta có thể nhìn vào hồ sơ trên toàn cảnh và may ra sẽ tránh được những thảm họa đang nhìn thấy tại Ai Cập.

Việt Long: Ông nêu ra một ý kiến hơi lạ. Chính là việc cải cách mới lại thúc đẩy khủng hoảng. Nói như vậy thì còn xứ nào dám tiến hành cải cách nữa?
Nguyễn Xuân Nghĩa: Chúng ta sẽ cùng tìm hiểu chuyện đó để thấy rằng việc lãnh đạo quốc gia thật không đơn giản và khi cải cách kinh tế thì cũng như đưa cỗ xe vào khúc quanh nên cỗ xe càng dễ bị lật nếu xã hội thiếu tự do và hệ thống chính trị không có khả năng ứng phó linh động! Nhưng trước hết, ta cần nhìn vào toàn cảnh đã.
Ai Cập có nền văn minh lâu đời, nay là quốc gia đông dân nhất trong khối Á Rập Hồi giáo tại khu vực Trung Đông và Bắc Phi. Xứ này có hơn 80 triệu dân trên diện tích bằng ba Việt Nam mà thật ra it đất canh tác ngoài thung lũng và châu thổ sông Nile, hai phần ba lãnh thổ chỉ là sa mạc. Dầu vậy, xứ này vẫn giầu hơn gấp đôi Việt Nam nếu tính theo lối thực tiễn là tỷ giá mãi lực của đồng bạc. Sau khi lật đổ chế độ quân chủ cách nay gần sáu chục năm, Ai Cập có lúc ngả theo xu hướng Xô viết về cả ngoại giao lẫn kinh tế và chỉ bắt đầu chuyển sang chế độ kinh tế thị trường kể từ 1991. Nhìn như vậy, Ai Cập cũng không mấy khác Việt Nam.
Nhưng Ai Cập còn có nỗ lực cải cách vượt bực kể từ năm 2004 với Thủ tướng Ahmed Nazif và một nội các gồm nhiều chuyên gia. Việc cải cách được thế giới ngợi ca vì thành tích xoá đói giảm nghèo và phát triển sản xuất với tốc độ bình quân là 7%, khiến Ai Cập bước vào hàng ngũ có lợi tức trung bình cao mà Việt Nam chưa vuơn tới. Thực tế thì Ai Cập là nước tiên tiến tại khu vực Bắc Phi Trung Đông, gọi là MENA. Bây giờ trong cuộc khủng hoảng, người ta quên mất thành tích đó và những phúc trình ca tụng của Ngân hàng Thế giới và Quỹ Tiền tệ Quốc tế IMF. Nôm na là Ai Cập tiến xa hơn Việt Nam về kinh tế mà sau cùng cũng vấp ngã vì chính trị.

"Nghịch lý của độc tài"
Việt Long: Chúng ta bắt đầu đi vào phần hấp dẫn của vấn đề! Thưa ông, thế thì vì sao Ai Cập lại vấp ngã sau khi đã đạt những thành quả kinh tế ông đánh giá là còn cao hơn Việt Nam?
Nguyễn Xuân Nghĩa: Nói văn hoa thì Ai Cập bị rơi vào quy luật gọi là "nghịch lý của độc tài", khi chế độ độc tài cần hiện đại hóa xứ sở và nâng cao trình độ hiểu biết của lực lượng lao động. Trình độ dân trí gia tăng khiến họ không chấp nhận ách độc tài nữa. Đấy là một cách giải thích từ xã hội học. Một cách giải thích khác là Ai Cập trả giá cho sự thành công về kinh tế khi nâng cao mức sống chung của xã hội, rồi sự xuất hiện của một tầng lớp trung lưu khá giả đòi hỏi những thay đổi chính trị trên thượng tầng mà lãnh đạo không theo kịp. Đó là cái nhân, là những nguyên nhân sâu xa của tình trạng ngày nay.

Việt Long: Chúng tôi hiểu là khi ông nói đến cái "nhân", tức là những nguyên nhân khiến một sự việc nào đó sẽ xảy ra. Như vậy, chúng ta còn cái "duyên", là vì sao bây giờ sự việc ấy lại xảy ra?
Nguyễn Xuân Nghĩa: Người ta nói đến một trào lưu chung trên thế giới - tức là ở nhiều quốc gia chứ không riêng gì Ai Cập - là xã hội tiến hóa nhanh, đào tạo ra một tầng lớp trẻ từ 15 đến 29 tuổi, kể cả phái nữ, có kiến thức cơ bản hay trình độ cao đẳng sau tú tài mà nhất thời lại không kiếm ra việc. Nạn tổng suy trầm kinh tế năm 2008-2009 làm vấn đề này trêm trầm trọng.
Cho nên, các thanh niên có hiểu biết hiện đại hơn phụ huynh ngày xưa càng khó chấp nhận được tương lai bấp bênh của mình. Trong năm qua, thế giới có nhiều vụ thanh niên biểu tình như vậy vì thanh nhiên không có việc làm và thấy tương lai mờ mịt. Ai Cập bị hiệu ứng suy trầm nên bị thất nghiệp mấp mé 10%, nguy kịch nhất là mức thất nghiệp của giới trẻ lại ở khoảng 24%, tức là một phần tư thanh niên có thể thấy mình vô dụng, không có tương lai. Sau nạn suy trầm, Ai Cập ứng phó khá thành công, nhưng thành quả đó lại trước tiên rơi vào tay tư doanh, là người có tiền đầu tư, nên càng gây khó chịu cho người khác.
Chính quyền đối phó bằng cách chạy ra đằng trước, kéo dài chương trình đào tạo đại học, để trên giấy tờ vẫn ít người tốt nghiệp đại học mà thất nghiệp. Thực tế, thanh nên có tri mà không có cơ hội hành thì họ hành động để tạo ra thay đổi. Trong một xứ dân chủ, hành động của họ có thể là đi vận động cho các ứng cử viên quan tâm đến số phận của họ. Trong một xứ độc tài không có lá phiếu thì người ta ném đá vào chế độ và đòi lập ra chế độ khác.
Thế rồi, khi một thanh niên Tunisie bị đẩy vào hoàn cảnh cùng quẫn đến nỗi phải tự thiêu thì ngòi lửa căm phẫn lan rất nhanh trong tuổi trẻ ở đây và ở các xứ khác. Tại Ai Cập, Tổng thống Hosni Mubarak đã quá tám chục, lại lâm trọng bệnh mà không chuẩn bị chuyển giao quyền lực, có khi còn muốn dành ghế cho con trai. Đảng cầm quyền là
Dân chủ Quốc gia lại không đáp ứng nguyện vọng của giới trẻ đầy ưu lo và bất mãn thì một tia lửa nhỏ cũng bất thành đám cháy. Cũng cần phải nói cho khách quan là hệ thống chính trị Ai Cập dù sao thông thoáng hơn Việt Nam rất nhiều với Quốc hội vẫn có đối lập thật và có quyền đàn hặc hay phê phán chính phủ và nhất là kinh tế vĩ mô xứ này quân bình hơn Việt Nam.

Hậu quả kinh tế sau khủng hoảng
Việt Long: Chúng ta bước qua phần hai là về hậu quả. Sau vụ khủng hoảng này, hậu quả kinh tế sẽ như thế nào cho Ai Cập và các nước khác.
Nguyễn Xuân Nghĩa: Chúng ta thật khó biết vì cuộc khủng hoảng mới bắt đầu và chưa dứt!
Nói chung, ta có thể vượt qua khủng hoảng kinh tế sau năm năm áp dụng chính sách đúng đắn. Khủng hoảng chính trị thì phải mất 10 năm nếu không tụt lùi vào đàn áp và hỗn loạn. Còn khủng hoảng về văn hóa thì phải mất nhiều thế hệ, là trường hợp bản thân tôi e ngại cho Việt Nam.
Tại Ai Cập, hậu quả đầu tiên là hỗn loạn chính trị gây tổn thất kinh tế, ít ra cứ ba ngày thì mất một tỷ đô la và tuần này trái phiếu Ai Cập đã mất giá vì phân lời tăng, dù không hẳn là nhiều vì thị trường trái phiếu cho rằng khủng hoảng có thể sẽ giảm dần khi Tổng thống Mubarak sẽ lưu vong với lý do chữa bệnh. Nhưng một hậu quả kinh tế có thể dội ngược vào chính trị là nguy cơ bị trận đói.

Việt Long: Vì sao ông nói đến nạn đói tại Ai Cập?
Nguyễn Xuân Nghĩa: Ai Cập phải nhập khẩu lương thực mà cửa khẩu chính là hải cảng Alexandria, nơi bốc rỡ 80% hàng hóa ra vào xứ này. Theo các thống kê lạc quan nhất của chính quyền thì dự trữ lương thực có đủ cho sáu tuần tiêu thụ, như vậy nay chỉ còn bốn mà thôi!
Nếu chính quyền lâm thời trong tay Phó Tổng thống Omar Suleiman và các lực lượng đối lập không dàn xếp được sự ổn định tối thiểu cho việc dân sinh, hay nếu các nhóm quá khích lợi dụng cơ hội mà khóa hải cảng, phá đường chuyển vận hoặc đốt kho gạo thì tình hình sẽ nguy ngập. Trong mọi cuộc cách mạng, chữa cháy và cứu đói là hai việc quan trọng nhất mà cứ hay bị quên! Khi dân đói thì nói gì cũng khó và cách mạng có khi là thổ phỉ và tàn sát. Chúng ta có thể theo dõi chuyện này để biết được bản lãnh của những người trong cuộc là có thể xây dựng lại một chế độ chính trị mà không làm tan hoang tất cả hay không.
Nói tiếp về hậu quả kinh tế, tại Ai Cập, năng lượng chiếm vai trò quan trọng vì xứ này xuất khẩu khí đốt từ hai trung tâm Idku và Damietta bên Địa trung hải. Lãnh thổ Ai Cập còn có các hệ thống dẫn dầu thô từ Vịnh Ba Tư qua Alexandria vào biển Địa trung hải, dẫn khí đốt từ hải cảng Port Said qua bán đảo Sinai đến vịnh Aqaba để cung cấp cho hai xứ láng giềng là Israel và Jordan. Nếu hạ tầng năng lượng này bị phá hoại - là điều tới nay có xác suất thấp - thì kinh tế Ai Cập sẽ khốn đốn và hậu quả có thể gây một biến động nhỏ cho thị trường năng lượng toàn cầu.
Việt Long: Nhưng Ai Cập cũng kiểm soát kênh đào Suez nối liền Hồng hải với Địa trung hải. Nếu xứ này có loạn thì việc vận chuyển trên con đường huyết mạch này tất nhiên bị cản trở, làm kinh tế Ai Cập và cả thế giới đều bị ảnh hưởng chứ?
Nguyễn Xuân Nghĩa: Kênh đào Suez có thể đem lại cho Ai Cập chừng hai tỷ đô la tiền lệ phí, tức là bằng với số viện trợ của Hoa Kỳ nhưng chỉ bằng một phần tư số tiền dân Ai Cập hải ngoại gửi về nhà, là khoảng tám tỷ đô la, cũng y như Việt Nam! Việc phong tỏa con kênh thật ra không dễ vì quân đội Ai Cập vẫn làm chủ được tình hình và khó để việc đó cảy ra.
Cho kinh tế toàn cầu thì kênh đào Suez là nơi vận chuyển 8% hàng hóa và 2% năng lượng giao dịch thế giới giữa Đông và Tây, Âu và Á. Trong quá khứ, những trở ngại trên kênh đào khiến người ta phải  vòng qua Mũi Hảo Vọng tại Nam Phi, là dài hơn chừng 3.500 hải lý hay gần 7.000 cây số. Cũng vì vậy mà thế giới đã đóng những tầu chở dầu cực lớn để giảm phí tổn chuyên chở khi đi đường vòng. Nếu khủng hoảng Ai Cập khiến kênh đào bị khóa - là chuyện khó xảy ra trong lúc này - thì việc chuyển vận năng lượng và hàng hóa có thể tốn kém hơn cho các xứ khác, và đó là hậu quả kinh tế của khủng hoảng Ai Cập đối với toàn cầu.
Dù sao, trong hoàn cảnh dầu thô, thương phẩm và lương thực đang lên giá và lạm phát đe dọa nhiều nền kinh tế thì dù không nhiều, khủng hoảng Ai Cập có gây bất lợi cho kinh tế toàn cầu. Nhưng hậu quả chính trị cón đáng chú ý hơn hậu quả kinh tế.

Việt Long: Câu hỏi cuối thưa ông, chính là hậu quả chính trị đó.
Ông có trình bày cho thính giả thấy rằng Ai Cập quản lý kinh tế tương đối khả quan và chính là cải cách kinh tế đã đưa xã hội tới chỗ không chấp nhận được ách độc tài chính trị và đó là nghịch lý của độc tài. Hiển nhiên là các xứ độc tài cũng theo dõi chuyện này rất sát chứ?
Nguyễn Xuân Nghĩa: Khi nói đến nghịch lý của cải cách, tất nhiên tôi không hàm ý là đừng nên cải cách kinh tế vì sẽ dẫn đến động loạn! Con người ta có hai chân mà chỉ xoải một chân thì tất nhiên là té.
Nếu Ai Cập chủ động cải cách chính trị cho dân chủ như trường hợp Nam Hàn hay Đài Loan hoặc Indonesia thì dù kinh tế khủng hoảng cũng không làm chính trị sụp đổ và cả nước tan tành. Một thí dụ khác là Ấn Độ, đang gặp hai nguy cơ song hành là thất nghiệp và lạm phát cao, chưa kể đến nạn khủng bố, nên xã hội thường bị biến động. Nhưng thể chế chính trị của họ vẫn vững chính là nhờ nguyên tắc dân chủ. 
Những gì xảy ra tại khu vực Bắc Phi và Trung Đông cho thấy là Hồi giáo hoặc bất cứ nền văn hóa nào đi nữa cũng không thể coi thường ý dân và duy trì ách độc tài. Cải cách kinh tế vì vậy phải đi cùng cải cách chính trị như hai chân phải cùng đều bước thì mới tiến mà không té.
Nếu không, chỉ còn một cách tạm bợ là ru ngủ thanh niên bằng thể thao, nghệ thuật và giải trí vô ý thức thì lại đụng vào nghịch lý của nạn ngu dân. Thế hệ tương lai mà sa đà trong đó hoặc chỉ muốn qua xứ khác sinh sống thì làm sao mà nâng cao kiến thức và năng suất để làm chủ cuộc sống và đứng ngang tầm thế giới? Chính sách ngu dân đó dẫn tới khủng hoảng về giáo dục và đào tạo, là cái giá phải trả cho một chế độ chính trị hôn ám.
Trung Quốc không đến nỗi ngu dân như vậy mà còn sợ "hiệu ứng Ai Cập" đến nổi kiểm soát cả thông tin và xoá hết mọi tin có tên Ai Cập. Việt Nam nên học bài học mà nhấc chân kia lên, kẻo có ngày cũng sẽ ngã khiến xứ sở mất thêm một thập niên hỗn loạn.

Việt Long: Xin cám ơn ông Nguyễn Xuân Nghĩa.

Theo dòng thời sự:

Copyright © 1998-2011 Radio Free Asia. All rights reserved.
.
.
.

No comments: