Wednesday, February 10, 2010

THỦ TƯỚNG VIỆT NAM NĂM 1951 (báo Pháp Luật)

Thủ tướng Việt Nam năm 1951?
10/02/2010 - 05:20 PM
http://phapluattp.vn/20100120070635945p1112c1114/thu-tuong-viet-nam-nam-1951.htm

(PL)- Sinh viên Trần Văn Khá, Đại học Kinh tế TP.HCM hỏi: Nghe nói năm 1951, Thủ tướng Trần Văn Hữu đại diện phái đoàn Việt Nam tham dự Hội nghị Cựu Kim Sơn, đã tuyên bố chủ quyền hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc về Việt Nam mà không có ai phản đối.
Xem danh sách các chính phủ Việt Nam sau Cách mạng Tháng Tám 1945, tôi không thấy có thủ tướng nào tên là Trần Văn Hữu?


ANH PHÓ trả lời:
Em Khá thân mến,
Sau Cách mạng tháng Tám 1945, các chính phủ lâm thời được thành lập không có chức vụ thủ tướng. Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa được Quốc hội trong kỳ họp thứ hai (tháng 11-1946) biểu quyết tán thành, Chủ tịch Hồ Chí Minh kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao cũng không có thủ tướng.
Sau ngày Pháp trở lại Đông Dương, thực dân Pháp đưa ra “ván bài Bảo Đại”, lập chính phủ thân Pháp ở Việt Nam. Pháp thừa nhận chế độ “Quốc gia Việt Nam” là một nước “độc lập” trong khối Liên Hiệp Pháp, đứng đầu là “Quốc trưởng” Bảo Đại. Chính phủ Quốc gia Việt Nam được chính thức thành lập từ tháng 7-1949 do Quốc trưởng Bảo Đại kiêm Thủ tướng.
Chính phủ này liên tục cải tổ, thay đổi và lần lượt có các thủ tướng sau: Nguyễn Phan Long (từ 21-1-1950 đến 6-5-1950), Trần Văn Hữu (từ 6-5-1950 đến 6-6-1952), Nguyễn Văn Tâm (từ 6-6-1952 đến 12-1-1954), Bửu Lộc (từ 12-1-1954 đến 6-7-1954); Ngô Đình Diệm (từ 7-7-1954 đến 26-10-1955). Như vậy, năm 1951, ông Trần Văn Hữu là Thủ tướng Chính phủ kiêm Tổng trưởng Ngoại giao nên đi dự Hội nghị San Francisco.
Lúc đó, Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa mới được Trung Quốc, Liên Xô (cũ) và các nước dân chủ nhân dân công nhận; còn Chính phủ “Quốc gia Việt Nam” thì được Mỹ, Anh, Vatican và một số nước khác công nhận. Họ ủng hộ chính quyền của Bảo Đại do Pháp dựng lên và mời Chính phủ này tham dự Hội nghị San Francisco với tư cách đại diện Việt Nam.
Hội nghị họp từ 6 và 7-9-1951 với 51 quốc gia tham dự. Bản tuyên bố của Thủ tướng Trần Văn Hữu có đoạn: “Cũng vì cần phải thành thật lợi dụng tất cả mọi cơ hội để dập tắt những mầm mống các tranh chấp sau này, chúng tôi xác nhận chủ quyền đã có từ lâu đời của chúng tôi trên quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa”.
Hội nghị không có đại diện của Trung Quốc và Đài Loan tham dự và không có nước nào phản đội tuyên bố của đại diện Việt Nam. Lúc đó, ông Gromyko, Trưởng đoàn đại biểu Liên Xô (cũ) có đưa ra đề nghị trao cho Trung Quốc chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa nhưng có tới 46 đại biểu bác bỏ đề nghị ấy.
Thân chào em.
(Nguyệt san Pháp Luật TP.HCM tháng 1-2010)
-----------------------------------------------

Tuyên bố của Thủ tướng Chính phủ Quốc gia Việt Nam Trần Văn Hữu tại Hòa hội Cựu Kim Sơn.
http://hoangsa.org/forum/threads/13750-Ve-Hoi-nghi-Hoa-Binh-voi-Nhat-Ban-San-Francisco-1951

Tại hòa hội Cựu Kim Sơn 1951, Thủ tướng Chính phủ Quốc gia Việt Nam Trần Văn Hữu đã đọc bản tuyên bố xác định chủ quyền đã có từ lâu đời của Quốc gia Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Sau đây là nội dung một số điểm chính đã được Thủ tướng Trần Văn Hữu trình bày tại Hòa hội Cựu Kim Sơn, trích trong France-Asia, số 66-67, tháng 11-12 1951, phần phiên dịch từ bản tiếng Pháp được phổ biến trong Tập san Sử Địa của Đại học Sư phạm Sài Gòn, số đặc khảo về Hoàng Sa và Trường Sa của ấn hành năm 1974:

"Thật là nghiêm trọng và cảm kích cho Việt Nam được đến San Francisco tham dự công việc của hội nghị Hòa bình với Nhật Bản. Sở dĩ chúng tôi được hiện diện tại đây là nhờ các tử sĩ của chúng tôi và lòng hy sinh vô bờ bến của dân tộc chúng tôi, dân tộc đã chịu đựng biết bao đau khổ để được sống còn và giành sự trường tồn cho một nòi giống đã có hơn 4 ngàn năm lịch sử."
"Nếu mỗi dân tộc đã thống khổ do sự chiếm đóng của Nhật Bản, có quyền tham dự hội nghị này, như tất cả diễn giả liên tiếp hai ngày nay đã đồng thanh nhìn nhận, mặc dù thuộc ý thức hệ nào đi nữa cũng vậy, thì cái quyền Việt Nam lên tiếng về Hòa ước Hòa bình với Nhật Bản lại càng dĩ nhiên hơn lúc nào hết, vì không ai không biết rằng, trong tất cả các quốc gia Á châu, V.N là một nước chịu nhiều đau khổ nhất về tài sản cũng như về tính mạng người dân. Và tôi thiếu sót phận sự tối thiểu đối với đồng bào quá vãng nếu giờ phút này, tôi không hướng một ý nghĩ thành kính đến số một triệu dân Việt mà hoàn cảnh bi thảm của sự chiếm đóng đã đưa đến cái chết đau thương. Những hư hại vật chất mà đất nước chúng tôi gánh chịu không phải là ít và tất cả nền kinh tế của chúng tôi bị ảnh hưởng một cách trầm trọng. Cầu cống và đường sá bị cắt đứt, làng xã bị triệt hạ hoàn toàn, nhà thương và trường học bị thiệt hại, bến tàu và đường sá bị dội bom, tất cả đều phải làm lại, đều cần thiết phải làm lại, nhưng than ôi cần có nguồn tài nguyên quá cao so với khả năng hiện hữu của chúng tôi."
"Cho nên, trong lúc khen ngợi sự rộng lượng của những tác giả dự án thỏa hiệp này, chúng tôi cũng trình bày ngay đây những quan điểm mà chúng tôi yêu cầu hội nghị ghi nhận."

"Là những người Á châu, chúng tôi thành thật hân hoan trước những viễn tượng mới mẻ mở rộng ra cho một quốc gia Á Đông sau khi kết thúc thỏa hiệp hòa bình này. Chúng tôi sẽ hết sức cố gắng góp phần vào sự phục hưng của một dân tộc Á đông bình dị và cần mẫn như nước Nhật Bản đây, chúng tôi tin chắc rằng những người dân châu Á phải là những người phát khởi thịnh vượng chung của mình, họ cũng trông cậy nơi chính mình để xa lánh mọi chế độ đế quốc và trong việc thiết lập một trạng thái quốc tế mới, một sự liên đới Á châu cũng cần thiết như một sự liên đới Âu châu vậy."
"Điều này không có ý muốn nói là sẽ có một ngày nào đó hai sự đoàn kết này sẽ chống đối lẫn nhau. Điều này chỉ muốn nói một cách giản dị là các dân tộc châu Á một khi đã được các quốc gia Tây phương hoàn thành việc giúp đỡ họ xây dựng hòa bình, tôi nói rằng một khi mà hòa bình đã vãn hồi, các dân tộc Á châu không thể sẽ là gánh nặng cho kẻ khác, mà trái lại họ phải nhớ nằm lòng là họ phải tự bảo vệ mạng sống của họ bằng những phương tiện riêng của họ. Điều đó, ít nhất cũng là tham vọng của Việt Nam và dù cho có phải chịu nhiều thăng trầm cực nhọc họ vẫn tự hào là không lúc nào để nhụt chí. Nhưng một dân tộc độc lập phải là một dân tộc tự hào và cũng bởi sự tự hào, theo chúng tôi, có cái giá, giá đó tuy không thể nào bằng sự tự hào của Nhật Bản nhưng chúng tôi tới đây để yêu cầu được chữ ký của 51 quốc gia hội viên của Hội nghị này mà tái lập lại một đời sống quốc gia xứng đáng và tự hào."
"Tuy nhiên nếu dự thảo hiệp ước này đòi hỏi thẳng thắn cái quyền dền bồi lại tất cả những thiệt hại mà chính Nhật Bản hoặc là tác giả, hoặc ngẫu nhiên đã gây ra, những đền bù được dự liệu bằng các cung cấp dịch vụ, trong trường hợp của Việt Nam mà không được đền bồi bằng những nguyên liệu, thì chắc chắn sẽ chẳng có kết quả gì cả. Tất cả mọi thứ Việt Nam, cũng cần như Nhật Bản, một số trợ giúp quan trọng để tái tạo nền kinh tế của mình. Từ đó, nếu nhận những đền bù chánh yếu bằng những cung cấp dịch vụ thì chẳng khác nào như là đi tín nhiệm mọi thứ tiền không thể lưu hành ở xứ mình."
"Chúng tôi vì vậy sẽ phải đòi hỏi nghiên cứu lại các phương thức bồi hoàn hữu hiệu hơn và nhất là chúng tôi phải tính, ngoại trừ những phương tiện tạm thời, tới một sự bồi thường chính thức vào cái ngày mà chúng tôi ước mong là sẽ rất gần, cái ngày mà nền kinh tế của Nhật Bản sẽ được phục hưng để họ có thể đương đầu với tất cả mọi bắt buộc."
Đoạn kết, Thủ tướng Trần Văn Hữu tuyên bố: "Việt Nam rất là hứng khởi ký nhận trước nhất cho công cuộc tạo dựng hòa bình này. Và cũng vì vậy cần phải thành thật lợi dụng tất cả mọi cơ hội để dập tắt những mầm móng các tranh chấp sau này, chúng tôi xác nhận chủ quyền đã có từ lâu đời của chúng tôi trên quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa"


---------------------------------------------

Thủ tướng Việt Nam
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
http://vi.wikipedia.org/wiki/Th%E1%BB%A7_t%C6%B0%E1%BB%9Bng_Vi%E1%BB%87t_Nam


No comments: