Wednesday, May 19, 2010

KHỦNG HOẢNG GIÁO DỤC ĐẠI HỌC TẠI TRUNG QUỐC

Khủng hoảng giáo dục đại học tại Trung Quốc?

Vũ Thị Phương Anh

Tuesday, May 4, 2010

http://ncgdvn.blogspot.com/2010/05/khung-hoang-giao-duc-ai-hoc-tai-trung.html

Bài này của tôi đã được đăng trên Tạp chí Tia Sáng số ra đầu tháng 5/2010. Dưới đây là bài gốc của tôi. Có lẽ tòa soạn đã biên tập lại cho gọn gàng hơn? Tôi đã đọc, và về cơ bản thấy bản đã đăng không khác gì với bản gốc. Các bạn đọc ở dưới nhé!

Khủng hoảng giáo dục đại học tại Trung Quốc?

Sự phát triển vượt bậc – ít nhất là về số lượng – của giáo dục đại học Trung Quốc (TQ) trong vài thập niên vừa qua đã có lúc làm cho cả thế giới phải quan tâm theo dõi . Và cùng với đó là thái độ trầm trồ, thán phục của các nước đang phát triển, xem TQ như một hình mẫu để học tập. Hoặc tâm trạng lo sợ của các nước phương Tây vì TQ đã nổi lên như một mối đe dọa, một sự đối thủ cạnh tranh mới trong lãnh vực giáo dục ĐH.

Thật ra, những dấu hiệu đầu tiên của sự khủng hoảng giáo dục đại học Trung Quốc đã bộc lộ từ lâu, và đã nhiều lần được báo chí phương Tây chỉ ra. Tuy nhiên, trong thời gian đầu tiên, những thành tựu nhanh chóng của giáo dục đại học đã làm cho người Trung Quốc “say men chiến thắng”. Vì vậy, những dấu hiệu khủng hoảng đã bị các nhà lãnh đạo và quản lý ngành giáo dục Trung Quốc nhất loạt gạt qua một bên, không được thừa nhận và xem xét để tìm cách cải thiện.

Mãi cho đến gần đây, khi sự khủng hoảng của giáo dục đại học đã tạo ra tác hại rõ ràng lên sự phát triển kinh tế và xã hội của Trung Quốc, thì các phương tiện truyền thông đại chúng – vốn được nhà nước Trung Quốc kiểm soát chặt chẽ – mới bắt đầu lên tiếng. Không còn giấu diếm được nữa, báo chí Trung Quốc đang dần phơi bày ra mặt trái của tấm huân chương thành tựu của giáo dục đại học Trung Quốc.

“Trung Quốc không có nổi một trường đại học đẳng cấp quốc tế!”
Tựa nhỏ trên đây là phát biểu vừa được đăng ngày 18/4/2010 trên trang chinadaily của Trung Quốc trong mục “trích dẫn trong tuần” (weekly quote) . Tác giả của phát biểu này là nguyên hiệu trưởng Trường đại học Bắc Kinh, ngôi trường luôn dẫn đầu danh sách xếp hạng các trường đại học của Trung Quốc. “Đẳng cấp quốc tế” ở đây cần được hiểu là 200 vị trí đầu tiên trong bảng xếp hạng đại học thế giới (ARWU) của Trường Đại học Giao thông Thượng Hải (SJTU).

Việc không có tên trong 200 vị trí đầu của ARWU là việc rất bình thường đối với tuyệt đại đa số các trường đại học trên khắp thế giới. Có lẽ ngoài Trung Quốc (và một vài quốc gia đua đòi theo giấc mơ “đại học đẳng cấp quốc tế” của Trung Quốc) thì bảng danh sách này không có ý nghĩa gì lắm đối với các vị nguyên thủ quốc gia. Tổng số trường đại học trên thế giới hiện nay theo ước tính thận trọng nhất cũng đã lên đến cả chục ngàn trường (chỉ riêng Mỹ đã có hơn 4000 trường đại học và cao đẳng). Con số 200 so với trên 10 ngàn trường là tỷ lệ chưa đến 2/100, một tỷ lệ đủ nhỏ để người ta có thể xem nó như một ngoại lệ hơn là một quy luật.

Nhưng đối với Trung Quốc thì khác. Bảng xếp hạng nổi tiếng toàn cầu kia, thật tự hào mà cũng thật hổ thẹn, là sản phẩm do các nhà khoa học Trung Quốc tạo ra cho chính giáo dục đại học Trung Quốc. Theo Nian Cai Liu , tác giả của ARWU, mục đích của bảng xếp hạng này là giúp các trường đại học của Trung Quốc hiện thực hóa ước mơ và cũng là chỉ đạo của lãnh đạo Đảng và Nhà nước Trung Quốc: Phải xây dựng cho được một số trường đại học đẳng cấp quốc tế tại Trung Quốc.

Từ lúc ra đời vào năm 2004 đến nay, việc có được một vị trí cao trong bảng xếp hạng ARWU đã trở mục tiêu phấn đấu của giáo dục đại học Trung Quốc, và là cơ sở để quyết định mức độ đầu tư của nhà nước cho các trường đại học trọng điểm. Hàng núi tiền đã được nhà nước Trung Quốc liên tục đổ xuống cho các trường đại học được chọn tại Trung Quốc để dành một vị trí cao trong trong hơn một thập niên vừa qua. Nhưng dù cố gắng đến mức nào thì vị trí xếp hạng của các trường đại học của Trung Quốc vẫn cứ quanh quẩn mức khởi đầu khi bảng xếp hạng này mới ra đời, ở vị trí 300-400 của thế giới. Trong khi đó, nhiều trường đại học của Nhật từ lâu đã có mặt ở danh sách 100 trường đầu tiên. Và, mỉa mai thay, chính Đài Loan cũng có được một trường đứng ở vị trí khá cao trong danh sách các trường đại học có đẳng cấp do TQ tạo ra để đo mức độ thành công của những nỗ lực của chính mình.

Đó là lý do tại sao việc không có tên trong các vị trí đầu tiên của một bảng xếp hạng ARWU đã được các nhà lãnh đạo chính trị của Trung Quốc xem là biểu hiện của sự không thành công, thậm chí là dấu hiệu ban đầu của khủng hoảng. Mà nếu ta bỏ qua danh sách này như một ước mơ đẹp nhưng thiếu hiện thực, thì vẫn còn rất nhiều dấu hiệu khủng hoảng khác giờ đây đang bộc lộ ra dồn dập trên nhiều khía cạnh. Chúng đang tạo ra một hình ảnh khác về giáo dục đại học Trung Quốc, không giống với ảo tưởng về thành tựu đáng tự hào như mọi người vẫn tin tưởng lâu nay.

“Công bố đi rồi chết!”
“Publish or perish”, công bố hay là chết, là phương châm hoạt động của giảng viên các trường đại học phương Tây. Câu nói này có nghĩa là mọi giảng viên và nhà nghiên cứu làm việc tại các trường, các viện đại học đều cần có các công bố khoa học để có thể tiếp tục tồn tại trong giới hàn lâm.

Nghiên cứu và công bố cũng là những yếu tố đánh giá trong bảng xếp hạng ARWU, và điều này đã làm cho các trường đại học cũng như các giảng viên, các nhà khoa học của Trung Quốc “điên cuồng” trong cuộc chạy đua công bố khoa học trong những năm qua. Nhưng sao lại “công bố đi rồi chết”? Đó là tựa của một bài viết vừa đăng hồi tháng 3/2010 trên tờ China Economic Review . Bài viết này (tựa tiếng Anh là Publish and perish) dường như đã điểm đúng tử huyệt của giáo dục đại học Trung Quốc hiện nay: nạn “tham nhũng học thuật” đang làm ô nhiễm trầm trọng môi trường học thuật của đất nước này.

Theo bài báo nói trên, trong một cuộc khảo sát do Bộ Khoa học và Công nghệ của Trung Quốc thực hiện từ năm 2006, có đến 60% các giáo sư của Trung Quốc thừa nhận đã sao chép các tác phẩm của người khác, đút lót tiền để được đăng bài trên tạp chí khoa học, hoặc khai man số bài báo khoa học của mình. Cũng theo bài báo, sự gian lận này không phải là không ai biết. Đã từng có nhiều lời than phiền cùng những lá đơn thỉnh nguyện của các trí thức kêu gọi các nhà lãnh đạo giáo dục Trung Quốc phải làm một điều gì đó để cải thiện tình hình. Nhưng những lời kêu gọi này đều bị bỏ ngoài tai. Chỉ đến khi những gian lận này bị phát hiện tại nước ngoài thì những người có trách nhiệm đối với nền giáo dục của Trung Quốc mới bắt đầu có một vài động thái mạnh mẽ, chẳng hạn như đuổi việc các giảng viên đạo văn của người khác tại Đại học Vũ Hán vào năm 2007.

Tiếc thay, những động thái mạnh mẽ dù khá hiếm hoi như trên hầu như chẳng có tác động gì đến nạn tham nhũng học thuật đang hoành hành và không cách gì ngăn chặn nổi tại Trung Quốc. Ngoài việc đạo văn, thực chất là một hành động “ăn cướp/ăn cắp tài sản trí tuệ” của người khác, trước áp lực nặng nề của việc phải có công bố khoa học để tồn tại hoặc duy trì các vị trí đôi khi không tương xứng với tài năng, một số “nhà khoa học” Trung Quốc còn có các hành vi đáng lên án khác. Đó là: tạo ra những “công trình khoa học rác” với những số liệu giả và những kết luận vô căn cứ, hoặc phổ biến hơn, là dùng tiền để mua các bài viết, các luận án tiến sĩ, các công trình khoa học từ các “lò đạo văn” rồi công bố dưới tên mình. Một trong những nguyên nhân căn bản của việc này là áp lực khủng khiếp đối với các giảng viên là phải đạt được những chỉ tiêu khắt khe mà ARWU đã vô tình tạo ra: tỷ lệ công bố khoa học trên giảng viên.

Theo bài viết trên China Economic Review số tháng 3/2010 đã nhắc đến ở trên, nghiên cứu từ Trường Đại học Vũ Hán cho thấy trong vòng 3 năm qua, các nghiên cứu sinh và giáo sư của Trung Quốc đã bỏ ra đến 146 triệu US mua các “bài viết ma” để nộp làm luận án tiến sĩ hoặc công bố khoa học của mình. Nạn mua bán công trình khoa học đã thậm tệ đến nỗi tờ nhật báo China Daily của nhà nước Trung Quốc phải thốt lên: “Một số trí thức Trung Quốc ngày nay thực sự không còn biết hổ thẹn là gì nữa!” Hiện tượng này cũng được tờ AsiaOne, tờ báo mạng của công ty Singapore Press Holdings, nêu ra hồi tháng 3/2010 vừa qua trong bài viết có cái tựa dí dỏm là “’Đại nhảy vọt’ đã kích thích các khu ổ chuột trong giới học thuật” . Bài viết có những giòng “thú vị” mà đau xót sau đây: “Nhiều giáo sư và sinh viên [TQ] hoàn toàn không hổ thẹn về việc đạo văn của mình vì cho rằng ai cũng làm như thế. Thật lố bịch khi một bài báo khoa học trong ngành Y đã bị đạo văn đến 6 lần khác nhau với tổng số “đạo chích” lên đến 25 người!”

Phải làm gì bây giờ? Kỷ luật thật nặng, đuổi việc, tước bằng, cách chức, như đã bắt đầu xảy ra gần đây tại Trung Quốc? Tờ China Daily đưa ra một quan điểm khác, mới nhìn có vẻ bất ngờ nhưng nghĩ kỹ thì có lẽ hoàn toàn phù hợp với tình hình Trung Quốc và các quốc gia khác như Việt Nam, Mã Lai, nơi nhà nước can thiệp khá sâu vào công việc của các trường đại học, đó là: chấm dứt chế độ lương thưởng dựa trên thành tích công bố khoa học của các giáo sư. “Những giáo sư nào cảm thấy cần công bố thì cứ việc công bố, chứ không nên thúc ép họ công bố theo kiểu ngu xuẩn như lâu nay nữa,” tờ báo đã viết như vậy.

Đẳng cấp quốc tế: Giấc mộng không thành!
Như đã nêu ở trên, một loạt những dấu hiệu gần đây đã cho thấy giáo dục đại học TQ chưa thành công, thậm chí có thể nói là đã thất bại, trong tham vọng “tạo ra một số trường đại học đẳng cấp quốc tế”. Cho dù đó là ước mơ và là chỉ đạo của các vị lãnh đạo tối cao của đất nước này từ cuối thập niên 1990 mà hơn một thập niên nay các trường đại học của đất nước này đã miệt mài theo đuổi.

Vì sao có thể nói là giáo dục đại học của Trung Quốc đã thất bại trong giấc mơ đẳng cấp quốc tế? Đó là bởi vì cho đến nay, không những Trung Quốc chưa thể lọt vào top 200 của bảng xếp hạng ARWU, mà ngay cả điều kiện cơ bản là có được một đội ngũ các giáo sư, các nhà khoa học, các nghiên cứu sinh giỏi chuyên môn và có đạo đức học thuật thì Trung Quốc cũng chưa làm được. Ngược lại, tham vọng đẳng cấp quốc tế của giới lãnh đạo chính trị đã gây ra nhiều sức ép lên giới học thuật, cộng với sự lẫn lộn giữa vị trí hành chính và vị thế chuyên môn của các vị nắm quyền quản lý trong các trường đại học, đã tạo ra tình trạng “tham nhũng học thuật” nặng nề và một “thị trường đen học thuật” nhộn nhạo láo nháo với các chợ luận văn, các bài báo ma, công trình giả/dỏm, luận văn mua vv hỗn loạn trong giáo dục đại học Trung Quốc mà hiện nay toàn thế giới đều biết rõ.

Tuy nhiên, đánh giá thành tựu của giáo dục đại học Trung Quốc chỉ thông qua số lượng công bố khoa học trên các tạp chí chuyên ngành, các giải thưởng lớn về khoa học công nghệ, hay sự tồn tại của các trường đại học nghiên cứu có đẳng cấp quốc tế có lẽ là không chính xác. Bởi giáo dục đại học không chỉ nhằm thúc đẩy phát triển khoa học công nghệ ở đỉnh cao, mà có lẽ quan trọng hơn, là nhằm cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ sự phát triển kinh tế của một quốc gia.

Một quốc gia như Trung Quốc với trên một tỷ dân và một nền kinh tế mới nổi, đang chuyển từ nông nghiệp sang công nghiệp, thì trước hết cần có các trường đại học giảng dạy (teaching universities) tốt, còn việc xây dựng các đại học nghiên cứu có tầm cỡ có thể cạnh tranh với Mỹ có thể cũng chưa cần thiết. Cũng vậy, các giảng viên làm việc trong các trường đại học giảng dạy như vậy không nhất thiết phải là những người có nhiều công bố trên các tạp chí khoa học mà đa phần là của các nước tư bản phương Tây, vốn có một truyền thống học thuật rất khác với Trung Quốc.

Như vậy, phải chăng cần tìm hiểu về thành tựu của giáo dục đại học Trung Quốc ở trên một khía cạnh khác, ví dụ như trong việc đào tạo nhân lực cho xã hội? Để đánh giá điều này, dễ nhất là tìm hiểu xem các sinh viên tốt nghiệp từ các đại học của Trung Quốc họ làm gì, ở đâu, và có cuộc sống nghề nghiệp ra sao. Vậy thì đây …
---
Bạn đọc muốn biết ư, xem kỳ sau sẽ rõ! Kỳ 2 cũng sẽ được đăng trên Tạp chí Tia Sáng, sau 2 tuần nữa!

.

.

.

Khủng hoảng giáo dục đại học tại TQ? (kỳ 2)

Vũ Thị Phương Anh

Wednesday, May 19, 2010

http://ncgdvn.blogspot.com/2010/05/khung-hoang-giao-duc-ai-hoc-tai-tq-ky-2.html

Bài viết này đã đăng trên Tạp chí Tia Sáng số ra ngày 15/5/2010. Kỳ 1 của bài viết này đã đăng trên blog này cách đây ít lâu. Nó ở đây.

Dưới đây là bản gốc mà tôi đã gửi đi. Bản đăng báo có thể đã được biên tập ít nhiều cho ngắn gọn và phù hợp với phong cách, mục tiêu của tờ báo.

----
Vì sao có thể nói là giáo dục đại học của Trung Quốc đã thất bại trong giấc mơ đẳng cấp quốc tế? Đó là bởi vì cho đến nay, không những Trung Quốc chưa thể lọt vào top 200 của bảng xếp hạng ARWU, mà ngay cả điều kiện cơ bản là có được một đội ngũ các giáo sư, các nhà khoa học, các nghiên cứu sinh giỏi chuyên môn và có đạo đức học thuật thì Trung Quốc cũng chưa làm được. Ngược lại, tham vọng đẳng cấp quốc tế của giới lãnh đạo chính trị đã gây ra nhiều sức ép lên giới học thuật, cộng với sự lẫn lộn giữa vị trí hành chính và vị thế chuyên môn của các vị nắm quyền quản lý trong các trường đại học, đã tạo ra tình trạng “tham nhũng học thuật” nặng nề và một “thị trường đen học thuật” nhộn nhạo láo nháo với các chợ luận văn, các bài báo ma, công trình giả/dỏm, luận văn mua vv hỗn loạn trong giáo dục đại học Trung Quốc mà hiện nay toàn thế giới đều biết rõ.

Tuy nhiên, đánh giá thành tựu của giáo dục đại học Trung Quốc chỉ thông qua số lượng công bố khoa học trên các tạp chí chuyên ngành, các giải thưởng lớn về khoa học công nghệ, hay sự tồn tại của các trường đại học nghiên cứu có đẳng cấp quốc tế có lẽ là không chính xác. Bởi giáo dục đại học không chỉ nhằm thúc đẩy phát triển khoa học công nghệ ở đỉnh cao, mà có lẽ quan trọng hơn, là nhằm cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ sự phát triển kinh tế của một quốc gia.

Một quốc gia như Trung Quốc với trên một tỷ dân và một nền kinh tế mới nổi, đang chuyển từ nông nghiệp sang công nghiệp, thì trước hết cần có các trường đại học giảng dạy (teaching universities) tốt, còn việc xây dựng các đại học nghiên cứu có tầm cỡ có thể cạnh tranh với Mỹ có thể cũng chưa cần thiết. Cũng vậy, các giảng viên làm việc trong các trường đại học giảng dạy như vậy không nhất thiết phải là những người có nhiều công bố trên các tạp chí khoa học mà đa phần là của các nước tư bản phương Tây, vốn có một truyền thống học thuật rất khác với Trung Quốc.

Như vậy, phải chăng cần tìm hiểu về thành tựu của giáo dục đại học Trung Quốc ở trên một khía cạnh khác, ví dụ như trong việc đào tạo nhân lực cho xã hội? Để đánh giá điều này, dễ nhất là tìm hiểu xem các sinh viên tốt nghiệp từ các đại học của Trung Quốc họ làm gì, ở đâu, và có cuộc sống nghề nghiệp ra sao. Vậy thì đây …

“Tốt nghiệp là thất nghiệp!”
Một câu nói rất mỉa mai cay độc, phải không? Đó là tựa một bài viết đăng ngày 24/3/2010 trên trang mạng youthiawaaz.com , một diễn đàn trực tuyến xuất phát từ Ấn Độ với mục đích kết nối thanh niên trên toàn thế giới. Bài viết mở đầu như sau:

“Trong vòng 5 năm trở lại đây, thật dễ dàng tìm được các mẩu tin và phóng sự về nạn thất nghiệp của thanh niên trên các phương tiện truyền thông Trung Quốc. Vấn nạn thất nghiệp đã trở nên quá quen thuộc với thanh niên Trung Quốc đến nỗi hầu như mọi thanh niên Trung Quốc đều biết đến câu thành ngữ mới này: “tốt nghiệp là thất nghiệp”.

Nạn thất nghiệp trong những người có bằng đại học ở Trung Quốc thực sự tệ như vậy sao, hay đó chỉ là sự tuyên truyền của báo chí Ân Độ về Trung Quốc? Truyền thông chính thống của Trung Quốc nói gì về nạn thất nghiệp này? Dưới đây là những thông tin và số liệu lấy từ các tờ báo chính thống của Trung Quốc:

“Theo tin từ thành phố Đông Quản, một trong những trung tâm sản xuất chính tại tỉnh Giang Tô thuộc vùng châu thổ sông Châu Giang miền Nam Trung Quốc, có đến trên 90% các nhà máy nói rằng họ rất khó khăn trong việc tuyển dụng nhân sự vào 6 tháng cuối năm 2009, khi kinh tế bắt đầu hồi phục và các đơn đặt hàng từ nước ngoài bắt đầu đổ vào Trung Quốc. Việc hoạt động hết công suất dường như đối với các nhà máy của Trung Quốc chỉ còn là một giấc mơ đã xa lắm rồi.”

Mẩu tin trên lấy từ trang web của Trung Hoa Nhật báo bản tiếng Anh (China Daily) ngày 12/1/2010 . Phải chăng tình trạng này là do số lượng sinh viên tốt nghiệp chưa đủ để đáp ứng nhu cầu lớn lao của các khu công nghiệp? Hoàn toàn không phải! Theo bài viết này, tình trạng nói trên phần lớn là do sinh viên tốt nghiệp không phù hợp hoặc không đáp ứng được yêu cầu của công việc. Một tình trạng thật đáng buồn, được phóng viên tóm tắt trong cái tựa thật “đắt”: “Nỗi đau giáo dục của người đi xin việc”.

Nạn ngụy tạo số liệu báo cáo
Không phải là nhà nước Trung Quốc không quan tâm đến tình trạng việc làm của sinh viên tốt nghiệp. Trái lại thì đúng hơn. Một mẩu tin gần đây trên China Daily cho biết “Tìm việc làm ở các địa phương cho sinh viên tốt nghiệp là ưu tiên hàng đầu của chính quyền”. Bên cạnh đó, các trường đại học cũng được đánh giá dựa trên tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp có việc làm đúng ngành nghề sau một thời gian ngắn, thường từ 6 tháng đến 1 năm. Những biện pháp này cho thấy chính phủ Trung Quốc rất coi trọng nhiệm vụ đào tạo nguồn nhân lực của giáo dục đại học để phục vụ và thúc đẩy sự phát triển kinh tế của đất nước.

Nhưng thật mỉa mai, trước những yêu cầu của chính quyền, thay vì cố gắng thay đổi nội dung chương trình, phương pháp giảng dạy, và các hoạt động hỗ trợ để giúp sinh viên tốt nghiệp dễ dàng tìm được một việc làm phù hợp, thì một số trường đại học của Trung Quốc lại giở trò “gian lận” đã quen trong khi làm khoa học: đưa ra thông tin giả về tình trạng việc làm của cựu sinh viên. Một mẩu tin lấy từ trang web chính thức khác, trang china.org, vào tháng 7/2009 , đã cung cấp thông tin về sự việc này: “Các trường đại học ngụy tạo số liệu về việc làm của sinh viên tốt nghiệp”:

“Trên hồ sơ lưu của trường đại học nơi cậu đã tốt nghiệp, Tiểu Đồng được ghi là đã có việc làm. Nhưng thực ra hiện nay cậu vẫn đang vật vã cố tìm một việc làm tại Bắc Kinh.

“Chỉ có 10 trong số 29 sinh viên tốt nghiệp lớp em đã tìm được việc làm đúng nghĩa,” Tiểu Đồng nói. Cậu tốt nghiệp từ một trường đại học hàng đầu của Trung Quốc. “Nhưng trường em lại khoe khoang với bên ngoài rằng 90% sinh viên tốt nghiệp đã có việc làm.”


Số liệu về việc làm của sinh viên tốt nghiệp đại học của Bộ Nhân lực và An ninh xã hội (Ministry of Human Resources and Social Security) Trung Quốc cho biết tỷ lệ có việc làm của những người tốt nghiệp đại học trong vòng 3 năm qua dao động quanh mức 70%, tức tỷ lệ thất nghiệp lên đến xấp xỉ 30%, một tỷ lệ rất cao so với các nước khác trên thế giới. Đặc biệt, theo tin ngày 18/2/2010 trên China Daily thì tháng 6/2010 năm nay áp lực việc làm sẽ đặc biệt lớn, khi có đến 6.3 triệu sinh viên đại học và cao đẳng sẽ tốt nghiệp, một số lượng cao hơn các năm trước đây . Đây là kết quả của sự phát triển liên tục về số lượng của giáo dục đại học trong hơn 10 năm qua. Thử tưởng tượng, với tỷ lệ 30% thất nghiệp hiện nay, Trung Quốc sắp có thêm một đội quân thất nghiệp có trình độ đại học 2.1 triệu người nữa. Quả là một bài toán khó cho chính phủ Trung Quốc!

Nhưng số phận của những sinh viên tìm được việc làm cũng có vẻ chẳng khấm khá gì hơn bao nhiêu. Kết quả của một cuộc khảo sát vừa được công bố hồi tháng 3/2010, cũng trên trang mạng của Trung Hoa Nhật báo tiếng Anh cho biết:

“ 27% trong số 8,700 cựu sinh viên được khảo sát cho rằng khó khăn lớn nhất hiện nay của họ là không có cơ hội phát triển nghề nghiệp. Mối quan tâm lớn thứ hai của họ là lương; có đến 20% những người được hỏi cho rằng sau khi trừ hết chi phí ăn ở, sinh hoạt thì lương của họ hầu như không còn được một xu nào.”

Áp lực của việc học ở bậc đại học, cùng với viễn cảnh tương lai không mấy sáng sủa khi tốt nghiệp, đã đè nặng lên tâm lý của các sinh viên, đặc biệt là các sinh viên từ tỉnh lẻ lên thành phố ăn học. Tin từ China Daily cuối tháng 3/2010 cho biết một nữ sinh viên ở thành phố Nam Kinh thuộc tỉnh Giang Tô đã treo cổ tự vẫn trong nhà tắm tại ký túc xá, để lại bức thư cho gia đình giải thích về cái chết của mình là do “áp lực quá sức chịu đựng khiến cho cô không thể quyết định sau khi tốt nghiệp sẽ tìm việc làm hay tiếp tục ôn tập để dự kỳ thi tuyển đầu vào sau đại học.”

Những bức tranh ảm đạm vừa nêu, được phác họa lên từ những tin tức và số liệu chính thức trên báo chí chính thống của nhà nước Trung Quốc – gạt sang một bên rất nhiều tin tức ảm đạm khác trên báo chí phương Tây và các tổ chức quốc tế như Ngân hàng Thế giới hoặc UNESCO, liệu đã tạm đủ để bước đầu kết luận về sự khủng hoảng, ít ra là tiềm ẩn, của nền giáo dục đại học của Trung Quốc hay chưa?
---
Ghi chú: Bài này tôi dự tính viết xong trong 2 kỳ, nhưng khi viết hơi dài hơn dự kiến, vì cần phải thu thập và nêu đủ chứng cớ cho các lập luận của mình. Vì vậy nó kéo dài ra tới 3 kỳ, tức là còn 1 kỳ nữa. Không hiểu báo Tia Sáng có sẵn sàng đăng kỳ 3 không? Nhưng tôi cũng sẽ viết cho xong, và nếu báo đã chán chủ đề này thì tôi cũng sẽ đăng trên blog này cho đủ ý.


Hẹn các bạn ở kỳ 3!

.

.

.

No comments: