Wednesday, April 6, 2016

NỖI NHỚ MANG TÊN PULAU BIDONG (M&M)





M&M
Tuesday, April 5, 2016 2:51:19 PM

Bài liên quan

------------------

LGT: Trong cuộc sống có nhiều chuyện mình muốn nói với ai đó, nhưng lại không thể nói trực tiếp được. Không nói được với nhau thì hãy viết cho nhau. Âu đó cũng là cơ hội để giải tỏa những tâm tư, những nỗi niềm. Mục “Viết Cho Nhau” do phóng viên Ngọc Lan phụ trách. Thư từ xin gửi về: Người Việt (Viết Cho Nhau), 14771 Moran St., Westminster, CA 92683, hay email: Ngoclan@nguoi-viet.com


Bài viết “Bidong – Ra đi và trở lại” của tác giả La Quốc Tâm khiến tôi nhớ lại ngày tháng trên đảo này. Với tôi, đó là giai đoạn đẹp nhất trong đời mình.

Nhớ ngày đầu tiên bước lên đảo, sau khi làm thủ tục nhập trại, lãnh mỗi người một cái chén nhựa màu cam, muỗng, đũa để ăn cơm, vài bịch gạo to bằng bao Ziploc loại lớn bên này, và vài hộp đồ ăn, gia đình tôi được dẫn đến “căn nhà” đầu tiên. Nhà không cửa, chia vách với nhà hai bên, không vách trước và sau. Trống hoách. Bây giờ quên là làm sao mình thay đồ lúc đó. Nhà chỉ vỏn vẹn một cái ván chiếm nửa căn nhà và cái bếp củi.

Một góc trại tị nạn  Pulau Bidong xưa (Hình: www.refugeecamps.net)

Vừa vào nhà thì các anh Thiện, anh Minh và Đức ở nhà cạnh bên chạy qua thăm hỏi. Rồi người mang qua cho cái thùng chứa nước, người cho cái nồi. Rồi các anh dắt ra cái giếng cạn trước nhà, chỉ cho cách giòng cái thùng thiếc hình khối chữ nhật để múc từ dòng nước chảy giữa hai phiến đá. Các anh dặn tới, dặn lui rằng phải cẩn thận, đừng để dây rớt xuống giếng mà khổ cả lũ. Rồi các anh chỉ cho cách đốt củi, cách nấu cơm bằng lửa củi. Rồi các anh cho chén dầu ăn, chén muối, chén đường và chỉ cách làm món ăn từ đồ hộp lỏng bỏng hai ba miếng thịt bò.

Nhớ đêm đầu tiên khó ngủ, lạ chỗ một phần, nhớ má và hai đứa em gái nhỏ ở Việt Nam một phần, nhưng phần lớn có lẽ vì phải nằm trên mấy khúc cây tròn ráp lại thành giường.

Nhớ cái đêm nhà bên, gồm một cặp vợ chồng trẻ với lũ em trai trạc tuổi mình ca hát vang trời trong tiếng đàn ghi-ta hòa lẫn với tiếng đập xuống giường và tiếng vỗ tay, “Ta như nước dâng, dâng tràn có bao giờ tàn, đường dài ngút ngàn chỉ một trận cười vang vang,” “Ngựa hoang nào dẫm nát tơi bời, đồng cỏ nào xanh ngát lưng trời,” “Có phải tôi là người quê hương ruồng bỏ, có phải tôi là người giống nòi khinh,” “Kính thưa thầy đây bài hình học của con, những đường cong đường thẳng đều có gài mìn,”...

Nhớ một buổi sáng lặng người, cổ nghẹn lại, chảy nước mắt khi nghe trên loa “Này công dân ơi, quốc gia đến ngày giải phóng.”

Nhớ những ngày mới lên đảo, bước chân khập khễnh, lảo đảo vì “say đất” sau 4 ngày, 5 năm đêm lắc lư theo ghe vượt sóng.

Nhớ cái chợ nho nhỏ trước khu vực phỏng vấn của Cao Ủy và các phái đoàn đệ tam quốc gia.

Nhớ những hình ảnh trên hàng rào về vòng xoắn, về kế hoạch hóa gia đình, mà lúc đó mình chẳng hiểu là gì.

Nhớ ông Mỹ Ramsey cao nghều nghệu phỏng vấn bàn hai, mà theo chị (quên tên) nói chính là nhân vật người Mỹ trong tấm bích chương “o du kích nhỏ giương cao súng, thằng Mỹ lom khom bước cúi đầu” được treo khắp ba miền đất nước sau 1975.

Nhớ những lúc vào bệnh viện Sickbay khám tổng quát.

Nhớ những ngày tới lớp học tiếng Anh với thầy cô thay đổi liên miên vì đi định cư.

Nhớ cái thư viện với thật nhiều sách học tiếng Anh, và các tờ nguyệt san Việt Chiến, Dân Chúa, Văn Nghệ Tiền Phong.

Nhớ những hôm sắp hàng lãnh phần gà, ăn dai như đang nhai cao su; những hôm đi hứng nước từ xà lan mang từ đất liền qua để uống và nấu ăn; và những hôm đi giật củi để nấu ăn, thằng em đứng kế đống củi, lượm và liên tục quăng củi qua khỏi đầu về phía sau, trong khi mình thì vừa né củi bay tới tấp, vừa lượm củi bỏ thành đống.

Nhớ cái miễu của ông già chết vì dừa rụng trúng đầu ngay sau khi ghe cập vào Bidong.
Nhớ chiếc tàu sắt to lớn, rỉ sét, đầy vết đạn trên thành tàu. Người ta kể, người trên tàu chết hết sau khi bị cảnh sát Mã Lai bắn để đuổi đi nơi khác, không cho cập bến. Thân tàu đã được kéo ra giữa biển khơi cho chìm, nhưng chiếc tàu cứ vẫn trôi dạt về lại Bidong.

Nhớ buổi trưa nọ chạy ra xem một chiếc ghe cập thẳng vào đảo để xem có người quen, chợt nghẹn ngào khi thấy một chị được khiêng vào bằng cáng vì đi không nổi. Ghe bị cướp...

Nhớ anh Thiện nằm đong đưa trên võng kể chuyện võ sư Nguyễn Tiến Hoá hóa điên, xẩm tối lại ra ngoài biển múa võ, rồi khóc đau đớn sau khi mục kích vợ con mình bị hải tặc hãm hiếp rồi giết chết.

Rồi lại nhớ những buổi chiều lén ba tui ra ngồi trên đồi tôn giáo, nhìn mông lung ra biển để thả hồn về với quê nhà...
...

Nhớ nhiều thứ lắm, nhưng chắc không tài nào viết ra đây hết. Nhớ âm thanh cuối cùng của Bidong là tiếng loa “Thông báo rời đảo, thông báo rời đảo...”, tiếp nối bởi giọng ca của Khánh Ly, Lệ Thu qua điệu nhạc chia lìa “Nghìn trùng xa cách”, “Ngày mai em đi, biển nhớ tên em gọi về”, “Giờ này còn nhìn nhau, nhìn đắm đuối như suối bền, nhìn suốt kiếp như chết mòn, nhìn hấp hối thương đau, ngày mai ta không còn thấy nhau.”

Và như người Do Thái mang trên người ngôi sao David, trong tim óc tôi mãi ghi nhớ số căn cước thuyền nhân của mình, số tàu SS-1021, PB-505.




No comments: