Friday,
March 4, 2016
Bài đọc
liên quan:
MỞ ĐẦU
Các chủ
thuyết thay nhau ra đời là do thực tế khách quan của các nền văn minh nhân
loại tạo ra. Thế giới trải qua 3 thời kỳ văn minh nhân loại được ghi nhận
và từ đó những chủ thuyết ra đời phục vụ cho con người cũng ra đời,
nhưng các chính khách luôn tương kế, tựu kế để phục vụ cho mình, hơn là
cho cộng đồng xã hội.
Nền văn
minh nông nghiệp, con người sống với nhau bằng sự chiếm hữu tư liệu sản xuất
theo kiểu sức mạnh cá nhân - kẻ khỏe mạnh và ác độc nhất sẽ chinh phục cộng đồng
bằng gươm đao, võ thuật của cá nhân mình. Nó đã cho ra đời chủ thuyết chiếm
hữu nô lệ ở phương Tây, và Tam cương Ngũ thường của Khổng Khâu ở
phương Đông để hình thành chế độ phong kiến phục vụ cho chính khách.
Nền văn
minh công nghiệp ra đời, những phát triển khoa học kỹ thuật giúp các chính
khách cởi mở hơn, vì quyền lực của tầng lớp bị trị đã được hỗ trợ bỡi
những trang bị bỡi súng, sự đoàn kết và lập hội. Một hình thái xã hội mới
ra đời, ban đầu là tạo giá trị thặng dư lớn cho chủ, nhưng
sau đó buộc chủ tớ phải xích lại gần nhau, cùng nhau chia sẻ tư liệu sản
xuất. Từ nền văn minh công nghiệp thế giới chia 2 ngả rẽ: chủ nghĩa
giáo điều và chủ nghĩa thực tiễn.
Sau chiến
tranh thế giới thứ II, thế giới Đông Tây chia làm 2 cực: cộng sản và tư bản
về lý thuyết, nhưng trên thực tế thì 2 cực này là: chủ nghĩa giáo điều và
chủ nghĩa thực tiễn.
Ở
phương Tây chủ nghĩa giáo điều bắt đầu từ nước Nga thôn tính cả Đông Âu. Ở
phương Đông chủ nghĩa giáo điều được Trung Hoa mang từ Nga về và
bắt đầu thôn tính từ một nửa bán đảo Triều Tiên và một nửa Việt Nam,
sau đó là toàn bộ bán đảo Đông Dương sau ngày 30/4/1975.
Giáo điều hay thực tiễn đề do các chính khách chuyên nghiệp tạo ra từ
những chủ thuyết luôn tốt đẹp của các nhà tư tưởng.
Chính
khách có tầm nhìn xa, nhân bản, và có tư duy rộng mở sẽ đi theo chủ nghĩa
thực tiễn. Ngược lại, các chính khách có tầm nhìn vì bản thân
mình, ác độc và tư duy khép kín sẽ chạy theo chủ nghĩa giáo điều
chỉ nhằm lợi ích cá nhân lên trên lợi ích cộng đồng và dân tộc.
Từ thập
niên 1970 đến nay, nền văn minh tri thức ra đời với toàn cầu hóa và
thế giới phẳng. Một sự tấn công trực diện từ chủ nghĩa thực tiễn đánh thẳng
vào sự thủ thế và co cụm của chủ nghĩa giáo điều. Tương lai thế giới loài
người sẽ được chủ nghĩa thực tiễn thống trị. Như vậy hai loại chủ nghĩa
này, chúng là gì?
CHỦ
NGHĨA GIÁO ĐIỀU
Chủ
nghĩa giáo điều là một loại hình xã hội đi theo một triết thuyết mà
các chính khách tự cho là đúng vĩnh hằng. Kết quả của nó là mô hình chính
trị xã hội theo triết thuyết đã được định sẵn cho những nhà tư
tưởng đã đúc kết và vạch ra.
Nhưng
cuộc sống thực tiễn thì luôn vận động như câu nói của Heraclitus:
"Không ai tắm 2 lần trên cùng một dòng sông". Có nghĩa là, nước - hay
xã hội hóa dòng sông lên là xã hội loài người - của dòng sông cách đây 1
giây đồng hồ ở địa điểm A hoặc B, ... nào đó khác với
nước của dòng sông trước đó 1 giây đồng hồ!
Heraclitus đã tiếp cận được với những tư tưởng rất cơ bản của phép biện chứng. Ông nói: “trong cùng một dòng sông ấy chúng ta lội xuống và không lội xuống, chúng ta có và không có”. Đó chính là những tư tưởng về mối liên hệ phổ biến tất yếu của quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập.
Heraclitus đã tiếp cận được với những tư tưởng rất cơ bản của phép biện chứng. Ông nói: “trong cùng một dòng sông ấy chúng ta lội xuống và không lội xuống, chúng ta có và không có”. Đó chính là những tư tưởng về mối liên hệ phổ biến tất yếu của quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập.
Cuộc sống
xã hội loài người cũng thế. Suy nghĩ, hành động của mỗi cá thế người luôn
thay đổi từng giây, từng phút. Cả một cộng đồng tư duy và hành động
là một sự tương tác của những chuyển động Brown mà thành. Nó thay đổi để
phù hợp với thực tiễn khách quan, mà tồn tại và phát triển.
Từ đó,
chủ nghĩa giáo điều chỉ phù hợp một giai đoạn lịch sử, mà không phù hợp
cho tiến trình lịch sử đang diễn ra. Sự biến thể của chủ nghĩa
giáo điều đi từ lý tưởng của cộng đồng sang lý tưởng lợi ích
của chính khách theo tình hình thực tế khách quan, do hình thái kinh tế chính
trị đơn nguyên tập quyền bảo vệ quyền lợi của chính khách và thân hữu. Từ đó,
sự suy tàn của chủ nghĩ giáo điều là điều tất nhiên của quy luật xã hội
học.
Sự suy
tàn của chủ nghĩa giáo điều đã diễn ra hàng ngàn năm qua của lịch sử
nhân loại trả qua các chế độ chiếm hữu nô lệ, tăng lữ quý tộc và phong kiến.
Gần đây là sự sụp đổ cả Liên Xô và Đông Âu vào cuối thập
niên 1980, tiếp theo sau là các chế độ độc tài ở Bắc Phi
Trung Đông vào năm 2011.
Một số
quốc gia đang đi theo chủ nghĩa giáo điều như Miến Điện, Cu
Ba và kể cả Venezuela đang chuyển đổi để phù hợp với thực tiễn
khách quan. Một số quốc gia khác vẫn còn bảo thủ và duy ý chí giữ chủ
nghĩa giáo điều thì đang rơi vào cơn bỉ cực với đấu tranh giai cấp bị trị và thống trị, bạo loạn sắc tộc, khủng hoảng kinh tế và cả chính trị như: Trung Hoa, Việt Nam, Bắc Hàn.
Tầng lớp
chính khách chuyên nghiệp đi theo chủ nghĩa giáo điều đang cố gắng
lôi kéo quần chúng mê muội, và nhóm tham ăn tục uống theo đảng phái
chính trị của mình để được dính phần ăn chia, nhằm giữ vững lợi ích đang
có của mình. Nhưng với thế giới phẳng của nền văn minh tri thức sẽ dần đập
tan chủ nghĩa giáo điều trở thành quá khứ của nhân loại. Tương lai lâu
dài, chân thiện mỹ sẽ lên ngôi.
CHỦ
NGHĨA THỰC TIỄN
Như đã
trình bày ở trên, các chính khách theo chủ nghĩa thực tiễn làm việc vì cả
cái chung cộng đồng lẫn cái riêng của họ. Họ có tư duy rộng mở và khai
phóng, không vì quyền lợi bản thân mà bán rẻ quốc gia dân tộc như các chính
khách đi theo chủ nghĩa giáo điều. Nhưng không vì thế mà tiến
trình đi theo thực tiễn dễ dàng như ngày nay chúng ta thấy ở các quốc
gia tiên tiến như Hoa Kỳ, Canada, Bắc và Tây Âu, cùng một số quốc
gia Đông Á như Nhật, Hàn Quốc, Úc, Singapore, v.v...
Hãy
nhìn lại Hoa Kỳ, mặc dù các quốc phụ của Hoa Kỳ ngay từ đầu đã làm
nên một tuyên ngôn độc lập như là kinh Thánh, mà ngay cả Pháp, Việt Nam,
v.v... cũng phải sao chép lại để đọc và làm cho quốc gia của mình.
Nhưng để có ngày nay, Hoa Kỳ cũng phải có nội chiến chỉ vì muốn xóa bỏ chế độ
chiếm hữu nô lệ. Sau đó là những cuộc đấu tranh và hoàn thiện mô hình
xã hội đa nguyên tản quyền như hôm nay mà chúng ta có thể ghi nhận những dấu
mốc như sau:
1. Một
hiến pháp với tư tưởng khai phóng, nhân bản và các bộ luật, tu chánh án
ra đời theo tình hình thực tiễn khách quan.
2.
Các đại học đấu tranh quyền tự do học thuật và tự chủ đại học từ
thế kỷ XIX, để hôm nay, Hoa Kỳ có được nền giáo dục khai phóng, nhân
bản và thực tiễn.
3. Cuộc đấu
tranh để phá bỏ chế độ chiếm hữu nô lệ đã được chính khách
và dân chúng đấu tranh không ngại hy sinh như cố tổng thống Abraham
Lincohn và Mục sự Luther King. Ông Abraham Lincoln, vị Tổng thống thứ
16 của Hoa Kỳ (nhiệm kỳ 1861 – 1865) có lẽ là người đã mô tả đúng đắn nhất về một
nền dân chủ, đó là “một chính quyền của dân, do dân và vì dân”. Tuy nhiên sẽ
không có một chính quyền “do dân” trừ khi người dân được lựa chọn người lãnh đạo
của mình thông qua các cuộc bầu cử tự do và công bằng. Bầu cử là một quyền và
cũng là nghĩa vụ cơ bản của công dân Hoa Kỳ – quyền được nói lên cách thức họ
muốn chính quyền cầm quyền ra sao và trách nhiệm phải biết thông tin về các ứng
cử viên và các vấn đề đang diễn ra khi họ đi bầu cử.
4. Tổng
chưởng lý Charles Bonaparte, Tổng thống Theodore Roosevelt, J. Edgar Hoover là
3 nhà sáng lập và cho ra đời của tổ chức tiền thân của FBI - Cục điều tra
liên bang thuộc bộ tư pháp - vào năm 1908 với hiến chương: "Trung thành,
Quả cảm, Liêm chính - Fidelity, Bravery, Integrity". Nhưng đến khi ông J.
Edgar Hoover nhận chức năm 1924, với cái đầu vượt trên cả thời đại của ông đã đưa
FIB trở thành một tổ chức chống tội phạm, góp phần lớn cho một Hoa Kỳ từ quốc
gia tư bản hoang dã trở thành hôm nay.
Con đường đi
cam go của Hoa Kỳ có được vị trí số 1 thế giới vào cuối năm 1944 hoàn toàn
không đơn giản. Vì mãi tới năm 1920 người phụ nữ Hoa Kỳ mới được quyền ứng
cử và bầu cử theo điều bổ sung 19 của luật! Quá trình tự do dân chủ rất cam go
của Hoa Kỳ hôm nay có thể được tóm tắt trong Tóm tắt về quyền con người được hiến pháp đảm bảo.
Tất cả
những sơ lược trên cho thấy, Hoa Kỳ nói riêng, các quốc gia tiên tiến nói
chung, họ không đi theo bất kỳ giáo điều khuôn mẫu nào, mà họ đi
lên từ thực tiễn khách quan đòi hỏi phải hành động.
DÂN
TỘC TÍNH, GIÁO ĐIỀU VÀ THỰC TIỄN
Phương
Tây bắt đầu thời kỳ chinh phục và mở rộng thuộc địa từ thế kỷ XV, từ
việc Cristoforo Colombo - Kha Luân Bố - đặt chân lên châu Mỹ đầu tiên
năm 1498, sau 2 lần thất bại.
Trong
cuộc chinh phục ấy, lịch sử cận đại đã ghi dấu những tân lục địa
như Mỹ châu, Úc Châu, Tân Tây Lan, ... Nhưng lịch sử cũng cho thấy những nét lịch
sử lặp lại ở các cường quốc cũng như nhược tiểu, mà làm nên các cựu và tân
cường quốc mạnh yếu khác nhau.
Mỗi quốc
gia có một tiến trình lịch sử mà hình thành văn hóa sống, và định hình dân
tộc tính để rồi gặt lấy kết quả hay hậu quả cho vận mệnh quốc gia mình
theo thời gian.
Nước
Nga ở Đông Âu có một dân tộc, truyền thống lịch sử đáng
kính trọng, nhưng dân tộc tính của Nga không có được những chính khách có
tư duy rộng mở và khai phóng. Nên nước Nga xảy ra nội chiến và thù địch với
lân bang để bành trướng lãnh thổ hàng nhiều thế kỷ, tự làm yếu mình. Người ta bảo,
nếu, dân tộc tính của Nga hình thành những chính khách nhân bản và khai phóng,
thì ngày nay Hoa Kỳ không thể sánh với Nga.
Trung
Hoa cũng vậy, dân tộc tính của Trung Hoa chưa làm nên những chính khách có tư
duy nhân bản và khai phóng. Hầu hết các lãnh tụ Trung Hoa đi lên ngai vàng
thấm đẫm máu và nước mắt của người Trung Hoa. Từ thời Tần Thủy
Hoàng đến Lưu Bang lãnh thổ và sự đồng hóa các dân tộc khác được
mở rộng. Đến Mao Trạch Đông, lãnh thổ Trung Hoa rộng gấp 3 lần so với
Tần Thủy Hoàng. Tất cả họ ngồi trên ngai vàng bằng máu và nước mắt của dân và
các lân bang. Họ tự tìm lấy kẻ thù cho mình, và họ đi tìm sự loạn lạc, nội
chiến trên chính quê hương mình. Trung Hoa trải qua nhiều thời kỳ mạnh yếu, bị
các cường quốc xâu xé mà không lớn được đúng tầm vóc của mình.
Nhìn lại
nước Việt cũng thế. Lịch sử của 1000 năm bị đô hộ Trung Hoa, 100
năm đô hộ Pháp, đã hình thành một văn hóa hủy diệt kẻ yếu - Champa -
để sinh tồn, và mang trong hồn một thuộc tính bị trị. Một nhà sư đã nói với
tôi rằng: "Đúc kết lịch sử và ta thấy, dân tộc tính của người Việt
là một loại dân tộc có tính bầy đàn và bị trị. Dân Việt không bị
trị bỡi đồng bào mình, thì cũng bị trị bỡi ngoại bang. Khi nào dân Việt
còn trong ách bị trị thì lúc đó còn chút bình yên. Khi thoát ra khỏi
bị trị thì sẽ là giặc giã chiến tranh. Không nội chiến anh em nồi da nấu thịt, thì
cũng ngoại xâm. Người Việt không thích tự do, dân chủ và văn minh,
vì đã ở quá lâu trong hơn 1100 năm bị trị hết Trung Hoa, rồi đến
Pháp. Bằng chứng là miền Nam đã được cho họ tự do dân chủ và văn
minh 21 năm, nhưng dân miền Nam đã từ chối, để lao đầu
vào bị trị và ươn hèn như 41 năm qua!". Quả đúng thật!
VIDEO :
Người Việt Nam Có Dân Tộc Tính
Không?
Truyenhinhvietnam1 Published on Oct 17, 2015
Hãy
nhìn lại các quốc gia khác đang đi theo chủ nghĩa giáo điều cũng
thế. Dân tộc tính của các quốc gia này đều không làm được việc thêm bạn
bớt thù, mà hầu hết là các chính khách chỉ biết tráo trở để vì bản thân
mình hơn là quốc gia dân tộc, tăng thù bớt bạn.
Trong
khi đó, các quốc gia tiên tiến đi theo chủ nghĩa thực tiễn luôn hành xử
nhân bản và khai phóng. Mọi tư duy và hành động của chính khách luôn vì
cái chung của quốc gia dân tộc, trong đó có cái riêng của mình.
LỊCH
SỬ LẶP LẠI
Cách đây
3 hôm - ngày 01/3/2016 - Hội đồng bảo an Liên Hiệp Quốc gồm 5 nước - Anh
Pháp Mỹ Nga và Trung Hoa - nhưng chủ yếu là Mỹ Nga và Trung Hoa đã đồng ý với
nhau để tăng lệnh trừng phạt Bắc Hàn. Đây là hậu quả của một triều đại
giáo điều dòng họ Kim ở Bắc Hàn làm nên dân tộc tính của những kẻ ương
ngạnh trong thế nhược tiểu.
Còn nhớ,
khi Hội đồng bảo an Liên Hiệp Quốc đồng thuận với Hiệp Định Paris
1973, trao cho cái Nobel hòa bình cưa đôi Kissinger và Lê Đức Thọ thì nước Việt
lao vào ngàn năm tăm tối với các thế hệ người Việt về sau, như cố tổng thống
Ronald Reagan đã phát biểu.
VIDEO :
Ronald Reagan famous speech -
VIETNAM WAR
VIETNAMSAIGON75 Published on Apr 6, 2013
Gần đây
hơn, sau khi từ bỏ Thái Bình Dương sang Trung Đông của Hoa Kỳ, thì HĐBA LHQ đồng
thuận trừng phạt Saddam Hussein của Iraq và Gaddafi của Libya, thì Iraq và
Libya tan tành, cho tới nay vẫn trong tủi nhục trên gia tài thiên nhiên dầu thô
kết sù.
Năm
1953, khi Hoa Kỳ đồng thuận với Trung Hoa ngưng chiến tranh ở
bán đảo Triều tiên trong danh dự, thì họ sang Việt Nam để gầy sòng,
dùng đất Việt và xương máu Việt để tỷ thí vũ khí 2 bên.
Nay Hoa
Kỳ quay lại Thái Bình Dương sau 40 năm sang Trung Đông. Họ chọn nơi đầu
tiên để trừng phạt là Bắc Hàn. Ban đầu Nga và Trung Hoa chưa ưng
bụng, nhưng giá dầu giảm, Nga quy hàng. Biển Đông dậy sóng, Trung Hoa bắt
tay, không biết cái bắt tay của ông Tập Cận Bình với ông Obama vào
31/3 và 01/4/2016 trong Hội nghị thượng đỉnh về hạt nhân sắp tới, đã được đồng
thuận điều gì ở biển Đông, mà nó làm cho Bắc Kinh đồng thuận trừng phạt Bình
Nhưỡng? Nhưng, có lẽ, tương lai Kim Jong Un không còn quá lâu cho một kết thúc
không có hậu, vì đã hỗn láo chưa một lần triều kiến họ Tập trong 3 năm lên cầm
quyền.
Hoa Kỳ đã
chìa bàn tay khá dài, khá lâu, và rất thân thiện cho Việt Nam trong 22 năm qua
- 1994 đến 2016. Liệu chính khách Việt đã chọn con đường
giáo điều trong đại hội 12 vừa xong ngày 28/01/2015, và ông tổng
thống Obama đã ngưng chuyến viếng thăm vào giờ chót trong tháng
11/2015, từ lời mời của ông tổng bí thư đảng cộng sản cầm quyền Việt
Nam, để đợi xong mọi lựa chọn của chính trường Việt Nam mới sang thăm vào cuối tháng 5/2016 này sẽ lành dữ thế
nào cho dân và nước Việt trong tương lai? Lành ít dữ nhiều trong lúc kinh
tế đang mắc bệnh nan y.
KẾT
Từ nhân
sinh ra quả, rồi trong quả lại có nhân. Thời thế tạo anh hùng, rồi anh hùng lại
làm ra thời thế mới.
Dân tộc
tính chỉ là một yếu tố trong nhiều yếu tố hậu quả của lịch sử và văn hóa, nhưng
sau khi có nó thì nó lại tạo ra nhân để lịch sử và văn hóa của một quốc
gia dân tộc phải lãnh lấy.
Vòng tuần
hoàn nhân quả là quy luật của muôn đời.
Sài
Gòn, 15h09' ngày thứ Sáu, 04/3/2016
No comments:
Post a Comment