Luật
Sư Đào Tăng Dực
2015-10-17
2015-10-17
Các vận động viên và
thành viên của nhóm “Phụ Nữ Nhân Quyền Việt Nam”.
Courtesy vnwhr.net
Sự
hiện diện đông đảo các nữ anh hung
Khi
so sánh cùng giới đấu tranh Trung Quốc với những nhân vật đối kháng đại đa số
thuộc nam giới, thì điểm nổi bật của phong trào tranh đấu cho dân chủ và nhân
quyền của dân tộc Việt Nam là sự hiện diện đông đảo của những anh thư hào kiệt
như Phạm Thanh Nghiên, Huỳnh Thục Vy, Nguyễn Phương Uyên, Tạ Phong Tần, Đỗ Thị
Minh Hạnh, cụ Bà Lê Hiền Đức…
Trong
khi đó, từ thuở khai sinh nhân loại, người phụ nữ luôn lại là một giai
cấp bị đối xử thiếu công bằng. Nếu chúng ta nhìn xuyên lịch sử từ
Đông sang Tây, từ Âu sang Á đến Phi Châu, người phụ nữ thông thường chỉ
là công dân hạng nhì, trong xã hội do đàn ông ngự trị, thuộc xã hội
truyền thống.
Theo
quan điểm của cá nhân tôi, một chính quyền Việt Nam hậu cộng sản, sau khi đã
xây dựng một nền dân chủ hiến định, pháp trị và đa nguyên cho đất nước, nếu
không giải quyết được vấn nạn bạo hành trong gia đình (family and domestic
violence), trong đó đa số các nạn nhân là phụ nữ, thì chính quyền đó vẫn chưa xứng
đáng là một chính quyền của dân, do dân và vì dân (government of the people, by
the people and for the people).
Nếu
chúng ta phân tích thêm về nguyên nhân của bất công này, sẽ có hai
nguyên nhân chính nổi bật xuyên suốt lịch sử: đó là chiến tranh và
tôn giáo. Dĩ nhiên còn nhiều nguyên nhân khác không thể nói hết.
Chiến
tranh, nhất là chiến tranh cổ điển, luôn luôn đem lợi thế về cho nam
giới. Khi xã hội loài người còn đơn sơ chưa phát triển, chiến tranh
căn cứ trên sức mạnh của bắp thịt. Chính vì thế giới nữ thường
chịu lép vế, nương tựa vào sự bảo vệ của giới nam và chấp nhận
những việc làm phụ thuộc tại hậu cần. Khi kỹ thuật chiến tranh tiến
bộ hơn, với những phát triển khoa học về vũ khí có hỏa lực và tầm
sát thương cao, vai trò của nam giới vẫn nổi bật, mặc dầu có sự tham
gia nhiều hơn của các nữ quân nhân (Do thái là một ví dụ điển hình
nhất cho vao trò của các nữ quân nhân). Tuy nhiên vẫn thua xa nam giới.
Lý do là vì nhiều người tin rằng, trong DNA của nam giới, bản năng
sát thương và sát địch mạnh hơn nữ giới. Chính vì thế, chúng ta có
thể kết luận rằng, chiến tranh là một trong nhiều nguyên nhân củng cố
cho vai trò vượt trội của nam giới, trong tương tranh quyền lực giữa
hai phái tính.
Thuở
xưa, phụ nữ thường trở thành những vật hy sinh, vật tế thần hoặc
trở thành chiến lợi phẩm của kẻ chiến thắng.
Thời
bình cũng bất công
Trong
thời chiến, bất công cho nữ giới là như thế. Câu hỏi là, trong thời
thái bình thịnh trị, thì nữ giới có được đối xử công bằng hơn hay
không?
Theo
tôi nghĩ câu trả lời không những là không, mà còn tệ hại hơn nữa.
Đáng
ngạc nhiên hơn hết là lý do người nữ bị đối xử bất công nằm nơi các
định chế tôn giáo. Nơi đây, tôi xin nhấn mạnh sự khác biệt giữa tôn
giáo (religions) và các định chế tôn giáo (religious institutions).
Tôn
giáo là nội dung lời dạy của các đấng giáo chủ khai giáo như (theo
thứ tự thời gian): Bà La Môn (Ấn Độ Giáo), Đức Phật Thích Ca Mâu Ni
(Phật Giáo), Đức Lão Tử (Đạo Giáo), Đức Khổng Phu Tử (Nho Giáo),
Đức Chúa Giê Su (Thiên Chúa Giáo), Đức Mahomet (Hồi Giáo), Đức Thầy
Huỳnh Phú Sổ (Phật Giáo Hòa Hảo) , Đức Ngô Văn Chiêu (Cao Đài Giáo)
...thông thường là những lời dạy cao cả và công bằng.
Các
định chế tôn giáo trái lại, là các cấu trúc quyền lực, do những người
bình thường tạo ra hầu đoàn ngũ hóa và hệ thống hóa các tôn giáo.
Các định chế này đôi khi có rất nhiều khuyết điểm. Tùy theo bản
chất từng tôn giáo, và hoàn cảnh xã hội sở tại, các định chế tôn
giáo có sức mạnh và ảnh hưởng khác nhau. Khi duyệt xét lịch sử,
chúng ta nhận thấy các định chế tôn giáo sau đây nhiều quyền lực
nhất: Giai Cấp Giáo Sỹ Bà La Môn, Tòa Thánh Công Giáo La Mã tại Âu
Châu, Giáo hội Chính Thống Giáo tại Nga, Giai cấp Tống Nho tại Trung
Hoa và các nước Đông Á, Giai cấp Giáo Sỹ Hồi Giáo tại Iran và một
số quốc gia Hồi Giáo.
Một
trong những bất công mà nữ giới phải chịu là: không những các vị giáo
chủ đều là nam giới, mà quan trọng hơn hết là các định chế quyền
lực, còn tồn tại lâu đời sau khi các giáo chủ đã ra đi, đều do nam
giới thống lĩnh.
Hậu
quả là các định chế ấy không những trực tiếp có những chính sách
tôn giáo trói buộc người phụ nữ, mà còn ảnh hưởng đến xã hội dân
sự và chính quyền. Hậu quả là toàn bộ các chính sách quốc gia và
toàn bộ nền văn hóa của quốc gia sở tại, thiên vị cho nam giới.
Những
câu châm ngôn sau đây của Nho Giáo, lưu truyền hàng ngàn năm trong nền
văn hóa Đông Á, tiêu biểu cho sự bất công đó:
“Tại
gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử”.
Đại
ý nói rằng, người phụ nữ trước khi lấy chồng thì phải nghe lời cha
(không phải mẹ). Khi lấy chồng phải nghe lời chồng (không được cãi)
và tệ hơn hết là khi chồng chết phải nghe lời con trai (không phải
ngược lại hoặc nghe lời con gái).
Hoặc:
“Lấy
chồng theo chồng; lấy gà theo gà, lấy chó theo chó”, không có quyền
phê phán hành vi của chồng hoặc ly dị ly thân nếu người chồng không
xứng đáng.
Tất
cả những giáo điều trên, đều là những giáo điều có tính ý thức
hệ, cùng một bản chất hạn hẹp và phi lý, như ý thức hệ giáo đều
Mác-Lê mà CSVN đang tôn sùng.
Chính
vì thế, giới nữ, vốn chịu nhiều bất công, có nhu cầu làm cách mạng
cao hơn nam giới.
Khi
nữ giới tham gia cuộc đấu tranh giải trừ cộng sản, vai trò của họ không
dừng tại nơi đây. Vai trò của nữ giới không những là lật đổ bạo
quyền, mà còn xây dựng một trật tự xã hội mới hoàn toàn khai phóng
trên phương diện tư tưởng. Châm ngôn của những phụ nữ tranh đấu ngày
hôm nay phải là câu tuyên ngôn bất hủ của tư tưởng gia người Pháp
Raymond Aron:
“Ý
thức hệ giáo điều cần phải triệt tiêu, hầu cho tư tưởng được tái
sinh”
Thật
vậy, ý thức hệ giáo điều Tống Nho đã tiêu diệt tư tưởng tự do của
con người Đông Á, giam hãm sự sáng tạo (creativity) và nữ giới
(womenfolk) trong sự cùm kẹp của giáo điều ngu muội, làm chậm bước
tiến của nhiều dân tộc Đông Á, cho đến khi rơi vào vòng nô lệ và sự
chinh phục của các đế quốc tây phương.
Chiều
cao của một dân tộc lệ thuộc vào phẩm chất của những tư tưởng luân
lưu trong nền văn hóa dân tộc đó. Một nền văn hóa lệ thuộc vào những
ý thức hệ giáo điều kém cỏi như Tống Nho, và sau đó, lệ thuộc vào
những ý thức hệ giáo điều càng kém cỏi hơn nữa như Mác-Lê, là một
nền văn hóa với những tư tưởng tồi tệ nhất của nhân loại. Dân tộc
Việt kém cỏi và chịu nhiều nỗi nhục nhằn ngày hôm nay, là vì Ý
thức hệ giáo điều Mác- Lê đã thổi vào nền văn hóa chúng ta những tư
tưởng thấp hèn nhất của nhân loại.
Trách
nhiệm của người phụ nữ Việt Nam là đứng lên, đạp đổ bạo quyền CSVN.
Và cùng một lược với tác động cách mạng này, dùng chút oai thừa,
xóa tan những tàn tích của giáo điều Tống Nho oan khiên, đã giam hãm
tâm thức và sự sáng tạo của nữ giới trong nhiều thế kỷ.
Ý
thức được như thế, người phụ nữ Việt Nam mới nhận ra vị trí chiến
lược của mình, trong tiến trình dân chủ hóa đất nước. Lý tưởng của
người phụ nữ Việt Nam không những chỉ là xây dựng một chế độ chính
trị dân chủ hiến định, pháp trị và đa nguyên, mà phải đi xa hơn nữa,
đó là gạn lọc những cặn bã của nền văn hóa truyền thống, khai sáng
một kỷ nguyên văn hóa hoàn toàn khai phóng, phi ý thức hệ giáo điều
trong đó, tư tưởng được tuyệt đối thăng hoa.
Cuộc
cách mạng kỹ nghệ đã giúp người phụ nữ Tây Phương đạt nhiều thành
quả trong công cuộc tranh đấu cho phụ nữ quyền. Tiến trình dân chủ
hóa đất nước chắc chắn sẽ đưa đến một cuộc cách mạng kỹ nghệ, kinh
tế và xã hội tại Việt Nam, hầu bắt kịp các quốc khác trong cộng
đồng nhân loại.
Có
nhiều dấu hiệu cho thấy, phụ nữ Việt Nam đã nhập cuộc đông đảo. Đỗ
Thị Minh Hạnh, Phạm Thanh Nghiên, Nguyễn Phương Uyên, Cụ Bà Lê Hiền
Đức, Huỳnh Thục Vy, các chị em trong Hội Phụ Nữ Âu Cơ ..là những nữ
lưu hào kiệt, đội trời đạp đất. Chắc chắn các chị đang và sẽ là
những lãnh đạo xứng đáng, trong thời điểm lịch sử này của dân tộc
và trong số họ sẽ có những lãnh đạo tương lai của một nước Việt Nam dân chủ hiến
định, pháp trị và đa nguyên hậu cộng sản.
---------------------------------------------------------
Bài
Nguyên thủy viết cho Đặc San Hội Phụ Nữ Âu Cơ.
No comments:
Post a Comment