Monday, September 14, 2009
MỤC LÂN, AN LÂN, PHÚ LÂN ?
Mục Lân, An Lân, Phú Lân?
Ðinh Kim Phúc
(Vanchuongviet.org, ngày 1.7.2009)
http://www.vanchuongviet.org/vietnamese/tulieu_tacpham.asp?TPID=10530&LOAIID=17&TGID=814
Trên trang web của Đại sứ quán CHXHCN Việt Nam tại Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, phần Tổng quan về Trung Quốc, trong mục đối ngoại đã viết: “Trung Quốc khẳng định sẽ tiếp tục đi theo con đường phát triển hòa bình, kiên trì mở cửa đối ngoại, sẵn sàng hợp tác cùng có lợi với các nước trên thế giới, trong đó Trung Quốc hết sức coi trọng phát triển quan hệ hợp tác hữu nghị với các nước láng giềng theo phương châm ‘mục lân, an lân, phú lân’(thân thiện với láng giềng, ổn định với láng giềng và cùng làm giàu với láng giềng)”.
Chúng ta thử nhìn xem những gì Trung Quốc nói có tương xứng với những gì Trung Quốc đã làm đối với Việt Nam những ngày gần đây không?
1. Mục lân:
Trung Quốc chính thức cấm đánh bắt tại biển Đông từ 16/05/2009 đến 01/08/2009 và đã điều tám tàu tuần tra để theo dõi giám sát khu vực rộng 128.000 km2 tại đây.
Tần Cương, người phát ngôn của Bộ Ngoại giao Trung Quốc nói đây là “biện pháp hành chính thông thường và đúng đắn”sau khi Thứ trưởng Ngoại giao Việt Nam Hồ Xuân Sơn “giao tiếp” với Đại sứ Trung Quốc tại Việt Nam Tôn Quốc Tường để “lưu ý” ông này về lệnh cấm đánh bắt của Trung Quốc.
Tần Cương nói tiếp: “Trung Quốc áp dụng biện pháp này để bảo vệ tài nguyên biển trong vùng lãnh thổ của mình” và tái khẳng định Trung Quốc có chủ quyền “không thể chối cãi” đối với các đảo thuộc Nam Hải (Biển Đông), bao gồm cả Tây Sa (Hoàng Sa) và Nam Sa (Trường Sa), cùng các vùng biển phụ cận.
Để thể hiện thái độ “mục lân”, ngày 16/6/2009, 37 ngư dân Việt Nam bị lực lượng tuần tra Trung Quốc bắt khi đánh cá gần quần đảo Hoàng Sa và cho đến nay 12 ngư dân đảo Lý Sơn vẫn đang bị Trung Quốc bắt giữ làm con tin tại đảo Phú Lâm (thuộc quần đảo Hoàng Sa chủ quyền của Việt Nam) với “hạn trong 10 ngày phải giao nộp 210.000 nhân dân tệ (khoảng 540 triệu VND) mới được thả về” đang gây bức xúc không chỉ cho ngư dân Lý Sơn, ngư dân Quảng Ngãi mà còn cho tất cả mọi người dân Việt Nam lương thiện và ý thức được chủ quyền quốc gia.
Nhưng căn cứ vào các tin thông tấn quốc tế, Trung Quốc không tỏ thái độ như vậy đối với Indonesia, nước đông dân nhất Asean và Philippines, nước vốn là đồng minh của Hoa Kỳ trong khu vực.
Đông phương Nhật báo, một tờ báo thân Bắc Kinh xuất bản tại Hong Kong, hôm 10/06 bình luận rằng “Lệnh cấm đánh bắt ở Nam Hải của Trung Quốc dò đáy ý chí của Việt Nam”.
Nhà báo Huy Đức đã xác đáng khi nhận xét rằng: “Những hành vi nhắm vào thường dân trên Biển Đông không còn là chuyện riêng của một hay hai quốc gia; không chỉ là pháp lý mà còn là đạo lý. Cộng đồng quốc tế cần phải được thông tin về cách hành xử này; chính người dân Trung Quốc đánh cá trên Biển Đông cũng cần được biết: Việt Nam đã không cư xử với họ như cách mà Chính quyền họ vẫn làm với ngư dân người Việt”.
2. An lân:
Theo báo Giải Phóng Quân ngày 29/6/2009 cho biết đầu tháng 6/2009 không quân Trung Quốc đã tổ chức phân đội chiến đấu, lần đầu tiên diễn tập triển khai tiếp nhiên liệu ngay trên không để bay đến vùng biển xa, tiếp sau đó lại diễn tập thành công tổ chức biên đội chiến đấu cơ có máy bay tiếp nhiên liệu bảo trợ tuần tra viễn hải thành nhiều đợt, nhiều vòng. Đúc rút ra nhiều kinh nghiệm cho các chiến đấu cơ tuần tra viễn hải tại những nơi xa nhất.
Rất nhiều các diễn đàn quân sự của Trung Quốc cũng đã dẫn thuật tuyên bố của bộ tư lệnh hải quân Thái Bình Dương Hoa Kỳ về việc hạm đội hải quân Trung Quốc tiến hành tập trận quy mô lớn, bắn đạn thật trong tháng 5 tại khu vực Biển Đông. Cuộc diễn tập đã huy động 30 chiến thuyền bao gồm 12 tầu ngầm tiên tiến, cùng với sự tham gia của 3500 lính hải quân lục chiến hoàn thành bài tập tác chiến đổ bộ lên các đảo.Tại cuộc diễn tập này hạm đội Nam Hải điều thêm tổng hợp các tàu hộ tống loại mới, khu trục hạm lọai mới nhất, các tàu đổ bộ và bổ sung thêm nhiều biên đội chiến hạm tới khu vực vùng Biển Đông để tham gia tiến hành cuộc tập trận tác chiến cơ động xa bờ kéo dài 17 ngày.
Tờ tạp chí Hoàn Cầu trong tháng này có bài viết nói: Năm nay trong khu vực xung quanh vùng biển Trung Quốc phát sinh hàng loạt sự kiện đột phát hoặc sự kiện giống như phát sinh một cách tình cờ khiến cho năm 2009 biên giới trên biển của Trung Quốc từ đầu năm bắt đầu nổi sóng.
Theo tin tức từ báo Giải Phóng Quân, đầu tháng 6 không quân Trung Quốc đã tổ chức phân đội chiến đấu, lần đầu tiên diễn tập triển khai tiếp nhiên liệu ngay trên không để bay đến vùng biển xa, tiếp sau đó lại diễn tập thành công tổ chức biên đội chiến đấu cơ có máy bay tiếp nhiên liệu bảo trợ tuần tra viễn hải thành nhiều đợt, nhiều vòng, rút ra nhiều kinh nghiệm cho các chiến đấu cơ tuần tra viễn hải ở những vùng biển xa nhất.
Ngày 27 tháng 5 lực lượng cảnh sát biển Trung Quốc tiến hành tuần tra giám sát trên đường trung tuyến giữa Việt Nam và Trung Quốc tại Vịnh Bắc Bộ.
Ngày 12 tháng 6 năm 2009 trong cuộc tập trận mang tên CARAT2009 tại Biển Đông, khu trục hạm Chung Vân trang bị tên lửa Mỹ Bá Khắc tiến hành diễn tập bắn pháo chống hạm 127 mm.
Corterz Cooper, nghiên cứu viên cao cấp về chính sách quốc tế của công ty Research and Development (RAND) trong cuộc họp báo cáo về thẩm tra an ninh và kinh tế Trung Mỹ đã báo cáo về việc xây dựng hiện đại hóa hải quân quân đội Trung Quốc, ông nói rằng, ngoài căn cứ mới Tam Á ở Hải Nam,Trung Quốc đang xây dựng hoặc mở rộng thêm 4 căn cứ hải quân nữa, nhằm đáp ứng yêu cầu xây dựng hải quân.
Cortrz Cooper nói, vấn đề Đài Loan luôn là động lực cơ bản để nhiều năm qua hải quân Trung Quốc phát triển năng lực tác chiến. Trước mắt, hải quân Trung Quốc đã có đủ khả năng thực thi và bao vây kéo dài khu vực Đài Loan, trừ khi Hoa Kỳ và các nước đồng minh có sự can dự bằng vũ lực. Có điều, dù cho Đài Loan có được sự giúp đỡ của thế lực thứ ba, hải quân Trung Quốc vẫn có thể gây thiệt hại nặng nề cho lực lượng hải không quân và huyết mạch kinh tế cảu khu vực Đài Loan.
Hải quân Trung Quốc với sự chi viện thông thường của pháo binh, sẽ làm tăng rủi ro cho biên đội hải quân Hoa Kỳ ở khu vực Thái Bình Dương, có thể ngăn chặn hoặc trì hoãn xung đột ở khu vực. Ngoài ra, nếu đúng như nhà phân tích quân sự phương Tây đã nói, lực lượng tác chiến đã đi vào bố trí thực chiến và được xác định là hình thành sức chiến đấu, như vậy khả năng tác chiến khống chế biển ở khu vực bờ biển của hải quân Trung Quốc sẽ trở thành hiện thực, tàu ngầm của hải quân Trung Quốc sẽ có thể thực hiện bố trí tầm xa trong thời gian dài. Điều này cũng đồng nghĩa với Trung Quốc có thể thực hiện nhiệm vụ tác chiến ngoài 400 dặm Anh ( 640km) ở Đông Hải và biển Đông. Phát triển theo xu thế này, khả năng bố trí của hải quân Trung Quốc rất nhanh sẽ có thể đạt tới 1000 dặm (1.600km) khu vực lân cận.
Năng lực tác chiến của hải quân Trung Quốc phát triển vì để ứng phó với vấn đề Đài Loan có thể dùng để thực hiện các nhiệm vụ quân sự bao gồm việc bảo vệ lợi ích quốc gia liên quan đến Đông Hải và biển Đông. Hải quân Trung Quốc đã tăng cường khả năng thực hiện nhiệm vụ ở khu vực biển này, đồng thời bố trí lực lược đặc biệt tiên tiến ở căn cứ hải quân mới Tam Á, Hải Nam. Ngoài ra, ở quần đảo Hoàng Sa cũng cắm một đơn vị quân đội đặc thù bao gồm cả phân đội hải quân bộ binh, riêng ở đảo Ngũ Địch (tức đảo Vĩnh Hưng) xây dựng một sân bay loại nhỏ, có thể giúp tất cả máy bay chiến đấu của Quân giải phóng cất cánh. Các nhà chiến lược Trung Quốc đang nghiên cứu trọng điểm làm thế nào để bảo vệ an ninh eo biển xuyên Malacca và tuyến đường thương mại và năng lượng ở khu vực biển Đông.
Hải quân Trung Quốc thực hiện tác chiến “chống can dự” và “khống chế biển” ở vùng biển gần bờ và thủy vực xung quanh, chủ yếu dựa vào một lượng lớn thủy lôi tiên tiến và biên đội thủy quân lục chiến. Hải quân Trung Quốc có năng lực rải mìn ở nước sâu, có thể dùng nhiều phương pháp ném thủy lôi và dẫn pháo khác nhau. Quân giải phóng luôn ưu tiên phát triển quân đội tàu ngầm, theo quy hoạch, trong khoảng thời gian từ 2010 – 2012 hải quân Trung Quốc sẽ có khoảng 50 chiếc tàu ngầm hiện đại hóa hoặc cải tiến. Trước mắt, hải quân Trung Quốc có hạm khu trục “cấp hiện đại” của Nga và đang tự chế tạo 8 chiếc hạm khu trục và hạm hộ vệ đẳng cấp khác nhau. Tàu khu trục “Lữ hải” kiểu 051B và tàu khu trục đạn đạo “Lữ dương” do xưởng đóng tàu Giang Nam Thượng Hải chế tạo hiện đang sử dụng có tính năng phòng không rất cao, có thể bổ khuyết cho năng lực phòng không ở khu vực hạm đội trong phương diện bố trí binh lực của hải quân Trung Quốc. Hạm đội hộ vệ kiểu mới của hải quân Trung Quốc dùng rất nhiều kỹ thuật thiết kế tàng hình và phòng không tiên tiến, ngoài ra Trung Quốc đang chế tạo tàu tàng hình đạn đạo kiểu 022 cấp “HOUBEI” có thể là số 1 thế giới với số lượng hơn 50 chiếc. Tàu kiểu 022 là bình đài tác chiến vùng biển ven bờ vô cùng “khôn ngoan”, có thể đảm đương hàng loạt nhiệm vụ tác chiến trên biển,ví dụ lợi dụng đạn đạo để thực hiện nhiệm vụ chống can dự và bao vây khu vực khi có xung đột eo biển Đài Loan hoặc biển Đông, từ đó ngăn chặn hoặc trì hoãn sự can dự của Hoa Kỳ và quân đội đồng minh.
Nhiều nguồn tin tức cho thấy, Trung Quốc đã xây dựng được căn cứ hải quân quan trọng ở Tam Á, Hải Nam. Theo nguồn tin,ở căn cứ này các thiết bị tiên tiến hoàn hảo, có thể bố trí một đơn vị quân đội tác chiến qui mô lớn nhằm cung cấp vũ khí đạn dược và hậu cần cho nó; phía dưới là chỗ vô cùng thuận lợi để tàu ngầm hạt nhân cỡ lớn ẩn náu. Sau khi bố trí tàu ngầm tên lửa đạn đạo hạt nhân 094, nâng cao thêm một bước năng lực tuần tra dưới nước sâu của hải quân Trung Quốc, hơn nữa giúp cho việc thực hiện nhiệm vụ càng trở nên an toàn. Ngoài ra, Trung Quốc đang xây dựng hoặc mở rộng khoảng 4 căn cứ hải quân, những công trình này kinh phí đều vô cùng lớn, điều đó chứng tỏ lãnh đạo Trung Quốc hết sức coi trọng việc đặt nền móng hậu cần vững chắc để ngày càng tăng cường nhiệm vụ quân sự.
Như vậy, chúng ta thấy rằng, gần đây hải quân và không quân Trung Quốc liên tiếp tiến hành tập trận tác chiến viễn hải trong khi đại hội nhân dân toàn quốc Trung Quốc bàn thảo dự luật bảo hộ hải đảo, các trang mạng Trung Quốc liên tiếp có bài về chủ quyền của Trung Quốc tại biển Đông đang bị khiêu khích cho thấy Trung Quốc đang chuẩn bị để cho những khả năng xẩy ra thay đổi tại biển Đông trong tương lai gần.
Trung Quốc đã xây dựng một loạt căn cứ quân sự tại biển Đông và Trung Quốc cũng là quốc gia duy nhất tìm cách phát triển cơ sở hải quân nước sâu để đối trọng Hoa Kỳ. Mục tiêu chính là để bảo vệ eo biển Malacca trong trường hợp xung đột và Hoa Kỳ cấm vận dầu lửa (Eo biển Malacca mang giá trị chiến lược cao vì đa phần dầu thô mà Trung Quốc nhập khẩu cho mình phải qua con đường này. Bắc Kinh lâu nay đã sợ rằng Hoa Kỳ sẽ chặn đường lưu thông qua Malacca nếu quan hệ hai bên xấu đi thí dụ về vấn đề Đài Loan hay một vấn đề nào khác). Các căn cứ ở Nam Hải và tiềm lực hải quân ngày càng mạnh của Trung Quốc cũng mang một nghị trình chiến lược khác chứ không chỉ để bảo vệ con đường hàng hải quan trọng nói trên. Chúng tạo ra một sự “khoanh vùng” của Trung Quốc bao quanh các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa giàu năng lượng.
3. Phú lân:
Trung Quốc sẽ khoan dầu ở biển Đông vào năm 2010, chấm dứt việc tạm ngưng thăm dò nơi đang tranh chấp với Việt Nam - Đó là lời tuyên bố của 2 viên chức Tập đoàn China Petroleum & Chemical Corp, được đăng trên website RIGZONE – mạng thông tin về kỹ nghệ dầu hỏa và khí đốt hôm thứ Ba, 16/6/2009 và được báo Wall Street Journal dẫn lại ngày 17/06/2009.
Theo các tin đã dẫn, hãng Sinopec đã bắt đầu thăm dò 3 chiều điạ chấn ở vùng rộng 1.250km2 ở vùng họ đặt tên là Quỳnh Đông Nam (Qiongdongan), và công tác khoan dầu sẽ thực hiện sau đó.
Hãng Sinopec có giấy phép từ Bắc Kinh để thăm dò hơn 8.000 km2 ở vùng này, Sinopec nói: “kể cả một số lô trong vùng biển mà VN đang tranh chấp chủ quyền. Tuy nhiên, thăm dò sẽ thực hiện ở vùng không tranh chấp”.
Theo chương trình thì hoạt động khảo sát này đã được thực hiện từ năm 2008. Nhưng chính phủ đã có lệnh trì hoãn do hoạt động thăm dò của Tập đoàn Dầu khí Trung Quốc (PetroChina) có tranh chấp với Việt Nam ở khu vực bể trầm tích Tư Chính-Vũng Mây trên biển Đông. Trung Quốc đã tránh đối đầu với Việt Nam để tổ chức Đại hội Olympic.
Theo các quan chức đó cho biết, trước đó tập đoàn đã tiến hành khảo sát địa chấn hai chiều (2D) trên diện tích 8000 km23 khí gas. Theo đánh giá khảo sát và ước tính, đối với Trung Quốc đây có thể là khu vực khai thác dầu khí ngoài khơi lớn nhất. Tuy vậy nhưng lượng khai thác chỉ đạt được khoảng 30% tức khoảng 240 tỷ mét khối. và ước tích khoảng 800 tỷ m
Cho đến nay Trung Quốc chỉ có khu mỏ khai thác dầu khí Liwan, là mỏ khí gas ngoài khơi lớn nhất ước tính đạt khoảng 112 đến 168 tỷ mét khối.
Tiến sĩ Trần Vinh Dự, chuyên gia tư vấn của Tập đoàn tư vấn kinh tế ERSGroup (Mỹ) và là cố vấn của Quỹ nghiên cứu biển Đông cho biết dựa theo bản đồ đi kèm bài báo kể trên thì vùng mà Sinopec định khai thác nằm rất sát với Việt Nam và chắc chắn là chồng lấn lên vùng thềm lục địa và thềm lục địa mở rộng của Việt Nam.
Theo Tiến sĩ Trần Vinh Dự, những diễn tiến này cho thấy rằng Việt Nam đang phải đối mặt với một thực trạng nguy hiểm – không phải là nguy cơ mất các đảo thuộc quần đảo Trường Sa, mà là nguy cơ đánh mất quyền kiểm soát và khai thác các nguồn tài nguyên trong các vùng biển thuộc chủ quyền của mình. Ông nói thêm rằng có một điều đáng sợ hơn nữa là dường như cho đến nay Việt Nam vẫn chưa tìm ra được một đối sách hợp lý để đáp lại những hành vi của Trung Quốc.
Đáp lại các thông tin trên, ngày 18/6/2009, ông Trương Trị Quốc, quản lý truyền thông cấp cao của Sinopec đã phát biểu trên tờ Thời báo Toàn cầu đã bác bỏ các thông tin nói trên. Tờ báo này cho biết đã gọi đến đại sứ quán Việt Nam ở Bắc Kinh để hỏi thông tin này nhưng chưa nhận được phúc đáp (nhưng đến chiều 18.6, website của Sinopec vẫn không đưa tin về sự kiện này, kể cả lời bác bỏ của ông Trương Trị Quốc).
Vậy Trung Quốc có kế hoạch khai thác dầu ở biển Đông hay không?
Trả lời phỏng vấn của Tân Hoa Xã bên lề phiên họp Đại Hội toàn quốc lần thứ 11 của Trung Quốc, ông Giả Thừa Tạo, nguyên phó giám đốc công ty khí Trung Quốc Sinopec đã nói rằng: “Hiện tại Trung Quốc đã có đủ khả năng về kỹ thuật để tiến hành khai thác các giếng dầu tại biển Đông, điều cần thiết hiện nay đó là sự quan tâm của Chính phủ cũng như sự ủng hộ của cơ chính sách chính phủ”, “Trung Quốc nên tăng cường các chính sách đầu tư khai thác vào các tài nguyên trên biển Đông, nhằm ‘bảo vệ’ cho lợi ích trên biển của Trung Quốc”.
Ông Trần Miễn – một giáo sư thuộc Đại học Dầu khí Trung Quốc cho biết, giá trị của lượng dầu thô trên biển Đông có thể tương đương với hơn 20.000 tỷ Nhân dân tệ. Tương lai trong vòng hai thập kỷ nữa khi khai thác được nguồn vàng đen này trên biển Đông, đó có thể sẽ là một “cống hiến” to lớn đối với GDP của Trung Quốc. Nhưng việc thăm dò các giếng dầu này tại biển Đông cần có yêu cầu kỹ thuật cao, vì rủi ro tiềm ẩn cũng không nhỏ.
Nhận định của các chuyên gia Trung Quốc, hiện tại nguồn tài nguyên của Trung Quốc đại lục là rất khan hiếm, không ít các mỏ dầu của Trung Quốc đại lục đã được khai thác từ ba thập niên qua, cũng sắp rơi vào thời kỳ thoái trào. Vì vậy mà, “ngành năng lượng của Trung Quốc cần dựa vào biển”.
Trong mọi vấn đề Trung Quốc thường có những suy tính sâu xa. Việc có hay không có dầu ở biển Đông và kỹ thuật của Trung Quốc có cho phép họ khai thác dầu ở biển Đông hay không, chắc chưa phải là điều quan trọng bậc nhất. Trong tất cả những động thái kiểu như thế này của người Trung Quốc, thì cái đích mà họ muốn nhắm tới là việc “từng bước gieo vào lòng người dân cũng như dư luận thế giới một cảm giác coi biển Đông là sở hữu của riêng họ”, bất chấp những sự thực hiển nhiên là Trung Quốc hiện vẫn đang xâm phạm chủ quyền các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam!
Trên tạp chí Journal of Energy Security, tức Tạp chí An ninh năng lượng, bài viết nhan đề “China’s Oil Supply Dependence” (Tình hình lệ thuộc nguồn dầu của TQ) đăng ngày 18/06/2009 của tác giả David L.O. Hayward cho biết rằng sẽ dễ dàng xảy ra tình hình Trung Quốc sử dụng sức mạnh quân sự để chiếm các nguồn dầu.
David L. O. Hayward là phân tích gia quốc phòng của Royal United Services Institute (RUSI) of Australia Inc., tại Canberra, Australia. Nơi các đoạn cuối bài viết, là tóm lược các nhận xét như sau:
Các công ty dầu Trung Quốc đã đầu tư vào các liên doanh ở hơn 20 quốc gia tại Bắc Phi, Trung Á, Đông Nam Á, Mỹ Latin và Bắc Mỹ. Tổng lượng đầu tư này, gồm các khoản mua ào ạt các mỏ dầu và khí và các công ty dầu khí toàn cầu, ước tính dè dặt là 40 tỉ USD, “nhưng con số thực nhiều phần sẽ cao hơn”.
Tại sao Trung Quốc phải đi mua tài nguyên dầu khí ào ạt như thế? Hayward đưa ra các lý do sau, không nhất thiết ghi theo thứ tự ưu tiên.
Thứ nhất, Trung Quốc muốn tiếp tục làm vai trò cơ xưởng khổng lồ sản xuất hàng tiêu dùng, vừa nâng tiêu chuẩn sống của dân và vừa đáp ứng nhu cầu nội địa. Trung Quốc có thị trường tiêu thụ lớn nhất thế giới, tới hơn 1.3 tỉ khách hàng.
Thứ nhì, Trung Quốc muốn tiếp tục xuất cảng ào ạt sản phẩm ra toàn cầu, để tiếp tục đóng vai nước xuất cảng hàng đầu thế giới và chiếm thị trường.
Thứ ba, Trung Quốc muốn tự quân bình kinh tế và ước mơ tăng sức phát triển.
Thứ tư, Trung Quốc tự xem Trung Quốc như lãnh đạo của trật tự kinh tế thế giới mới, để sẽ trở thành nền kinh tế hàng đầu vào năm 2020-2030, và sẽ chiếm vị trí khống chế về tình hình thế giới và địa-chính trị, tương lai phải khống chế phương Tây.
Thứ năm, với trữ lượng ngoại hối 1,95 ngàn tỷ USD, Trung Quốc sẽ không bao giờ còn có cơ hội vàng khác nữa để mua các nguồn dầu khí và tài nguyên mỏ khác của thế giới với giá rẻ như hiện nay.Và bây giờ, thực tế là Ngân hàng nhân dân Trung Quốc gần như trở thành thực tiễn là ngân hàng thế giới và là “thách thức nghiêm trọng đối với Quỹ Tiền tệ quốc tế- IMF, đối với đồng Mỹ kim của khối Ả Rập có nhờ bán dầu, và đối với các định chế tài chánh ngoài Trung Quốc”. Trị giá thấp giả tạo của đồng Yuan đã giúp Trung Quốc mau chóng gom đô la vào kho ngoại hối. Thế này, các nước Âu-Mỹ đã bị Trung Quốc phục kích về tài chính rồi.
Thứ sáu, Trung Quốc đi mua ào ạt tài nguyên dầu khí và các mỏ khác bởi vì tài nguyên thế giới có lúc phải cạn.
Thứ bảy, Trung Quốc muốn tăng lượng dầu dự trữ chiến lược. Giai đoạn đầu tiên của kho trữ dầu chiến lược Trung Quốc sẽ hoàn tất năm 2009, sẽ trữ 100 triệu thùng (barrels) dầu (m/bo). Giai đoạn thường niên thứ nhì dự kiến là giữ 200 m/bo, và tăng dần để trữ lượng vượt quá 500 m/bo khoảng sau năm 2013. Trữ được dầu như thế, Trung Quốc có khả năng mở các cuộc chiến tranh quy ước truyền thống mà không cần sử dụng tới vũ khí nguyên tử hay các vũ khí hủy diệt tập thể. Như thế, các nước phương Tây kể như bất lợi về chiến thuật và có thể sẽ buộc phải dùng vù khí nguyên tử trước nhằm ngăn cản bước tiến Trung Quốc.
Thứ tám, Trung Quốc có chương trình tăng tốc quân sự, hiện đại hóa quân đội và thiết lập hải quân vùng biển nước xanh (biển xa bờ) nhằm bảo vệ các tuyến đường biển chở dầu khí về Trung Quốc. Hoa Kỳ nói chương trình này của Trung Quốc trong bản chất có tính tự vệ, nhưng nhiều học giả không đồng ý về bản chất “hiếu hòa” này.
Đoạn cuối của bản nghiên cứu của tác giả Hayward viết: “Lịch sử đôi khi cho thấy rằng các nước thường dự trữ dầu khí (và các tài nguyên năng lượng khác) nhằm sửa soạn các cuộc chiến khu vực và các xung đột có thể có với các nước đối thủ và các nước kình nhau cũng đang đói năng lượng. Trong bầu không khí ngày càng tệ hại, với khủng hoảng tài chánh tiếp diễn, với ngày càng cạn dần nguồn dầu, khả năng xảy ra cuộc chạm trán quân sự trong thế kỷ 21-22 trong đó dầu có thể đóng một vai đã tăng cao hơn nhiều.”
Có một chi tiết cần quan tâm, ngày 23/6/2009, Đài phát thanh quốc tế Trung Quốc loan báo hiện nay, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội Trung Quốc đang xem xét dự án Luật Bảo vệ hải đảo. Trong dự án luật lần đầu tiên đưa ra xem xét này, có các nội dung như giải quyết vấn đề chủ quyền không rõ của hải đảo không có người ở, nghiêm khắc bảo vệ các tài nguyên bãi cát, giống sinh vật, thảm thực vật, nước ngọt hải đảo, nêu rõ nhà nước sẽ sắp xếp ngân sách chuyên môn bảo vệ hải đảo, xây dựng chế độ tuần tra bảo vệ sinh thái hải đảo. Bộ luật này bước vào trình tự lập pháp, đánh dấu là nước biển lớn, Trung Quốc sẽ lập pháp tăng cường bảo vệ nguồn hải đảo.
Một trong những nội dung quan tâm nhất của dự án luật, là đã giải quyết vấn đề chủ quyền không rõ của hải đảo không có người ở. Dự án luật quy định rõ ràng, quyền sở hữu hải đảo không có người ở là thuộc về nhà nước, Quốc vụ viện thay mặt nhà nước thi hành quyền sở hữu hải đảo không có người ở. Điều này sẽ giải quyết vấn đề trước đây một số đơn vị và cá nhân coi hải đảo không có người ở là “đất không có chủ”, tuỳ ý chiếm dụng, sử dụng, mua bán và chuyển nhượng…
Kết luận:
Nước thì xa mà lửa thì gần, xem ra làm chư hầu của Trung Quốc thì dễ, chứ còn làm láng giềng tốt thì rất khó. Chúng ta hãy nhớ câu nói nổi tiếng của Julius Fucík, tác giả của tác phẩm bất hủ “Viết dưới giá treo cổ”: “Hỡi nhân loại, tôi yêu tất cả mọi người… hãy cảnh giác!”.
Ðinh Kim Phúc
Subscribe to:
Post Comments (Atom)
No comments:
Post a Comment