Wednesday, March 18, 2009

CÁC NGUYÊN LÝ CỦA NỀN PHÁP QUYỀN

CÁC NGUYÊN LÝ CỦA NỀN PHÁP QUYỀN
Ấn phẩm IIP, tháng 2 năm 2004 của Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Việt Nam


LỜI GIỚI THIỆU

Trang này bao gồm 15 bài trong một ấn phẩm mới, được in một mặt, về những nguyên tắc cơ bản của dân chủ do Văn phòng các Chương trình Thông tin Quốc tế xuất bản. Tất cả các bài viết ngắn này đều được in bằng tiếng Anh, Arập, Trung Quốc, Pháp, Ba Tư, Bồ Đào Nha, Nga và Tây Ban Nha.
Mặc dù thuật ngữ “dân chủ” phổ biến khắp mọi nơi trên thế giới ngày nay, nhưng giải thích nó là gì thật chẳng dễ dàng. Ấn phẩm này cung cấp cho độc giả một bài tổng quan và sau đó chia các thành tố cụ thể của quản lý dân chủ thành những chủ đề riêng rẽ. Mỗi bài trong ấn phẩm này đều phản ánh tư tưởng của các nhà lý luận chủ đạo và những thực tiễn phổ biến ở nhiều xã hội tự do mà giờ đây đang phát triển theo hệ thống quản lý dân chủ.
Bạn có câu hỏi gì về dân chủ? Bạn muốn gợi ý về một chủ đề nào không? Hãy gửi ý kiến hoặc gợi ý tới địa chỉ iiptcp@state.gov

TỔNG QUAN: Dân chủ là gì?
Thuật ngữ dân chủ có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp, “demos” có nghĩa là nhân dân. Ở các nền dân chủ, nhân dân là người có quyền tối cao đối với các nhà lập pháp và chính phủ.
Mặc dù các nền dân chủ trên thế giới mang sắc thái khác nhau nhưng vẫn có những nguyên tắc và thực tiễn nhất định để phân biệt một chính phủ dân chủ với các hình thức chính phủ khác.
Dân chủ là chính phủ trong đó tất cả công dân sử dụng quyền lực và thực hiện trách nhiệm công dân một cách trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua những đại diện được bầu lên một cách tự do.
Dân chủ là một loạt các nguyên tắc và thực tiễn bảo vệ quyền tự do của con người; đó là sự thể chế hoá quyền tự do.
Dân chủ dựa trên nguyên tắc đa số, cùng với quyền của cá nhân và các nhóm thiểu số. Tất cả các nền dân chủ khi tôn trọng ý chí của đa số cũng đồng thời bảo vệ nghiêm chỉnh các quyền cơ bản của cá nhân và các nhóm thiểu số.
Các nền dân chủ chống lại các chính phủ trung ương tập quyền và phi tập trung hoá chính quyền ở cấp độ khu vực và địa phương, vì rằng nhân dân phải được tiếp cận chính quyền địa phương và chính quyền địa phương phải đáp ứng nhân dân một cách tốt nhất có thể.
Các nền dân chủ hiểu rằng một trong những chức năng cơ bản của họ là bảo vệ những quyền cơ bản của con người như tự do ngôn luận và tôn giáo; quyền được bảo vệ bình đẳng theo pháp luật; được tổ chức và tham gia đầy đủ vào đời sống chính trị, kinh tế và văn hoá của xã hội.
Các nền dân chủ tiến hành đều đặn các cuộc bầu cử công bằng và tự do cho tất cả công dân. Các cuộc bầu cử ở một nền dân chủ không thể là vỏ bọc che đậy cho những kẻ độc tài hay một đảng nào mà bầu cử là những cuộc cạnh tranh đích thực nhằm dành được sự ủng hộ của nhân dân.
Dân chủ buộc các chính phủ phải tuân thủ pháp quyền và đảm bảo rằng tất cả công dân đều được bảo vệ bình đẳng trước pháp luật và các quyền của họ được hệ thống pháp luật bảo vệ.
Các nền dân chủ rất đa dạng, phản ánh đời sống chính trị, xã hội và văn hoá riêng biệt của mỗi nước. Các nền dân chủ dựa trên những nguyên tắc cơ bản chứ không phải những thực tiễn mang tính đồng nhất.
Công dân ở một nền dân chủ không những có quyền mà còn có nghĩa vụ tham gia vào hệ thống chính trị và đổi lại hệ thống chính trị đó bảo vệ các quyền và tự do cho họ.
Các xã hội dân chủ cam kết với các giá trị khoan dung, hợp tác và thoả hiệp. Các nền dân chủ nhận thấy rằng để đạt được sự đồng thuận đòi hỏi phải thoả hiệp và điều đó không phải lúc nào cũng có thể đạt được. Theo lời của Mahatma Gandhi “bản thân sự không khoan dung là một hình thức bạo lực và là cản trở đối với sự phát triển tinh thần dân chủ thực sự”.

NGUYÊN TẮC ĐA SỐ,
QUYỀN CỦA CÁC NHÓM THIỂU SỐ

Mặc dù nguyên tắc đa số và việc bảo vệ các quyền của cá nhân và các nhóm thiểu số bề ngoài có vẻ mâu thuẫn nhau nhưng trên thực tế đây lại là hai trụ cột nền tảng của cái mà chúng ta gọi là chính phủ dân chủ.
Nguyên tắc đa số là một biện pháp để tổ chức chính phủ và quyết định các vấn đề chung; nguyên tắc đa số không phải là một con đường khác dẫn tới sự áp bức. Khi không một nhóm tự phong nào có quyền áp bức người khác thì nhóm đa số, ngay cả trong một nền dân chủ cũng vậy, cũng không được phép tước bỏ các quyền và sự tự do cơ bản của một cá nhân hay một nhóm thiểu số.
Các nhóm thiểu số dù có nguồn gốc sắc tộc, tín ngưỡng tôn giáo, vị trí địa lý, mức độ thu nhập khác nhau, hay đơn giản họ là những người thất bại trong các cuộc bầu cử hoặc các cuộc tranh cãi chính trị, đều được hưởng những quyền con người cơ bản được bảo vệ mà không chính phủ nào, không nhóm đa số nào, dù được bầu lên hay không, có thể tước bỏ.
Các nhóm thiểu số cần tin rằng chính phủ sẽ bảo vệ các quyền và bản sắc của họ. Một khi điều đó được thực hiện thì các nhóm đó có thể tham gia và đóng góp cho các thể chế dân chủ của đất nước họ.
Trong số các quyền cơ bản của con người mà bất cứ chính phủ dân chủ nào cũng phải bảo vệ có quyền tự do ngôn luận và bày tỏ; tự do tôn giáo tín ngưỡng; quyền được xét xử theo đúng quy trình và được bảo vệ bình đẳng trước pháp luật; quyền được tự do tổ chức, phát biểu, bất đồng chính kiến và tham gia đầy đủ vào đời sống chung của xã hội.
Các nền dân chủ hiểu rằng một trong những nhiệm vụ cơ bản của họ là bảo vệ quyền của các nhóm thiểu số nhằm gìn giữ bản sắc văn hoá, các tập tục xã hội, lương tri cá nhân và các hoạt động tôn giáo.
Một trong những thách thức lớn nhất mà bất cứ chính phủ dân chủ nào cũng có thể phải đối mặt chính là việc chấp nhận các nhóm sắc tộc và văn hoá có vẻ như xa lạ nếu không muốn nói là ngoại đạo đối với nhóm đa số. Tuy nhiên, các nền dân chủ nhận thức được rằng sự đa dạng có thể lại là một tài sản lớn lao. Họ nhìn nhận những khác biệt này về bản sắc, văn hoá và các giá trị như một thách thức có thể củng cố và làm phong phú thêm các nền dân chủ chứ không phải là một mối đe doạ.
Có thể không có đáp án duy nhất cho bài toán giải quyết như thế nào những khác biệt về quan điểm và các giá trị của nhóm thiểu số, nhưng có điều chắc chắn là chỉ có thông qua quá trình dân chủ khoan dung, tranh luận và sẵn sàng thoả hiệp thì các xã hội tự do mới đạt được sự nhất trí bao hàm cả hai trụ cột: nguyên tắc đa số và quyền của các nhóm thiểu số.

QUAN HỆ DÂN SỰ-QUÂN SỰ
Vấn đề chiến tranh và hòa bình là những vấn đề quan trọng nhất mà bất cứ dân tộc nào cũng có thể phải đối mặt, và trong những thời điểm khủng hoảng nhiều quốc gia đã nhường quyền lãnh đạo cho giới quân sự.
Nhưng ở các nền dân chủ thì không.
Ở các nền dân chủ, vấn đề chiến tranh và hòa bình hay những mối đe dọa khác đối với an ninh quốc gia là những vấn đề quan trọng nhất mà một xã hội phải đối mặt, và bởi vậy nó phải do nhân dân quyết định thông qua những đại diện đã được bầu lên. Một quân đội dân chủ sẽ phục vụ quốc gia chứ không phải lãnh đạo quốc gia. Các tướng lĩnh trong quân đội cố vấn cho các nhà lãnh đạo và thực hiện những quyết định của họ. Chỉ những ai được nhân dân bầu lên mới có quyền và trách nhiệm quyết định số phận của dân tộc.
Do vậy ý tưởng về sự kiểm soát và quyền lực của chính quyền dân sự đối với quân sự là vấn đề cơ bản của dân chủ.
Các nhà chức trách dân sự cần chỉ đạo quân đội quốc gia của họ và quyết định những vấn đề phòng thủ quốc gia. Đó không phải là do họ sáng suốt hơn các nhà chuyên môn quân sự mà là vì họ là đại diện của nhân dân và như vậy họ có trách nhiệm đưa ra những quyết định này và phải chịu trách nhiệm về chúng.
Ở một nền dân chủ quân đội tồn tại là để bảo vệ quốc gia và tự do của nhân dân. Quân đội không đại diện hay ủng hộ cho bất cứ quan điểm chính trị hoặc nhóm sắc tộc và xã hội nào. Sự trung thành của quân đội dành cho những ý tưởng lớn hơn về dân tộc, pháp quyền và chính nguyên tắc dân chủ.
Kiểm soát dân sự đảm bảo rằng các giá trị của quốc gia, các thể chế và chính sách là sự lựa chọn tự do của nhân dân chứ không phải của quân đội. Mục đích của quân đội là bảo vệ xã hội chứ không phải là xác định nó.
Bất cứ chính phủ dân chủ nào cũng đánh giá cao chuyên môn và sự cố vấn của các chuyên gia quân sự trong việc đưa ra các quyết sách về phòng thủ và an ninh quốc gia. Các quan chức dân sự dựa vào quân đội để được tư vấn chuyên môn về những vấn đề này và thực hiện các quyết định của chính phủ. Tuy nhiên, chỉ giới lãnh đạo dân sự được bầu lên mới được đưa ra những quyết sách cuối cùng và quân đội thi hành những quyết định đó trong phạm vi của mình.
Dĩ nhiên các tướng lĩnh có thể tham gia đầy đủ và bình đẳng vào đời sống chính trị của đất nước giống như bất cứ công dân nào khác, nhưng chỉ với tư cách cử tri. Nếu muốn tham gia chính trị trước hết quân nhân phải giải ngũ; binh nghiệp phải tách rời chính trị. Quân đội là công bộc trung lập của nhà nước và là những người bảo vệ xã hội.
Cuối cùng, kiểm soát dân sự đối với quân sự đảm bảo rằng các vấn đề phòng thủ và an ninh quốc gia không làm tổn hại đến những giá trị dân chủ cơ bản đó là nguyên tắc đa số, quyền của các nhóm thiểu số và tự do ngôn luận, tự do tôn giáo và quyền được xét xử theo quy trình tố tụng đúng. Trách nhiệm của tất cả các nhà lãnh đạo chính trị là tăng cường kiểm soát dân sự và trách nhiệm của quân đội là tuân thủ những mệnh lệnh hợp pháp của các nhà chức trách dân sự.

CÁC ĐẢNG PHÁI CHÍNH TRỊ
Để gìn giữ và bảo vệ các quyền và tự do cá nhân, một dân tộc dân chủ phải hợp tác để định hình chính phủ do họ lựa chọn. Cách thức chính để thực hiện điều đó là thông qua các đảng phái chính trị.
Các đảng phái chính trị là các tổ chức tự nguyện liên kết nhân dân và chính phủ. Các đảng phái chính trị tuyển các ứng cử viên và vận động bầu họ vào các chức vụ công, và huy động nhân dân tham gia lựa chọn các nhà lãnh đạo chính phủ.
Đảng chiếm đa số (hay đảng được bầu lên để kiểm soát các chức vụ trong chính phủ) muốn ban hành thành luật một số chính sách và chương trình khác nhau. Các đảng đối lập tự do phê phán những ý tưởng chính sách của đảng chiếm đa số và đưa ra những đề xuất riêng của mình.
Các đảng phái chính trị mang đến cho công dân cách thức buộc các quan chức của đảng được bầu lên phải chịu trách nhiệm về những hành động của họ trong chính phủ.
Các đảng phái chính trị dân chủ tin vào những nguyên tắc dân chủ từ đó họ nhận thức được và tôn trọng quyền lực của chính phủ được bầu lên, ngay cả khi lãnh đạo của đảng họ không nắm quyền.
Giống như bất cứ nền dân chủ nào, thành viên của các đảng phái chính trị phản ánh sự đa dạng của các nền văn hóa mà trong đó họ xuất hiện. Một số đảng phái nhỏ được xây dựng trên cơ sở một loạt niềm tin chính trị. Các đảng phái khác được thành lập vì những lợi ích kinh tế hoặc cùng chung lịch sử. Các đảng khác nữa lại là những liên minh lỏng lẻo của công dân, họ có thể chỉ liên kết lại với nhau vào thời điểm bầu cử.
Tất cả các đảng phái chính trị dân chủ dù là các phong trào nhỏ hay các liên minh quốc gia lớn, đều chia sẻ giá trị thỏa hiệp và khoan dung. Họ biết rằng chỉ có thông qua các liên minh rộng lớn và hợp tác với các đảng phái chính trị và các tổ chức khác họ mới có thể lãnh đạo và có tầm nhìn chung để giành được sự ủng hộ của nhân dân trong nước.
Các đảng phái dân chủ nhận thức được rằng quan điểm chính trị là dễ thay đổi và có thể thay đổi được, và trong cuộc tranh luận hòa bình, tự do và công khai họ có thể đạt được sự đồng thuận từ những đụng độ về ý tưởng và giá trị.
Khái niệm đối lập trung thành là trọng tâm đối với bất kỳ nền dân chủ nào. Khái niệm đó có nghĩa là tất cả các bên trong cuộc tranh cãi chính trị-dù họ có những khác biệt sâu sắc đến đâu-đều chia sẻ những giá trị dân chủ cơ bản đó là tự do ngôn luận và tự do tín ngưỡng, quyền được bảo vệ bình đẳng trước pháp luật. Các đảng thất cử sẽ trở thành các đảng đối lập, nhưng họ tin rằng hệ thống chính trị sẽ tiếp tục bảo vệ quyền được tổ chức và phát biểu của họ. Theo thời gian, đảng của họ sẽ có cơ hội để tái vận động cho những ý tưởng của mình và giành lá phiếu của nhân dân.
Trong một nền dân chủ, cuộc đấu tranh giữa các đảng phái chính trị không phải là một cuộc chiến sinh tử mà là một cuộc cạnh tranh để phục vụ nhân dân.

TRÁCH NHIỆM CÔNG DÂN
Không giống như chế độ độc tài, chính phủ dân chủ tồn tại để phục vụ nhân dân, nhưng công dân ở các nền dân chủ cũng phải đồng ý tuân thủ những nguyên tắc và nghĩa vụ mà theo đó họ bị quản lý. Các nền dân chủ trao nhiều quyền tự do cho công dân họ bao gồm quyền tự do được có quan điểm bất đồng và phê phán chính phủ.
Tư cách công dân trong một nền dân chủ đòi hỏi sự tham gia, sự lịch sự và thậm chí cả sự kiên nhẫn.
Công dân ở các nền dân chủ nhận thức được rằng họ không chỉ có quyền mà còn có nghĩa vụ. Họ nhận thức được rằng nền dân chủ đòi hỏi đầu tư thời gian và công sức, một chính phủ của nhân dân luôn phải thận trọng và phải được nhân dân ủng hộ.
Theo một số chính phủ dân chủ, sự tham gia của công dân có nghĩa là công dân được yêu cầu tham gia bồi thẩm đoàn, thực hiện nghĩa vụ quân sự hoặc dân sự trong một thời hạn nhất định. Những nghĩa vụ khác áp dụng đối với tất cả các nền dân chủ và là những trách nhiệm duy chỉ của công dân, và chủ đạo trong số này là việc tôn trọng pháp luật. Những ví dụ khác về trách nhiệm công dân bao gồm trả mức thuế công bằng, chấp nhận quyền lực của chính phủ được bầu lên và tôn trọng các quyền của những người có quan điểm khác.
Công dân ở một nền dân chủ biết rằng họ phải chịu gánh nặng trách nhiệm đối với xã hội nếu họ muốn hưởng lợi từ việc bảo vệ các quyền của họ.
Có một câu nói ở các xã hội tự do: bạn có một chính phủ mà bạn đáng được hưởng. Để nền dân chủ thành công, các công dân phải chủ động chứ không được thụ động, bởi vì họ biết rằng sự thành công hay thất bại của chính phủ là trách nhiệm của họ chứ không phải ai khác. Đổi lại, các quan chức chính phủ hiểu rằng tất cả công dân đều phải được đối xử bình đẳng và tham nhũng không có chỗ trong một chính phủ dân chủ.
Trong một hệ thống dân chủ, nếu nhân dân không hài lòng về các nhà lãnh đạo, họ có quyền tự do tổ chức và thay đổi một cách hòa bình, hoặc bỏ phiếu bãi nhiệm các nhà lãnh đạo đó vào thời điểm ấn định các cuộc bầu cử.
Để vững mạnh các nền dân chủ còn cần nhiều hơn chứ không chỉ dừng lại ở việc bỏ phiếu của công dân. Họ cần được quan tâm đều đặn, cần có thời gian và sự cam kết của số đông công dân, ngược lại công dân lại trông chờ chính phủ bảo vệ các quyền và tự do cho họ.
Công dân ở một nền dân chủ tham gia các đảng phái chính trị và vận động tranh cử cho các ứng cử viên mà họ lựa chọn. Họ chấp nhận thực tế rằng đảng của họ không phải lúc nào cũng nắm quyền.
Họ được tự do chạy đua vào các chức vụ hoặc phục vụ với tư cách các quan chức nhà nước được chỉ định trong một thời hạn nhất định.
Họ sử dụng báo chí tự do để phát biểu về những vấn đề của địa phương và quốc gia.
Họ tham gia các liên đoàn lao động, các nhóm cộng đồng và các hiệp hội doanh nghiệp.
Họ tham gia các tổ chức tư nhân tự nguyện có chung mối quan tâm về tôn giáo, văn hóa sắc tộc, nghiên cứu học thuật, thể thao, nghệ thuật, văn học, cải thiện chỗ ở, trao đổi sinh viên quốc tế, hoặc hàng trăm hoạt động khác.
Tất cả những nhóm này, dù gắn bó hay xa cách chính phủ đều đóng góp vào sự phong phú và vững mạnh của nền dân chủ.

BÁO CHÍ TỰ DO
Trong một nền dân chủ báo chí phải được hoạt động tự do không chịu sự kiểm soát của chính phủ. Các chính phủ dân chủ không có bộ thông tin nhằm kiểm soát nội dung báo chí hoặc hoạt động của các phóng viên; không có những yêu cầu đòi các phóng viên phải bị nhà nước kiểm soát, hoặc buộc phóng viên phải tham gia các liên đoàn do chính phủ kiểm soát.
Báo chí tự do thông tin cho công chúng, buộc các nhà lãnh đạo phải có trách nhiệm và là một diễn đàn tranh luận về các vấn đề của quốc gia và địa phương.
Các nền dân chủ thúc đẩy sự tồn tại của báo chí tự do. Một cơ quan tư pháp độc lập, xã hội dân sự với pháp quyền, và tự do ngôn luận tất cả đều hỗ trợ cho báo chí tự do. Báo chí tự do phải được bảo vệ về mặt luật pháp.
Ở các nền dân chủ chính phủ phải chịu trách nhiệm về những hành động của mình. Bởi vậy, công dân phải được biết về những quyết định mà các chính phủ đưa ra nhân danh họ. Báo chí thúc đẩy “quyền được biết” này, với tư cách là cơ quan giám sát chính phủ, giúp công dân bắt chính phủ phải chịu trách nhiệm và chất vấn các chính sách của chính phủ. Các chính phủ dân chủ cho phép các phóng viên tiếp cận các hội nghị và các tài liệu công khai. Các chính phủ không hạn chế trước những gì các nhà báo có thể nói hoặc viết.
Bản thân báo chí cũng phải hành động đáp lại. Thông qua các hiệp hội chuyên môn, các hội đồng báo chí độc lập và “cơ quan giám sát”, các nhà phê bình trong ngành-những người tiếp thu khiếu nại của công chúng, báo chí phải có phản hồi trước những khiếu nại về sự thái quá của mình và chịu trách nhiệm nội bộ.
Nền dân chủ đòi hỏi công chúng phải chọn lựa và đưa ra quyết định. Để công chúng tin tưởng giới báo chí, các phóng viên phải đưa tin đúng dựa trên các nguồn và thông tin đáng tin cậy. Hành động ăn cắp tin và đưa tin sai sự thật sẽ làm phản tác dụng báo chí tự do.
Các cơ quan báo chí phải thành lập ban biên tập riêng, không chịu sự kiểm soát của chính phủ, để tách riêng việc thu thập thông tin và phân tích thông tin khỏi các quá trình biên tập.
Các phóng viên không nên bị cuốn theo công luận, mà phải theo đuổi sự thật ở mức đúng nhất có thể. Một nền dân chủ cho phép báo chí thu thập và đưa tin mà không phải sợ hãi hay có sự ưu đãi của chính phủ.
Các nền dân chủ thúc đẩy một cuộc chiến không bao giờ kết thúc giữa hai quyền: Nghĩa vụ bảo vệ an ninh quốc gia của chính phủ và quyền được biết của nhân dân, dựa trên khả năng tiếp cận thông tin của phóng viên. Đôi khi các chính phủ cần hạn chế việc tiếp cận những thông tin được xem là quá nhạy cảm nếu phổ biến rộng rãi. Tuy nhiên, phóng viên ở các nền dân chủ có thể thoải mái tìm kiếm những thông tin đó.

CHỦ NGHĨA LIÊN BANG
Khi các nhóm người tự do có ngôn ngữ, tín ngưỡng tôn giáo hoặc chuẩn mực văn hóa khác nhau sống theo một khung hiến pháp được nhất trí, họ đều mong muốn có một mức độ tự trị địa phương nhất định cùng với những cơ hội kinh tế và xã hội bình đẳng. Hệ thống chính phủ liên bang trong đó quyền lực được chia sẻ theo cấp độ địa phương, khu vực và quốc gia, trao quyền cho các quan chức được bầu lên, những người thiết kế và quản lý chính sách nhằm đáp ứng nhu cầu địa phương và khu vực. Họ hợp tác với chính phủ quốc gia và cùng nhau giải quyết nhiều vấn đề mà quốc gia phải đối mặt.
Chủ nghĩa liên bang là một hệ thống trong đó quyền lực và việc hoạch định chính sách được chia sẻ giữa hai hay nhiều chính phủ được bầu lên một cách tự do, những chính phủ này có quyền lực chung đối với cùng người dân và khu vực địa lý. Chủ nghĩa liên bang mang đến và bảo vệ khả năng hoạch định chính sách nơi mà kết quả được thấy ngay lập tức đó là các cộng đồng địa phương, cũng như ở các cấp chính phủ cao hơn.
Chủ nghĩa liên bang tăng cường trách nhiệm của chính phủ trước nhân dân và khuyến khích sự tham gia của công dân và trách nhiệm công dân bằng việc cho phép chính quyền địa phương soạn thảo và quản lý luật địa phương.
Hệ thống liên bang được củng cố bởi hiến pháp thành văn, hiến pháp đó trao quyền và xác định phạm vi chia sẻ trách nhiệm mà mỗi cấp chính quyền được hưởng.
Mặc dù có sự nhất trí chung là các chính quyền địa phương phải đáp ứng nhu cầu địa phương, tuy nhiên có một số vấn đề tốt nhất là nên để cho chính quyền trung ương giải quyết. Quốc phòng, các hiệp ước quốc tế, ngân sách liên bang và dịch vụ bưu điện là những ví dụ về các vấn đề nên để chính quyền trung ương giải quyết.
Những quy định của địa phương phản ánh những ưu tiên mà các cộng đồng địa phương lựa chọn. Lực lượng cảnh sát và phòng cháy, quản lý giáo dục, y tế địa phương và quy định về xây dựng thường được thiết lập và quản lý ở cấp độ địa phương.
Quan hệ liên chính phủ có nghĩa là nhiều chính phủ trong một nhà nước liên bang (quốc gia, khu vực, và địa phương) cùng nhau hợp tác khi các vấn đề về quyền lực theo luật pháp quy định cho thấy sự cần thiết phải hợp tác giải quyết các vấn đề. Chính quyền trung ương thường có quyền làm trung gian giải quyết các tranh chấp giữa các khu vực.
Trong một quốc gia có phạm vi địa lý rộng lớn và đa dạng về kinh tế, sự chênh lệch về thu nhập và phúc lợi xã hội giữa các khu vực có thể được chính phủ trung ương giải quyết thông qua các chính sách tái phân bổ nguồn thu từ thuế.
Hệ thống liên bang là hệ thống có tính phản hồi và bao hàm. Công dân được tự do tranh cử vào các vị trí trong chính phủ ở tất cả các cấp độ. Chính quyền địa phương và khu vực cung cấp hầu hết các vị trí, và có thể là hầu hết cơ hội nhằm tạo nên sự khác biệt trong các cộng đồng của họ.
Chủ nghĩa liên bang mang đến cho các đảng phái chính trị rất nhiều cơ hội phục vụ cử tri. Ngay cả khi một đảng không nắm đa số trong ngành lập pháp hay hành pháp trung ương thì họ vẫn có thể tham gia ở cấp độ khu vực và địa phương.

PHÁP QUYỀN
Trong hầu hết lịch sử nhân loại, giai cấp thống trị và luật pháp đồng nghĩa với nhau, luật pháp đơn giản chỉ là ý chí của giai cấp thống trị. Bước đầu tiên để thoát khỏi chính thể chuyên chế đó là khái niệm pháp quyền, kể cả khái niệm kẻ thống trị cũng phải tuân thủ luật pháp và phải cai trị bằng các công cụ pháp luật. Các nền dân chủ đi xa hơn bằng việc xây dựng pháp quyền. Mặc dù bất cứ xã hội hay hệ thống chính phủ nào cũng đều có vấn đề, nhưng pháp quyền bảo vệ các quyền chính trị, xã hội và kinh tế cơ bản và nhắc nhở chúng ta rằng chính thể chuyên chế và vô luật pháp không phải là những lựa chọn duy nhất.
Pháp quyền có nghĩa là không một cá nhân nào, dù là tổng thống hay công dân, được đứng trên luật pháp. Các chính phủ dân chủ thực thi quyền lực bằng luật pháp và bản thân họ cũng phải chịu những hạn chế của luật pháp.
Luật pháp phải thể hiện ý chí của nhân dân, chứ không phải ý muốn của các vị hoàng đế, những nhà độc tài, các tướng lĩnh, chức sắc tôn giáo hay các đảng phái chính trị tự phong.
Công dân ở các nền dân chủ sẵn sàng tuân thủ luật pháp của xã hội bởi vì họ đang tuân thủ chính những nguyên tắc và quy định của họ. Công lý đạt được một cách hoàn thiện nhất khi luật pháp được xây dựng bởi chính người dân, những người phải tuân thủ luật pháp.
Theo pháp quyền, một hệ thống toà án độc lập và vững mạnh phải có sức mạnh, quyền lực, các nguồn lực và uy tín để buộc các quan chức chính phủ, kể cả những nhà lãnh đạo cao nhất phải chịu trách nhiệm trước các quy định và luật pháp của quốc gia.
Vì thế các thẩm phán phải là những người được đào tạo tốt, có chuyên môn, độc lập và vô tư. Để thực hiện được vai trò quan trọng của họ trong hệ thống chính trị và pháp lý, các thẩm phán phải trung thành với các nguyên tắc dân chủ.
Luật pháp của một nền dân chủ có thể có nhiều nguồn: hiến pháp thành văn, các bộ luật và quy định; các giáo huấn tôn giáo và sắc tộc; các thông lệ và truyền thống văn hóa. Dẫu có nguồn gốc gì đi nữa, luật pháp phải có những quy định bảo vệ các quyền và sự tự do của công dân:
Theo yêu cầu được bảo vệ bình đẳng trước luật pháp, luật pháp không được áp dụng riêng cho bất cứ cá nhân hay nhóm người nào.
Công dân không bị bắt giữ tuỳ tiện, nhà cửa không bị khám xét mà không có lý do chính đáng hoặc không bị tịch thu tài sản cá nhân.
Công dân phạm tội phải được xét xử công khai và nhanh chóng, được đối diện và chất vấn những người cáo buộc. Nếu bị kết án, họ có thể không phải chịu những hình phạt dã man và hoặc bất thường.
Công dân không bị ép buộc phải nhận tội. Nguyên tắc này bảo vệ cho công dân khỏi bị ép buộc, lạm dụng hoặc đánh đập và giảm đáng kể tình trạng cảnh sát sử dụng những biện pháp đó.

NHÂN QUYỀN
Mọi người sinh ra đều có những quyền không ai có thể tước đoạt được. Những quyền con người này cho phép người dân được mưu cầu phẩm giá. Do vậy, không một chính phủ nào có thể ban tặng những quyền đó mà tất cả các chính phủ phải bảo vệ chúng. Quyền tự do, được xây dựng trên nền tảng công lý, khoan dung, phẩm giá và sự tôn trọng - bất chấp nguồn gốc sắc tộc, tôn giáo, hiệp hội chính trị hay vị trí xã hội - cho phép người dân được mưu cầu những quyền cơ bản này. Trong khi các chế độ độc tài bác bỏ nhân quyền, các xã hội tự do lại tiếp tục phần đấu để đạt được những quyền đó.
Các quyền con người phụ thuộc lẫn nhau và không thể tách rời; nhân quyền bao gồm nhiều khía cạnh của sự tồn tại con người bao gồm các vấn đề xã hội, chính trị và kinh tế. Trong số những quyền được chấp nhận phổ biến nhất là:
Mọi người dân có quyền được có chính kiến riêng của mình và bày tỏ chính kiến ấy riêng rẽ hoặc trong các tổ chức mang tính chất hòa bình. Xã hội tự do tạo ra một “thị trường ý tưởng” nơi người dân có thể trao đổi quan điểm về bất cứ vấn đề gì.
Mọi người dân đều có quyền tham gia chính phủ. Các chính phủ phải xây dựng luật bảo vệ nhân quyền trong khi các hệ thống công lý thực hiện những luật đó một cách bình đẳng trong dân chúng.
Quyền tự do không bị bắt bớ tùy tiện, bị giam giữ hay đánh đập là quyền cơ bản của con người, dù đó là người đối lập với đảng cầm quyền, là người thiểu số hay thậm chí là một tội phạm bình thường. Lực lượng cảnh sát chuyên nghiệp phải tôn trọng tất cả công dân khi thực thi pháp luật.
Ở những quốc gia đa dạng về sắc tộc, các nhóm thiểu số tôn giáo và sắc tộc có quyền tự do sử dụng ngôn ngữ của họ và duy trì những truyền thống của mình mà không sợ bị nhóm đa số trả thù. Trong khi tôn trọng ý chí của đa số các chính phủ phải nhận thức được quyền của các nhóm thiểu số.
Tất cả nhân dân phải có cơ hội làm việc, kiếm sống và hỗ trợ gia đình.
Trẻ em cần phải được bảo vệ đặc biệt. Ít nhất chúng phải được đi học tiểu học, được nuôi dưỡng đầy đủ và chăm sóc y tế.
Để duy trì nhân quyền, công dân ở bất cứ xã hội tự do nào cũng cần phải thận trọng. Thông qua một loạt hoạt động tham gia, trách nhiệm công dân là đảm bảo rằng chính phủ phải chịu trách nhiệm trước người dân. Một gia đình các dân tộc tự do cam kết hợp tác tiến tới bảo vệ nhân quyền. Họ thể hiện cam kết của mình thông qua một số những hiệp ước và công ước quốc tế về nhân quyền.

QUYỀN HÀNH PHÁP
Lãnh đạo các chính phủ dân chủ điều hành với sự chấp thuận của công dân. Các nhà lãnh đạo đó đầy quyền lực, không phải do họ chỉ huy quân đội hay giàu có về kinh tế mà bởi vì họ tôn trọng giới hạn mà cử tri trong cuộc bầu cử tự do và công bằng đã đặt ra cho họ.
Thông qua bầu cử tự do, công dân của một nền dân chủ trao quyền cho các nhà lãnh đạo của họ theo như luật pháp quy định. Trong một nền dân chủ hợp hiến, quyền lực được chia sẻ để ngành lập pháp ban hành luật, ngành hành pháp củng cố và thi hành luật và ngành tư pháp hoạt động độc lập.
Các nhà lãnh đạo dân chủ không phải là những kẻ độc tài được bầu lên mà cũng chẳng phải là “các vị tổng thống suốt đời”. Họ nắm chức vụ với những nhiệm kỳ được ấn định và chấp nhận kết quả của các cuộc bầu cử tự do, ngay cả khi điều đó có nghĩa là mất quyền kiểm soát chính phủ.
Ở các nền dân chủ hợp hiến, quyền hành pháp nhìn chung được hạn chế ở ba phương diện: hạn chế bởi hệ thống kiểm soát và cân bằng chia tách quyền hành pháp của chính phủ, quyền lập pháp và tư pháp; hạn chế bởi hệ thống liên bang phân chia quyền lực giữa chính quyền trung ương và chính quyền bang/địa phương; và hạn chế bởi những bảo đảm của hiến pháp về các quyền cơ bản.
Ở cấp độ quốc gia, ngành hành pháp bị hạn chế bởi quyền lực hiến pháp dành cho ngành lập pháp và bởi một cơ quan tư pháp độc lập.
Quyền hành pháp ở các nền dân chủ hiện đại nhìn chung được tổ chức theo một hoặc hai cách: hệ thống nghị viện hoặc chế độ tổng thống.
Trong hệ thống nghị viện, đảng chiếm đa số trong ngành lập pháp sẽ thành lập chính phủ, dẫn đầu là một thủ tướng.
Trong hệ thống nghị viện, ngành lập pháp và hành pháp không hoàn toàn tách rời nhau vì thủ tướng và các thành viên nội các đều là thành viên quốc hội. Trong hệ thống đó, đối lập về chính trị là phương tiện chủ yếu hạn chế hoặc kiểm soát quyền lực của ngành hành pháp.
Trong chế độ tổng thống, tổng thống được bầu riêng rẽ chứ không phải từ các thành viên trong ngành lập pháp.
Trong chế độ tổng thống, cả tổng thống và ngành lập pháp có cơ sở quyền lực và khu vực bầu cử của riêng họ nhằm kiểm soát và cân bằng lẫn nhau.
Các nền dân chủ không phải là muốn chính phủ của họ yếu kém mà chỉ muốn hạn chế chúng. Bởi vậy có thể rất lâu họ mới đạt được sự nhất trí về các vấn đề của quốc gia, tuy nhiên, khi đạt được sự nhất trí các nhà lãnh đạo có thể hành động với quyền lực và sự tự tin rất lớn.
Trong tất cả mọi thời đại, các nhà lãnh đạo trong một nền dân chủ hợp hiến hành động trong phạm vi mà pháp quyền quy định và hạn chế quyền lực của họ.

QUYỀN LẬP PHÁP
Các đại diện được bầu lên trong một nền dân chủ-dù có là thành viên của quốc hội hay không- đều phải phục vụ nhân dân. Họ nắm một số vai trò thiết yếu đối với việc vận hành một nền dân chủ vững mạnh.
Ở một nền dân chủ mang tính đại diện, các cơ quan lập pháp được bầu lên là diễn đàn chính cho việc soạn thảo, tranh luận và thông qua luật. Các cơ quan lập pháp đó không phải là những con dấu cao su như được gọi và chỉ biết thông qua những quyết định của một nhà lãnh đạo độc đoán.
Quyền giám sát và điều tra cho phép các nhà làm luật công khai chất vấn các quan chức chính phủ về những hành động và quyết định của họ, và là phương tiện kiểm soát quyền lực của rất nhiều bộ trong chính phủ, đặc biệt ở chế độ tổng thống, nơi mà ngành lập pháp được tách rời ngành hành pháp.
Các nghị sĩ có thể phê chuẩn ngân sách quốc gia, tiến hành điều trần những vấn đề bức xúc và chấp thuận những người được chỉ định vào tòa án và các bộ. Ở một số nền dân chủ, các ủy ban lập pháp là diễn đàn để các nhà làm luật tiến hành những phiên xem xét công khai những vấn đề quốc gia đại sự.
Các nghị sĩ có thể ủng hộ chính phủ cầm quyền hoặc họ cũng có thể là lực lượng chính trị đối lập đề xướng các chính sách và chương trình khác.
Các nghị sĩ phải có trách nhiệm trình bày rõ quan điểm của mình một cách hiệu quả nhất có thể. Tuy nhiên họ phải làm việc trong khuôn khổ đạo lý mang tính dân chủ, đó là khoan dung, tôn trọng và thỏa hiệp để đạt được sự nhất trí mang lại lợi ích chung cho tất cả mọi người chứ không chỉ cho những người ủng hộ họ về chính trị. Mỗi nghị sĩ đều phải tự mình quyết định làm thế nào để cân bằng phúc lợi chung với nhu cầu của cử tri địa phương.
Cùng với sự giúp đỡ để được các cơ quan chính phủ trợ giúp, các nghị sĩ còn lắng nghe những khiếu nại hay các vấn đề của cử tri. Để làm được điều này, họ thường phải duy trì một đội ngũ những người hỗ trợ được đào tạo nghiêm túc.
Các nghị sĩ thông thường được bầu theo một trong hai cách. Trong các cuộc bầu cử theo đa số, ứng cử viên giành được hầu hết số phiếu sẽ thắng cử. Trong hệ thống bầu theo tỉ lệ, thường được tiến hành trong các cuộc bầu cử nghị viện, cử tri thường bỏ phiếu cho các đảng, chứ không bỏ cho các cá nhân và các đại diện được lựa chọn trên cơ sở tỷ lệ phiếu của đảng đó.
Hệ thống tỷ lệ có xu hướng khuyến khích hình thành các đảng nhỏ hơn được tổ chức chặt chẽ. Các cuộc bầu cử theo nguyên tắc đa số khuyến khích một hệ thống hai đảng lỏng lẻo hơn. Theo cả hai hệ thống, việc các đại diện tham gia vào các cuộc tranh luận, đàm phán, xây dựng liên minh và thỏa hiệp là những dấu ấn của các cơ quan lập pháp dân chủ.
Các cơ quan lập pháp thường có hai viện, và các luật mới thường đòi hỏi phải được cả hai viện, thượng viện và hạ viện, thông qua.

CƠ QUAN TƯ PHÁP ĐỘC LẬP
Các thẩm phán độc lập và có chuyên môn là nền tảng của một hệ thống tòa án công bằng, vô tư và được hiến pháp bảo đảm, hệ thống đó chính là cơ quan tư pháp. Sự độc lập này không có nghĩa là thẩm phán có thể đưa ra các quyết định theo thiên ý riêng của mình mà đúng hơn là họ được tự do đưa ra những quyết định hợp pháp, ngay cả khi những quyết định này mâu thuẫn với chính phủ hoặc các bên rất mạnh trong một vụ kiện.
Ở các nền dân chủ, độc lập không chịu những áp lực chính trị từ các quan chức và cơ quan lập pháp đảm bảo sự vô tư của các thẩm phán. Những phán quyết của cơ quan tư pháp phải vô tư, dựa trên thực tế của vụ việc, hành động của cá nhân, các lập luận pháp lý và luật liên quan, và không chịu bất cứ hạn chế hay ảnh hưởng không đúng đắn nào của các bên liên quan. Những nguyên tắc này đảm bảo tất cả mọi người được bảo vệ bình đẳng theo luật pháp.
Quyền xem xét các luật công của các thẩm phán và tuyên bố những luật này vi phạm hiến pháp là sự kiểm soát cơ bản nhằm ngăn chặn khả năng chính phủ lạm dụng quyền lực, ngay cả khi chính phủ đó được bầu lên bởi đa số phổ thông. Tuy nhiên, quyền này đòi hỏi các tòa án phải được nhìn nhận là độc lập và có thể đưa ra quyết định dựa trên luật pháp chứ không dựa trên những tính toán chính trị.
Dù là được bầu lên hay do chỉ định thì các thẩm phán phải có an ninh nghề nghiệp hoặc chức vụ được luật pháp đảm bảo để họ có thể đưa ra những quyết định mà không phải lo ngại về áp lực hoặc bị những người có quyền chức tấn công. Xã hội dân sự nhận thức được tầm quan trọng của các thẩm phán có chuyên môn bằng việc đào tạo và trả công đầy đủ cho họ.
Niềm tin vào sự vô tư của hệ thống tòa án-được xem là nhánh “phi chính trị” của chính quyền- là nguồn sức mạnh và hợp pháp chủ yếu của hệ thống đó.
Tuy nhiên, các tòa án của một quốc gia không thể không bị chỉ trích, giám sát và bình luận công khai như các thể chế khác. Tự do ngôn luận thuộc về tất cả: các thẩm phán cũng như các nhà phê bình.
Để đảm bảo sự vô tư của họ, nguyên tắc đạo đức ngành tư pháp yêu cầu các thẩm phán không được tham gia vào (hoặc bản thân phải “lánh xa”) quyết định các vụ việc mà trong đó họ có xung đột lợi ích.
Các thẩm phán ở một nền dân chủ không thể bị bãi nhiệm chỉ vì những lời phàn nàn nhỏ nhặt hay những lời chỉ trích về chính trị. Thay vào đó, họ chỉ có thể bị miễn nhiệm vì những tội ác hoặc vi phạm nghiêm trọng thông qua những trình tự thủ tục xét xử và kết tội (cáo buộc) lâu dài và khó khăn trong cơ quan lập pháp hoặc trước một tòa án riêng rẽ.
Một cơ quan tư pháp độc lập đảm bảo với nhân dân rằng các quyết định của tòa án sẽ được dựa trên luật pháp và hiến pháp của quốc gia, chứ không phải quyền lực chính trị thay đổi hay áp lực của một nhóm đa số tạm thời. Với quyền độc lập này hệ thống tư pháp trong một nền dân chủ là người bảo vệ các quyền và sự tự do của nhân dân.

CHỦ NGHĨA HỢP HIẾN
Hiến pháp bao gồm những đạo luật quan trọng nhất mà công dân một nước nhất trí tuân thủ. Hiến pháp xác định cơ cấu căn bản của chính phủ. Do vậy, hiến pháp dân chủ - hiến pháp được dựa trên lý tưởng quyền tự do cá nhân, quyền của cộng đồng, và quyền lực hạn chế của chính phủ - tạo ra khung điều chỉnh một nền dân chủ.
Chủ nghĩa hợp hiến nhận thức rằng chính phủ dân chủ và có trách nhiệm phải đi đôi với những hạn chế về quyền lực của chính phủ.
Hiến pháp xác định những mục đích và mong muốn chính của một xã hội, kể cả phúc lợi chung cho người dân.
Tất cả các đạo luật được ban hành phải phù hợp với hiến pháp. Ở một nền dân chủ, cơ quan tư pháp độc lập cho phép công dân không thừa nhận các đạo luật mà họ cho là bất hợp pháp và không hợp hiến, và đòi bồi thường theo lệnh của tòa án vì những hành động bất hợp pháp của chính phủ hoặc của các quan chức chính phủ.
Hiến pháp quy định khung quyền lực của chính phủ, quy định phạm vi quyền hành, các cơ chế sử dụng quyền lực và những thủ tục thông qua các đạo luật trong tương lai.
Hiến pháp định nghĩa tư cách công dân và là cơ sở quyết định ai sẽ là người có quyền bầu cử.
Hiến pháp hình thành nền tảng chính trị, hành chính và tư pháp của nhà nước bao gồm cơ cấu của ngành lập pháp và các tòa án, quy định về những yêu cầu về việc nắm giữ các chức vụ được bầu và nhiệm kỳ của các quan chức được bầu.
Hiến pháp quy định trách nhiệm của các bộ trong chính phủ và trao quyền thu thuế và thành lập lực lượng quốc phòng.
Trong một hệ thống liên bang, hiến pháp quy định quyền lực của rất nhiều cấp chính quyền.
Do hiến pháp được soạn thảo tại một thời điểm nhất định cho nên cần phải được sửa đổi để có thể đáp ứng nhu cầu thay đổi của nhân dân trong tương lai. Vì sự linh hoạt nhằm đáp ứng những thách thức không thể đoán trước được và không thể thấy trước được trong tương lai là rất quan trọng cho nên hiến pháp thường được soạn thảo để cụ thể hóa những nguyên tắc chung của chính phủ.
Hiến pháp thường bao gồm hai loại quyền: phủ định và khẳng định:
Quyền phủ định quy định những gì chính phủ không thể làm. Những quyền này hạn chế chính phủ và ngăn không cho chính phủ tác động đến những hành vi ứng xử nhất định của công dân. Chẳng hạn như chính phủ không được hạn chế quyền tự do ngôn luận và khả năng công dân hội họp hòa bình và không được bỏ tù họ một cách bất hợp pháp.
Quyền khẳng định quy định những gì chính phủ phải làm và những gì công dân được hưởng. Những “quyền được hưởng” này có thể bao gồm các quyền xã hội, kinh tế, văn hóa dưới hình thức những bảo đảm của chính phủ về nhiều chỉ số xã hội, có thể là những bảo đảm về giáo dục tiểu học và trung học cho tất cả trẻ em, bảo đảm “đủ tiền sinh sống” sau khi nghỉ hưu, hoặc những bảo đảm về nghề nghiệp và chăm sóc y tế cho tất cả công dân.

TỰ DO NGÔN LUẬN
Tự do ngôn luận và bày tỏ, đặc biệt là về các vấn đề chính trị và các vấn đề chung khác, là huyết mạch của bất cứ nền dân chủ nào. Các chính phủ dân chủ không kiểm soát nội dung của hầu hết những phát biểu thành văn và bằng lời. Do vậy, các nền dân chủ luôn tràn đầy những tiếng nói bày tỏ những ý tưởng và ý kiến khác nhau, thậm chí là mâu thuẫn nhau.
Theo các nhà lý luận về dân chủ, cuộc tranh luận tự do và cởi mở sẽ dẫn tới việc xem xét lựa chọn tối ưu và chắc chắn sẽ tránh được sai sót nghiêm trọng.
Nền dân chủ phụ thuộc vào những công dân có học thức, có kiến thức mà sự tiếp cận thông tin cho phép họ tham gia đầy đủ nhất có thể vào đời sống chung của xã hội và phê phán các quan chức chính phủ không sáng suốt và chuyên quyền cùng với các chính sách của họ. Công dân và những người đại diện cho họ nhận thấy nền dân chủ phụ thuộc vào sự tiếp cận rộng mở nhất những ý tưởng, số liệu và ý kiến không bị kiểm duyệt.
Để người dân tự do kiểm soát chính bản thân họ, họ phải được tự do bày tỏ một cách cởi mở, công khai và liên tục, bằng lời nói cũng như bằng văn bản.
Nguyên tắc tự do ngôn luận cần phải được hiến pháp của một nền dân chủ bảo vệ, ngăn không cho ngành lập pháp hay hành pháp của chính phủ được áp đặt kiểm duyệt.
Bảo vệ tự do ngôn luận được gọi là quyền phủ định, đơn giản là quyền yêu cầu chính phủ không được hạn chế ngôn luận, không giống như hành động trực tiếp do quyền khẳng định yêu cầu. Hầu hết các nhà chức trách trong một nền dân chủ không có dính líu gì tới nội dung các phát biểu bằng lời hoặc bằng văn bản trong xã hội.
Phản đối là cơ sở thử nghiệm của bất cứ nền dân chủ nào, do vậy quyền được hội họp hòa bình là điều thiết yếu và có vai trò không thể tách rời trong việc thúc đẩy ngôn luận tự do. Một xã hội dân sự cho phép tranh luận thẳng thắn giữa những người có bất đồng sâu sắc về các vấn đề.
Tự do ngôn luận là một quyền cơ bản, nhưng không phải là tuyệt đối và không thể được sử dụng để biện minh cho bạo lực, vu cáo, phỉ báng, lật đổ hoặc sự tục tĩu. Để cấm ngôn luận kích động bạo lực, làm tổn hại nghiêm trọng đến uy tín của người khác, lật đổ một chính phủ hợp hiến, hoặc kích động một hành động dâm dục, các nền dân chủ vững mạnh nhìn chung đều đòi hỏi hành động đó phải gây ra mức độ đe dọa lớn. Hầu hết các nền dân chủ cũng cấm ngôn luận kích thích sự hận thù sắc tộc, nhưng không phải bạo lực.
Thách thức đối với một nền dân chủ là sự cân bằng: bảo vệ quyền tự do ngôn luận và hội họp trong khi đối phó với hình thức ngôn luận thực sự kích động bạo lực, trả thù hoặc lật đổ.

TRÁCH NHIỆM CỦA CHÍNH PHỦ
Trách nhiệm chính phủ có nghĩa là các quan chức chính phủ - được bầu lên hay không được bầu lên - có nghĩa vụ giải thích cho công dân về những quyết định và hành động của họ. Trách nhiệm của chính phủ được thực hiện thông qua việc sử dụng rất nhiều cơ chế - chính trị, pháp lý, và hành chính - nhằm ngăn chặn nạn tham nhũng và đảm bảo rằng nhân dân có thể tiếp cận và được các quan chức chính phủ đáp ứng. Không có những cơ chế đó, tình trạng tham nhũng có thể phát triển.
Cơ chế trách nhiệm chính trị chủ yếu là các cuộc bầu cử tự do và công bằng. Nhiệm kỳ và các cuộc bầu cử được ấn định buộc các quan chức phải có trách nhiệm đối với việc thực hiện nhiệm vụ của họ và cho phép những người đối lập có cơ hội mang đến cho công dân những lựa chọn chính sách thay thế. Nếu các cử tri không hài lòng về công việc của một quan chức, họ có thể bỏ phiếu bãi nhiệm khi nhiệm kỳ của họ kết thúc.
Mức độ mà các quan chức chính phủ phải chịu trách nhiệm về mặt chính trị là ở chỗ họ nắm giữ một chức vụ do được bầu lên hay do chỉ định, họ có thường xuyên tái tranh cử không và họ có thể giữ mấy nhiệm kỳ.
Cơ chế trách nhiệm pháp lý bao gồm hiến pháp, các đạo luật, sắc lệnh, quy định, bộ luật và các công cụ pháp lý khác quy định những gì mà quan chức chính phủ có thể và không thể làm và công dân có thể có hành động như thế nào để phản đối những quan chức khi mà công việc của họ được nhìn nhận là chưa hiệu quả.
Cơ quan tư pháp độc lập là một yêu cầu thiết yếu đối với sự thành công của trách nhiệm pháp lý, đó là nơi mà công dân có thể trình bày khiếu nại đối với chính phủ.
Cơ chế trách nhiệm pháp lý bao gồm:
Những quy định về đạo đức và các bộ quy tắc ứng xử cho các quan chức chính phủ, quy định những hành động không thể chấp nhận được.
Xung đột lợi ích và luật công khai tài chính, yêu cầu các quan chức chính phủ công khai nguồn thu nhập và tài sản của họ để công dân có thể xem xét liệu những hành động của những quan chức đó có chắc chắn bị ảnh hưởng bởi những lợi ích tài chính hay không.
Luật “ánh dương” cho phép giới báo chí và công chúng tiếp cận hồ sơ và các hội nghị của chính phủ.
Những yêu cầu phải có sự tham gia của công dân quy định rằng những quyết định nhất định của chính phủ phải có sự đóng góp ý kiến của công chúng;
Xem xét về tư pháp, quy định các tòa án có quyền xem xét các quyết định và hành động của các cơ quan và quan chức chính phủ;
Cơ chế trách nhiệm hành chính bao gồm các phòng ban trong các cơ quan hoặc các bộ và các thông lệ trong các quy trình hành chính được thành lập nhằm đảm bảo rằng quyết định và hành động của các quan chức chính phủ là vì lợi ích của công dân.
Các cơ chế trách nhiệm hành chính bao gồm:
Cơ quan giám sát, có trách nhiệm nghe và giải quyết những khiếu nại của công dân;
Kiểm toán viên độc lập theo dõi việc sử dụng quỹ công nếu có dấu hiệu sử dụng sai;
Các tòa án hành chính nghe khiếu nại của công dân về quyết định của các cơ quan;
Những quy định về đạo đức bảo vệ cái gọi là những người nói thầm - đó là những người trong chính phủ tiết lộ tình trạng tham nhũng hoặc lạm dụng quyền lực - để họ không bị trả thù.

-HẾT-

No comments: