Ngô
Di Lân -
Diplomat
Người
dịch: Trần Văn Minh
Posted
by adminbasam on
17/10/2015
Hai
chuyến thăm vào tháng tới của lãnh đạo Mỹ và Trung Quốc sẽ thử nghiệm khả năng
tái cân bằng của Hà Nội.
Một
lần nữa, khả năng tái cân bằng ngoại giao của Việt Nam sẽ được thử nghiệm vào
tháng 11 này, khi các nhà lãnh đạo Việt Nam sẽ tiếp đón Chủ tịch Trung Quốc Tập
Cận Bình và Tổng thống Mỹ Barack Obama trong thời gian chỉ cách nhau vài ngày.
Đây sẽ là chuyến đi đầu tiên của ông Obama tới Việt Nam, trong khi chuyến đi của
ông Tập cũng sẽ là chuyến thăm của chủ tịch Trung Quốc đầu tiên kể từ năm 2005.
Do Việt Nam cam kết duy trì mối quan hệ thân mật với cả hai cường quốc, ngay cả
trong bối cảnh ngày càng căng thẳng xung quanh các tranh chấp lãnh thổ ở Biển
Đông, tháng 11 này sẽ chứng tỏ một khoảnh khắc tinh tế và có tính quyết định về
khả năng ứng phó với các cường quốc của Việt Nam.
Quan
hệ Mỹ-Việt đã trở nên nồng ấm đáng kể trong vài năm qua, với nhiều chuyến thăm
của lãnh đạo cao cấp hai nước, đạt tới đỉnh điểm trong chuyến thăm chưa từng có
của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đến Hoa Kỳ vào tháng 7 vừa qua. Kết quả là bản
Tuyên bố lịch sử Tầm nhìn chung Mỹ-Việt, trong đó đề ra một khuôn khổ quan trọng
để quan hệ Mỹ-Việt có thể tiếp tục phát triển trong dài hạn. Trong bối cảnh
này, chuyến đi của ông Obama tới Hà Nội sẽ chỉ củng cố và làm sâu sắc mối quan
hệ hơn nữa.
Tuy
nhiên, lần này rõ ràng ông Obama không tới Hà Nội để thúc đẩy Hiệp đinh Thương
mại xuyên Thái Bình Dương (TPP) bởi các bên đàm phán đã đạt được thỏa thuận và
Quốc hội Việt Nam gần như chắc chắn sẽ phê chuẩn hiệp định TPP. Vào thời điểm
khi Trung Quốc đang cấp tốc xây dựng các hòn đảo nhân tạo ở Biển Đông và Hoa Kỳ
vừa công bố kế hoạch tuần tra hàng hải trong vùng lãnh hải của các đảo này, dường
như chắc chắn rằng Trung Quốc và tranh chấp lãnh thổ Biển Đông sẽ nổi bật trong
các cuộc đàm phán tại Hà Nội.
Mặc
dù lạc quan, giới thân Mỹ ở Hà Nội có lẽ sẽ phải thất vọng vì khó có khả năng
chuyến thăm của ông Obama sẽ dẫn đến bất kỳ thỏa thuận mang tính “bước ngoặt”
nào. Lại càng thiếu thực tế hơn để mong đợi một “liên minh” nào đó giữa Hà Nội
và Washington được hình thành trong chuyến đi này, ngay cả trong lúc Trung Quốc
đang gia
tăng nỗ lực mang tính quyết đoán để tạo ra một “sự đã rồi” ở Biển Đông.
Sau cùng, không rõ liệu một liên minh công khai như vậy sẽ mang lại lợi ích cho
cả Hoa Kỳ và Việt Nam hay không, vì điều này chắc chắn sẽ chọc giận Trung Quốc
và do đó làm cho tình hình mất ổn định thêm. Hơn nữa, Mỹ có vẻ miễn cưỡng trong
việc chính thức cam kết liên minh với bất kỳ quốc gia nào mà họ cho là “không
thể kiểm soát chính trị” được, như
mới đây đã bác bỏ đề xuất hiệp ước phòng thủ chung của các quốc gia vùng Vịnh.
Việt Nam chắc chắn không thuộc thể loại các nước trong “phạm vi ảnh hưởng” của
Mỹ.
Từ
quan điểm của Hà Nội, “ngả sang một bên” sẽ có thể loại trừ khả năng linh hoạt
ngoại giao. Bên cạnh đó, trong mọi trường hợp, một liên minh có lẽ không phải
là một bảo đảm an ninh bọc thép để đối phó với Trung Quốc, như liên minh trước
đây của Việt Nam với Liên Xô đã cho thấy. Tuy nhiên, là điều hợp lý để cho rằng
chuyến đi của ông Obama sẽ tăng cường quan hệ quốc phòng giữa hai nước một cách
đáng kể, thậm chí có thể dẫn đến việc gỡ bỏ thêm nữa lệnh cấm bán vũ khí sát
thương (đã được nới lỏng) cho Việt Nam. Hơn nữa, ông Obama có thể dùng dịp này
để thu hút sự ủng hộ ngoại giao cho kế hoạch tuần tra quyết đoán hơn trong khi
lôi kéo Việt Nam xa khỏi quỹ đạo của Trung Quốc. Nếu có ít nhất một số trong những
muc tiêu này trở thành hiện thực, chuyến đi của ông ít nhất cũng làm gia tăng vị
thế của Mỹ ở châu Á, trong khi giúp cho Hà Nội có một thế đứng mạnh mẽ hơn để
thương lượng tay đôi với Bắc Kinh.
Không
giống như chuyến đi được dự liệu của ông Obama tới Việt Nam, chuyến đi của ông
Tập xảy ra vào thời điểm xáo trộn trong quan hệ Việt-Trung. Quan hệ đã trở nên
xấu đi phần nào trong những năm gần đây khi Trung Quốc trở nên hung hăng hơn
trong việc khẳng định quyền kiểm soát các hòn đảo ở Biển Đông. Trong vài năm
qua, ông Tập có lẽ đã thay đổi hiện trạng ở Biển Đông nhiều hơn những người tiền
nhiệm của ông trong hai thập niên qua. Nổi bật nhất, vào tháng 5 năm 2014,
Trung Quốc đã triển khai giàn khoan dầu Hải Dương-981 trong vùng đặc quyền kinh
tế của Việt Nam (EEZ) trước sự sự phản đối mãnh liệt của cả chính quyền và người
dân Việt Nam.
Trong
khi Trung Quốc đơn phương rút giàn khoan dầu sau hai tháng, cuộc khủng hoảng
ngoại giao đã làm suy yếu lòng tin chiến lược giữa hai chính quyền và gây ra một
cuộc tranh luận nội bộ nghiêm trọng trong giới thượng lưu ở Hà Nội. Kể từ đó,
Trung Quốc chỉ gia tăng nỗ lực xây dựng đảo, với đường băng được phát hiện trên
một số đảo mà cuối cùng có thể được sử dụng để tuyên bố và / hoặc áp đặt một
vùng Nhận dạng Phòng không (ADIZ) trên toàn bộ Biển Đông trong một tương lai gần.
Những hành động này đã cho Việt Nam thấy rằng Trung Quốc không thành thật tuân
thủ các thỏa thuận mà họ đã ký kết như Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển
Đông (DOC).
Với
tất cả sự việc này, có vẻ như ông Tập sẽ tới Hà Nội với một sứ mệnh gần như bất
khả thi: bằng cách nào đó đưa người láng giềng nhỏ hơn trở về vị trí cũ và “xóa
đi làm lại” mối quan hệ với Việt Nam. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc biết rất rõ rằng
Việt Nam sẽ không chỉ đơn giản biến thành Nhật Bản hay Philippines một sớm một
chiều. Nhưng về lâu dài, với những gì đang diễn ra ở Biển Đông, không ai có thể
dự đoán Việt Nam sẽ gần gũi như thế nào với cánh đi với Mỹ. Và rất khó cho bất
kỳ chủ tịch Trung Quốc nào tại thời điểm này có thể thuyết phục Hà Nội một cách
nghiêm túc rằng Trung Quốc chỉ đơn thuần bảo vệ lợi ích hợp pháp của mình ở Biển
Đông và rằng Hà Nội nên đồng hành với Bắc Kinh. Do đó không ai mong đợi bất kỳ
sự “quay đầu” nào trong chính sách của Việt Nam đối với Trung Quốc sau chuyến
đi của ông Tập.
Tuy
nhiên, trong ngắn hạn, chuyến đi của ông Tập vẫn có thể sửa chữa mối quan hệ Việt-Trung
trong giới hạn nào đó và có thể điều hướng sự chú ý của Việt Nam ra khỏi các tranh
chấp lãnh thổ hiện nay để tập trung vào các cơ hội hợp tác giữa hai nước. Trong
chiều hướng đó, sẽ không là điều bất ngờ nếu Bắc Kinh cung cấp một số giao dịch
kinh tế và khoản vay ưu đãi cho Hà Nội trong chuyến đi của ông Tập. Sau cùng,
phần thưởng kinh tế như thế luôn được hoan nghênh và sẽ thúc giục Việt Nam ít
ra cũng đừng tiến gần hơn về phía Mỹ trong ngắn hạn và tiếp tục chiến lược “đu
dây” hiện nay.
Cho
đến nay, Việt Nam vẫn cam kết “đu dây” ngoại giao giữa hai siêu cường, khéo léo
cân bằng bên này với bên kia để gặt hái lợi ích, trong khi tránh bị mắc kẹt vào
ngõ cụt ngoại giao. Nếu mọi việc suôn sẻ tháng 11 này, chính sách “đu dây” sẽ rất
có thể được củng cố như chiến lược tổng thể được ưa chuộng của Việt Nam trong
tương lai gần, và sẽ dẫn tới các chọn lựa chính sách sáng tạo hơn. Trong dài hạn,
chiến lược này có thể đặt nền móng cho một trật tự khu vực xung quanh các cuộc
thương lượng giữa các tổ chức đa phương và các nước lớn, và điều này có thể đưa
tới một tương lai đầy hứa hẹn cho các nước cỡ trung bình và nhỏ trong khu vực.
Ngô
Di Lân là ứng viên tiến sĩ Chính trị tại Đại học Brandeis, nơi ông tập trung
vào chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ và quan hệ Mỹ-Trung. Ông cũng là
một nhà nghiên cứu tại Trung tâm Nghiên cứu Quốc tế (SCIS) của trường
Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh.
No comments:
Post a Comment