23.12.2014
(LTG:
Đây là bản chính bài thuyết trình trong buổi hội thảo về VHMN tổ chức tại
tòa soạn nhật báo Người Việt vào ngày 6/12/2014. Do giới hạn về thời gian, nhiều
chi tiết trong bài viết đã không được trình bày tại buổi hội thảo; và ngược lại,
một số chi tiết được triền khai khi phát biểu vốn không có trong bài viết.)
*
Đề
tài tôi trình bày trong buổi hội thảo hôm này là “Tính văn học trong văn học miền
Nam”.
Chắc
có người cho rằng chữ dùng nghe có vẻ không mấy thích hợp. Và thừa. Đã nói về một
nền văn học, sao còn đặt vấn đề “tính văn học”?
Xin
thưa ngay: lý do khiến tôi sử dụng nhóm từ “tính văn học” là vì văn học miền
Nam trước đây được nhà cầm quyền nhìn với một nhãn quan chật hẹp và độc đoán. Họ
gọi văn học miền Nam là “văn học thực dân mới”, “văn học đồi trụy”, “văn học phản
động” hay sau này, gọi một cách nghe lịch sự hơn nhưng có vẻ xách mé, là “văn học
đô thị”.[1] Toàn là những nhóm từ tiêu cực. Văn
học thực dân mới là gì? Là thứ văn học chỉ dành để phục vụ chế độ thực dân. Văn
học phản động là gì? Là chống lại đất nước, chống lại dân tộc. Văn học đồi trụy
là gì? Là hư hỏng, xấu xa. Vì thế, văn học miền Nam được xem là “nọc độc”. Và
những người viết lách được gọi là “những tên biệt kích văn nghệ.” Nghĩa là gì?
Nghĩa là phi-văn học. Là một nghịch đảo với văn học xã hội chủ nghĩa, văn học
yêu nước và văn học tiến bộ. Do cách hiểu hạn chế đó, nhà nước Cộng Sản đã tìm
cách tiêu diệt văn học nền văn học này sau chiến thắng tháng 4/1975.
Cách
nhìn văn học miền Nam kể trên là một hình thức định nghĩa văn học dựa vào lập
trường chính trị của đảng Cộng Sản Việt Nam. Tôi xin được bàn về văn học miền
Nam bằng một cái nhìn khác, chung hơn, “văn học” hơn, nghĩa là rộng rãi hơn, đa
dạng hơn và tách ra khỏi cái nhìn phiến diện, một chiều. Đó là tính cách văn học
của một nền văn học.
Văn
chương vốn là, nói như Hàn Dũ, “đại phàm vật bất đắc kỳ bình, tắc minh” (vật
nào cũng vậy, khi không được bình yên nên kêu).[2] Văn chương là tiếng kêu của
con người. Kêu là một cách bày tỏ cảm xúc trước sự vật, trước hoàn cảnh và trước
các biến cố nhân sinh. Nó gắn liền vừa với cá nhân, vừa với xã hội và vừa với lịch
sử. Nó mở. Văn học hiểu như tổng thế các sáng tác văn chương của các nhà
văn, nhà thơ diễn ra trong một giai đoạn hay thời kỳ nào đó, cũng thế, nó mở.
Có thể so sánh văn học với một khu rừng: rừng có nhiều loại cây khác nhau với
tính cách và số phận khác nhau. Chúng mọc, chúng ra lá, trổ hoa muôn màu muôn vẻ.
Tính văn học, do thế, muôn màu muôn vẻ. Nó được thể hiện qua những đặc điểm
sau:
·
Về tác giả: tính tự do, tính khu biệt giữa tác giả và tác phẩm.
·
Về hình thức: tính kế tục, tính hiện đại và tính đa dạng
·
Về nội dung: tính nhân bản, tính hiện thực và tính bi kịch.
Văn
học miền Nam bao gồm tất cả những đặc điểm trên. Trong phần khai triển sau đây,
có một số điểm tôi chỉ nói sơ qua, vì đó là những điều mà hầu như ai cũng đã rõ
trong khi ở một số điểm khác, tôi sẽ bàn kỹ. Mặt khác, do đề tài quá rộng, nên
những chi tiết điển hình nêu ra trong bài thuyết trình hầu hết chỉ đề cập đến
phần sáng tác. Xin được đi từng điểm một.
I. Về tác giả:
1. Viết
là một hành vi tự do: Làm
nhà văn, nhà thơ là một chọn lựa tự do. Không ai bị buộc phải làm nhà văn, nhà
thơ; không ai phải học để trở trở thành nhà văn, nhà thơ. Viết là một hành vi tự
đối diện với mình và với công chúng. Từ kinh nghiệm bản thân, tôi nhận thấy
không có tự do thì không có cảm hứng để sáng tác, dù nhìn dưới góc độ nào.
Với
tư cách là những người viết tự do, những nhà văn, nhà thơ miền Nam đã sáng tác
không qua một sự chỉ đạo nào. Họ không ăn lương nhà nước để viết và do đó,
không sáng tác chỉ để phục vụ các nghị quyết chính trị. Miền Nam không có “Hội
nhà văn” với tư cách là một thứ quyền lực tối cao chi phối mọi hoạt động sáng
tác. Cũng không có trường viết văn và làm thơ. Mỗi nhà văn, nhà thơ hay nhà
biên khảo tự chọn lựa cách viết, chọn lựa xu hướng, lựa đề tài cũng như chọn lựa
tạp chí văn học để cọng tác. Một người có thể viết, xin lấy một ví dụ, vừa cho
tạp chí Khởi Hành (một tạp chí chống Cộng) hay Văn, một tạp chí
thuần túy văn học, nhưng đồng thời vẫn có thể viết cho Trình Bày hay Đối Diện
là những tạp chí tả khuynh. Chính vì thế và nhờ thế mà văn đàn miền Nam luôn
luôn sôi động. Nhiều hiện tượng văn học bất ngờ xuất hiện làm ngạc nhiên văn giới
và có trường hợp, làm rúng động cả văn đàn. Trước chính biến năm 1963 lật đổ chế
độ Ngô Đình Diệm, do chính sách kiểm duyệt khá nghiêm khắc, nên văn giới còn phần
nào dè dặt; nhưng sau năm 1963, toàn xã hội như bùng vỡ. Cùng với những cuộc đảo
chánh, xuống đường đòi hỏi tự do, dân chủ, trên văn đàn, thơ, văn xuất hiện ồ ạt.
Nói chung, hiện tượng đó có cái gì xô bồ, đôi khi đi quá đà, nhưng mở ra một
không gian rộng cho sự sáng tạo văn chương, nghệ thuật.
Do
viết là một hành vi tự do, nên văn học miền Nam, tự bản thân, không nhằm bảo vệ
chế độ, lại càng không làm công cụ cho chế độ nơi nó được nuôi dưỡng. Một cây
bút, trong hoàn cảnh và từ vị thế của mình, nhìn hiện thực xã hội qua những
lăng kính khác nhau, không ai giống ai. Mai Thảo hồi tưởng về Hà Nội trước khi
di cư vào Nam; Nguyễn Vỹ viết về “Tuấn, chàng trai nước Việt’, một hồi ức về
thanh niên thời thuộc địa; Nguyễn Thị Hoàng đột ngột xuất hiện với “Vòng tay học
trò” làm ngẩn ngơ cả một thế hệ; Nguyễn Đức Sơn độc đáo và táo bạo với những
bài thơ lạ trong “Đêm nguyệt động”; Bùi Giáng trêu cợt cuộc đời bằng những câu
lục bát “không giống ai”; Dương Nghiễm Mậu viết về nỗi bất an của hiện sinh con
người, chẳng hạn như một nhân vật trong “Niềm đau nhức của khoảng trống”; Hoàng
Ngọc Tuấn lại quay trở lại với thời nhỏ tuổi mơ mộng với “Cô bé treo mùng”; Vũ
Hạnh phê phán chế độ VNCH qua hình ảnh ẩn dụ của một “Ngôi trường đi xuống”; Trịnh
Công Sơn phản chiến với “Ca khúc Da Vàng”; Phan Nhật Nam viết về đời lính nhọc
nhằn qua những bút ký ngập ngụa khói lửa chiến trường; Phạm Thiên Thư làm thơ
ca ngợi tình yêu thời trẻ dại với hình ảnh nhẹ nhàng của “em tan trường về/đường
mưa nho nhỏ.” Vân vân và vân vân. Mỗi nhà văn, nhà thơ tự chọn cho mình một
cách thể hiện riêng, đôi khi rất riêng, về thời cuộc, về cuộc sống.
Họ
có thể là công chức làm việc cho nhà nước hay khoát áo nhà binh. Trong công sở,
họ có thể làm công tác tuyên truyền hay ngoài chiến trường, họ đánh nhau với
quân Cộng Sản, nhưng khi sáng tác thì sáng tác như những nghệ sĩ tự do. Có thể
tìm thấy trường hợp điển hình qua các tác phẩm của những người lính. Những nhà
văn, nhà thơ lính viết như những nhân chứng sống trong chiến tranh. Đó không chỉ
là những hồi tưởng muộn màng hay loại nỗi buồn làm dáng như kiểu “Nỗi buồn chiến
tranh” của Bảo Ninh. Nhiều truyện ngắn hay thơ xuất hiện trên tạp chí Văn hay
Bách Khoa hồi đó của những người lính chiến như Trần Hoài Thư, Lê Bá Lăng, Y
Uyên, Văn Lệ Thiên, Trần Dzạ Lữ, Luân Hoán…như những bản tin chiến sự nóng bỏng.
Có người viết ngay, viết thẳng trên ba lô trong một trận hành quân hay trong
lúc chiến trường mà họ dự phần hãy còn nóng hổi mùi thuốc súng và tanh mùi máu
của đồng loại. Viết xong, họ gửi ngay về tòa soạn để đăng trong thời gian sớm
nhất. Trong hành vi viết, họ vừa ở trong chiến tranh lại vừa đứng ngoài nó. Vừa
tham dự chiến tranh vừa đặt vấn đề và thao thức về chiến tranh. Dù trực tiếp cầm
súng, ngày đêm đối diện với quân thù, nhưng tác phẩm của họ không viết ra để
gây thêm căm thù mà bao giờ cũng là một dấu hỏi về thân phận con người trong cuộc
chiến. Hãy đọc thử một trích đoạn trong “Nhật ký hành quân” của Trần Hoài Thư:
“Xin
tha lỗi cho tôi, các bạn. Tôi không còn đủ sáng suốt để sáng tạo câu văn ý lạ.
Tôi đang nằm trong quân y viện đây. Đêm buồn lắm. Đêm buồn lắm. Lính của tôi nằm
nhiều trong đó. Hai thằng nằm tại nhà vĩnh biệt. Hai thằng mất tích. Và những
thằng bị thương đang nằm ở đây. Đêm buồn lắm. Đêm buồn lắm. Ngày hôm đó, ngày 9
tháng 5 thì phải. Mặt trời thì hừng hực lửa. Chỉ có mặt trời mới thấy bọn tôi.
Tôi nằm trong bụi, mặt dầm dề máu và đùi găm đầy miểng lựu đạn, cả mông tôi
cũng vậy. Tôi nhìn lên cao cầu khẩn Tổ Tiên Ông Bà, Nam Mô Quan Thế Âm Lạy Trời
Lạy Chúa. Nhìn mặt trời, cho con sống. Sống. Tôi vùng dậy chạy. Đạn rít dưới
chân. Đạn xẹt trên đầu. Tôi lộn nhào. Lê lết. Bò trườn. Tôi nhào xuống bờ suối.
Đạn đuổi theo. Nó canh kỹ. Ló đầu ra. Tắc bùm. Thụt đầu vào. Chạy. Lăn.Tội nghiệp
thân thể mày chưa, Thư. Gầy ốm thế kia. Cha mẹ nưng niu bồng ẵm nuôi con bây giờ
ầm ầm, tạch đùng, bập bập bập, bò, hai cùi tay vấy máu, bò ngửa, bò sấp, bò hai
chân, bò hai tay. Bụi gai vừa xê dịch. Tắc bùm. Đ.M, quân chó đẻ. Mày giết tao
mày hả dạ lắm sao. Tao để dành viên đạn cuối cùng. Tự sát.”[3] Văn của người lính Trần Hoài
Thư tươi, sống, đầy cá tính!
Nói
như Jean-Paul Sartre, văn chương “là hành vi, qua đó, trong từng khoảnh khắc,
nhà văn tự giải thoát ra khỏi lịch sử, nghĩa là hành xử sự tự do.”[4] Con người nhà văn lệ thuộc vào hoàn
cảnh nhưng viết là một hành vi giải thoát khỏi hoàn cảnh. Họ thể hiện cái “tôi”
tự do khi sáng tác. Bởi thế, những nhà văn, nhà thơ miền Nam không đánh mất cái
“tôi” khi viết. Họ không chờ đến khi biết mình sắp từ giã cõi đời, mới cố gắng
tìm lại “cái tôi đã mất” như Nguyễn Khải, một trong những nhà văn nổi tiếng miền
Bắc.[5] Chẳng thế mà Nguyễn Minh Châu cay đắng
vẽ ra chân dung điển hình của người cấm bút miền Bắc như sau: “Cũng trong một
người cầm bút, cái phần bất tài nhảy lên bục tao đàn để múa may, còn cái phần
tài năng thì trùm chăn chờ ngày xuống mồ! Con đường của một cây bút trẻ hăm hở
phấn đấu để trở thành nhà văn cũng là con đường phải giết đi cái phần nhà văn
trong con người mình, con đường tự mài mòn đi mọi cá tính và tính trung thực
trong ngòi bút.”[6]
2. Khu
biệt tác giả ra khỏi tác phẩm: Xem viết là một hành vi tự do, nên những
tác phẩm xuất phát từ sự tự do đều được văn học miền Nam trân trọng. Ngay từ thời
Đệ Nhất Cộng Hòa, người ta đã tách tác phẩm ra khỏi tác giả. Nghĩa là tác phẩm,
một khi thành hình, luôn luôn có số phận riêng của nó, không lệ thuộc vào người
sáng tác. Do đó, giá trị văn chương của nó không dựa trên lý lịch của tác giả.
Tác giả chỉ là một yếu tố và không phải là yếu tố chính trong trong nghiên cứu
văn học. Xuất phát từ quan điểm đó mà hầu hết các tác giả tiền chiến đều được
nghiên cứu và giảng dạy trong học đường, ngay cả khi họ là những đảng viên Cộng
Sản và đang hết mình tâng bốc cho lý tưởng Cộng Sản ở miền Bắc. Các tác phẩm của
Huy Cận, Lưu Trọng Lư, Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Quang Dũng…đều được bảo tồn,
quý trọng và thậm chí, vinh danh. Chúng vẫn được nghiên cứu và giảng dạy một
cách bình thường y như những nhà văn, nhà thơ khác, không có bất cứ một sự phân
biệt đối xử nào. Ngoài ra, một số sáng tác của các nhà văn, nhà thơ trong thời
kháng chiến – nhất là trong giai đoạn trước năm 1951, khi người Cộng Sản chưa
dùng phong trào chỉnh huấn để loại bỏ những người không ủng hộ chủ nghĩa Cộng Sản
– cũng được giới thiệu trong các tạp chí văn học. Hai tác phẩm biên khảo về văn
học “Nhà văn hiện đại” của Vũ Ngọc Phan và “Thi nhân Việt Nam” của Hoài Thanh
được sử dụng và giảng dạy trong chương trình trung học. Bởi vì, như đã nói ở
trên, những tác phẩm này được viết ra trong khi họ là những con người tự do.
Thú thật, đến bây giờ, khi nhìn lại giai đoạn này, tôi vẫn ngạc nhiên về chính
sách rộng rãi này. Theo tôi, đây là một điểm son của văn học miền Nam.
Không
những miền Nam bảo tồn các tác phẩm văn chương tiền chiến mà còn lưu giữ và bảo
tồn các tác phẩm của những nhà văn, nhà thơ trong nhóm Nhân Văn Giai Phẩm miền
Bắc. Văn, thơ của Trần Dần, Phùng Quán, Nguyễn Hữu Đang, Phan Khôi, Lê Đạt,
Phùng Cung, Đặng Đình Hưng…bị đánh phá và tiêu hủy ở miền Bắc, đã tìm thấy cuộc
sống ở miền Nam. Xin nhấn mạnh, Miền Nam chấp nhận chúng, không phải vì chúng
chống Cộng – thực ra như chúng ta đều biết, các tác phẩm của họ không hề chống
Cộng – mà vì chúng là văn học. Chúng là sản phẩm của hành vi viết tự do. Vả lại,
độc giả miền Nam nói chung, chỉ thích đọc những tác phẩm mang tính văn học và
không thích hoặc khước từ đọc những tác phẩm văn học có tính cách tuyên truyền,
nhất là tuyên truyền chính trị.
II. Về hình thức:
1. Tính
đa dạng: Một
nền văn học không chỉ là một bông hoa, cũng không chỉ là vườn hoa, mà phải là một
rừng hoa. Nói đến rừng cũng là nói đến một cái gì dị tính. Văn chương, trong bản
chất, là dị tính. Nó không thể là một cái gì đồng nhất, đơn điệu. Văn chương phải
phản ảnh nhiều mặt của cuộc nhân sinh. Hiện thực phải được nhìn từ nhiều góc độ,
nhiều khía cạnh và nhiều nhãn quan khác nhau. Người ta không là “nhà văn để chọn
lựa nói về một số sự vật nào đó, nhưng chọn lựa nói về chúng bằng một cách nào
đó,”[7] theo Sartre. Thành thử, cùng một sự
vật nhưng qua ngòi bút của mỗi nhà văn, nó xuất hiện khác nhau. Mỗi một tác phẩm
chỉ nhặt nhạnh một chi tiết nào đó, một khía cạnh nào đó của nó.
Văn
học miền Nam hình thành trên tính cách đó. Vì vậy, có thể nói, văn học miền Nam
như một cánh rừng bạt ngàn. Nó dung chứa hết thảy hình thức văn chương, từ bình
dân đến cao cấp, từ hữu khuynh đến tả khuynh, từ cổ điển đến hiện đại. Nhiều
trào lưu, khuynh hướng chống đối nhau vẫn cùng hiện diện. Trào lưu nào, khuynh
hướng nào có độc giả của trào lưu và khuynh hướng đó.[8] Mai Thảo có độc giả của Mai Thảo, Lê
Xuyên có độc giả của Lê Xuyên, Nguyễn Vỹ có độc giả của Nguyễn Vỹ, Nhất Linh có
độc giả của Nhất Linh, Nguyễn Thị Thụy Vũ có độc giả của Nguyễn Thị Thụy Vũ, Lệ
Hằng có độc giả của Lệ Hằng, Võ Hồng có độc giả của Võ Hồng, Duyên Anh có độc
giả của Duyên Anh, bà Tùng Long có độc giả của bà Tùng Long…Nội dung và đề tài
hết sức phong phú từ tình yêu, thân phận, những thao thức, dằn vặt cá nhân, ám ảnh
tình dục cho đến tệ nạn xã hội, hiện tượng tham nhũng, sự suy đồi đạo đức, sự
khao khát hòa bình, niềm mơ ước thống nhất. Sự đa dạng và mở khiến văn học miền
Nam xuất hiện nhiều hiện tượng văn học độc đáo, vẫn còn ảnh hưởng lâu dài về
sau. Hiện tượng thơ: thơ Nguyên Sa, thơ Thanh Tâm Tuyền, thơ Bùi Giáng, thơ
Nguyễn Đức Sơn, thơ Phạm Thiên Thư…; hiện tượng văn: văn Mai Thảo, văn Dương
Nghiễm Mậu, văn Lê Xuyên…; hiện tượng biên khảo: các tác phẩm của Phạm Công Thiện,
Bùi Giáng, Nguyễn Văn Trung, Nhất Hạnh…; hiện tượng nhà văn nữ: Nhã Ca, Túy Hồng,
Nguyễn Thị Hoàng, Nguyễn Thị Thụy Vũ, Trần Thị Ngh. Các nhà văn nữ không chỉ
táo bạo trong đề tài, cách xử lý cốt truyện và nhân vật, mà còn trong việc cách
tân ngôn ngữ. Họ mở ra một cánh cửa để nhìn vào thế giới nội tâm tuy đơn giản
bên ngoài nhưng lại vô cùng phức tạp, tinh tế bên trong của nữ giới, nhất là nữ
giới trong thời hiện đại.
Nói
chung, không thời nào trong văn học nước nhà mà tính cách riêng biệt của tác giả
được thể hiện một cách sắc nét và độc đáo như thời kỳ hai mươi năm văn học miền
Nam. Thật khó mà lẫn lộn giữa thơ tình Nguyên Sa mềm mại, bộc trực nhưng duyên
dáng với thơ tình Phạm Thiên Thư mang mang, tinh tế và trong suốt; giữa văn Võ
Phiến chi li với văn Lê Xuyên dân dã, tươi sống; hay giữa biên khảo văn học và
triết lý Nguyễn Văn Trung mạch lạc, khúc chiết với biên khảo văn học và triết
lý của Tam Ích phong phú, lang mang và đầy cá tính.
Tính
đa dạng đó còn tìm thấy ở thành phần tác giả. Nhà biên khảo Trần Thiện Đạo nhận
xét về tờ Văn, một trong những tạp chí văn học hàng đầu của miền Nam trước
1975, như sau: “…tạp chí Văn và đặc san Tân văn qui tụ quanh mình
hầu hết các văn gia và thức giả ở miền Nam, kể cả những cán bộ nằm vùng.
Đầy đủ mọi lập trường, khuynh hữu có, lừng khừng có, khuynh tả có; đầy đủ mọi
thế hệ, trẻ có, già có; đầy đủ mọi tài năng, nghiệp dư có, chuyên nghiệp có; đầy
đủ mọi chiều hướng, cổ điển, lãng mạn, tả chơn, siêu thực, hiện thực, hiện
sinh, hiện đại và nhiều thứ khác nữa.”[9] Tính cách này không chỉ ở Văn và Tân
Văn mà cũng ở nhiều tạp chí văn học khác như Văn Học, Nghệ Thuật, Vấn Đề, Khởi
Hành.., qua đó, những Trần Hoài Thư, Hồ Minh Dũng, Lương Thái Sỹ, Y Uyên, Huỳnh
Hữu Ủy, Nguyễn Chí Kham, Trần Doãn Nho, Phạm Ngọc Lư…là những cây bút ở phía
bên này cùng xuất hiện cùng với những Yên My (tức Trần Hữu Lục), Thái Ngọc San,
Mường Mán, Ngụy Ngữ, Tần Hoài Dạ Vũ hay Lê Văn Ngăn là những cây bút (thân hay
trực tiếp hoạt động cho) phía bên kia. Riêng về tạp chí Bách Khoa, Nguyễn Hiến
Lê ghi lại trong hồi ký của mình: “Tư tưởng chính trị của những cây viết nòng cốt
của Bách Khoa có khi trái ngược nhau: Vũ Hạnh thiên cộng, sau theo cộng. Võ Phiến
chống cộng. Đoàn Thêm, Phan Văn Tạo, không ưa cộng nhưng cũng không đả; không
thích Mỹ nhưng cũng không nói ra [...] Tôi, có lẽ cả Nguyễn Ngu Ý và Lê Ngộ
Châu có cảm tình với kháng chiến [...] Mặc dầu vậy, các anh em trong tòa soạn vẫn
giữ tình hoà hảo với nhau. Xu hướng phản nhau như Vũ Hạnh và Võ Phiến mà vẫn trọng
tư tưởng của nhau, ít nhất trong 10 năm đầu. Đó là điểm tôi quý nhất.”[10]
Nói
đến sự đa dạng không thể không nói đến sự xuất hiện của những tạp chí “tả
khuynh”, nổi bật nhất là Đối Diện, Trình Bày, Hành Trình và Đất Nước. Điều đáng
lưu ý, cộng tác cho những tờ báo này không chỉ là những người tả khuynh mà có đủ
những khuôn mặt văn chương miền Nam khác, kể cả những nhà văn có xu hướng chống
Cộng. Theo Nguyễn Văn Lục, “Giữa Hành Trình và Đất Nước, cộng sản như thể đang ở
ngoài nhà, nay đã vào đến trong nhà, vào buồng ngủ..của tờ báo. Nó lộ liễu và
công khai quá. Nó không cần đeo mặt nạ. Tôi ngạc nhiên khi nhìn thấy tên tuổi
những Nguyên Sa, Luân Hoán, Du Tử Lê, Nguyễn Tử Quý, Thảo Trường bên cạnh Ngô
Kha, Ngụy Ngữ. Với cung cách lộn sòng như thế này – không phân biệt tà-ngụy –
cùng đứng chung, xếp hàng. Miền Nam đang trải qua một mùa gió chướng và những
cơn thử thách cuối cùng của một dòng lũ triều cường có thể cuốn trôi và phá sạch
tất cả.”
Là
tả khuynh, nên một số sáng tác và bài biên khảo trong đó gần như công khai chống
Mỹ, chống chính quyền, chống chiến tranh. Chẳng thế mà khi viết về các tạp chí
này, Nguyễn Văn Lục viết: “Ở giai đoạn chót của miền Nam, Trình Bày ngang nhiên
xuất hiện, in ấn đàng hoàng, bất chấp kiểm duyệt, bất chấp tịch thu báo.” (…) “Ở
trong tình trạng này, thật khó xếp hạng, thật khó biết ai là người quốc gia, ai
là người bị cộng sản lợi dụng và ai là người cộng sản thứ thiệt? Nếu cần tố cáo
thì tố cáo ai nhỉ? Ai là người anh em của ta, ai là kẻ thù?”[11]
Sự
hiện diện của những tạp chí tả khuynh này nói lên cái gì? Theo tôi, nó nói lên
tính cách mở của văn học miền Nam. Chỉ có trong khung cảnh của một xã hội mở mới
có thể có những sản phẩm văn hóa “ngược dòng” như thế. Về phương diện chính trị,
sự hiện diện của chúng có cái gì như trái cựa, nhưng hoàn toàn tự nhiên. Tuy có
chính sách kiểm duyệt, nhưng nói chung, chế độ miền Nam dành một số tự do tương
đối rộng rãi, nên tiếng nói tả khuynh vẫn có chỗ đứng.[12] (Vả lại, tả khuynh hiểu như một xu
hướng cải cách xã hội theo hướng tiến bộ của nhân loại chẳng phải là độc quyền
của riêng chỉ những người Cộng Sản hay thân Cộng). Không lạ gì, những người Cộng
Sản lợi dụng chúng để lũng đoạn chính quyền quốc gia. Dù chống Mỹ hay chống
chính quyền VNCH đến đâu mà không tuân phục đường lối duy nhất của đảng Cộng Sản
thì cũng đều không được chấp nhận. Vì thế, sau khi Cộng Sản chiếm được chính
quyền, tất cả các tạp chí nói trên đều bị đình bản và những người chủ trương
cũng như một số cây bút cộng tác chẳng những không được trọng dụng, mà thậm chí
có người còn bị làm khó dễ như Nguyễn Văn Trung, chủ bút tạp chí Hành Trình.
Riêng về tạp chí Đối Diện thì người chủ trương là linh mục Chân Tín và người cộng
tác mật thiết là giáo sư Nguyễn Ngọc Lan sau này trở thành những người bất đồng
chính kiến với chế độ.
Dẫu
sao, xét riêng về khía cạnh văn chương, thì sự hiện diện của các tạp chí này vẫn
là nét đặc thù, nêu lên tính da dạng trong văn học miền Nam.
2. Tính
kế tục: Văn
học như một dòng sông, có nguồn có ngọn, có trước có sau. Khác với văn học miền
Bắc chỉ thu hẹp trong dòng văn học được họ gọi là “cách mạng”, ‘tiến bộ” và
“yêu nước” hiểu theo cách riêng của họ, văn học miền Nam kế tục văn học truyền
thống, qua văn học tiền chiến và kéo dài cho đến văn học phát triển trong vùng
quốc gia thời chiến tranh. Theo một nhận xét khá xác đáng của Vương Trí Nhàn,
trong lúc “Văn học miền Bắc trước năm 1975 đi theo luật riêng”, “phủ nhận những
kinh nghiệm của thời tiền chiến”, “gần như cô lập”, chỉ biết có văn học Nga và
Trung Hoa (mà ngay hai nước này lúc đó “cũng đứng cô lập với thế giới”), thì
văn học miền Nam “có sự nối tiếp những di sản cũ” và “tiếp nhận một cách bình
thường đối với ảnh hưởng nước ngoài.”[13] Tóm lại, miền Nam bảo lưu tất cả sản
phẩm văn học thuộc về mọi thời kỳ trước đó. Thử tưởng tượng: nếu không có văn học
miền Nam, văn học đất nước rốt cuộc sẽ chỉ thu tóm trong nền văn học xã hội chủ
nghĩa đơn điệu, thì thật là một thiệt hại lớn lao cho văn học Việt Nam.
3. Tính
hiện đại: Tính
hiện đại biểu hiện trên hai mặt, một là, đáp ứng với những nhu cầu mới của thời
đại và hai là, tiếp nhận và sử dụng các thành tựu về tư tưởng, văn hóa và văn
chương của thế giới.
-
Sau 1954, sau một thời gian ngắn ngủi tạm sống trong không khí văn học tiền chiến,
văn học miền Nam trở nên sôi động và càng ngày càng sôi động với trào lưu đổi mới.
Khởi bằng Sáng Tạo, văn chương đột ngột chuyển hướng để như hòa nhập với thời đại.
Sự ra đời của Sáng Tạo, một mặt, là nỗ lực đáp ứng với nhu cầu chuyển đổi của
xã hội và cuộc sống và mặt khác là một vượt thoát khỏi cái cũ, tìm ra cái mới
nhằm mục đích đẩy nền văn học đi tới. Tiếp sau Sáng Tạo, văn chương miền Nam
như được đà, nổ bùng ra với nhiều cây bút mới và những thử nghiệm mới. Đặc biệt
là những cây bút trẻ. Họ đột ngột xuất hiện trên vòm trời nghệ thuật với một
nhân dáng mới, một bản lĩnh mới, tự tin vào táo bạo. Văn đàn luôn luôn chuyển động
và sôi động. Cái mới, cái lạ trên mọi lãnh vực văn chương hầu như luôn sẵn sàng
đâu đó, chỉ chờ cơ hội là bung ra.
-
Mặt khác, nhờ sự tiếp cận với các trào lưu và tư tưởng văn chương Tây Phương,
văn học miền Nam được quốc tế hóa. Sự tiếp nhận ảnh hưởng của văn chương quốc tế
là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự đổi mới của văn học miền
Nam. Các tư tưởng triết học mới tràn vào và được thể nhập vào các sáng tác văn
chương. Những băn khoăn siêu hình tìm thấy không những trong các bài biên khảo
mà còn tìm thấy trong thơ và trong văn. Thơ Tô Thùy Yên chẳng hạn:
Ta
gắng về sâu lòng quá vãng
Truy
tầm mê mỏi lý sơ nguyên
Hỡi
ôi, dọc dọc thấy câm cứng
Mặt
trợn trừng chưa dứt ngạc nhiên
Hay
các nhân vật trong truyện của Dương Nghiễm Mậu hay Duy Thanh chẳng hạn.
Các
trào lưu triết học mới đã giúp các nhà văn, nhà thơ tạo nên nhưng nhân vật mới,
mới toanh so với thời kỳ trước. Chúng ta tìm thấy những nhân vật nổi loạn chống
các định chế xã hội, chống lại số phận, chống lại chính mình hay những nhân vật
bị ám ảnh và bị thúc đẩy bởi những động lực vô thức. Trong tác phẩm của các nhà
văn nữ, ta cũng tìm thấy tính cách nổi loạn như thế, nhưng ở một chiều hướng
khác: bày tỏ mình và chống lại những định kiến khắc nghiệt về thân phận phụ nữ
trong xã hội Á đông. Nhân vật không chỉ là một ai đó sống trong một khung cảnh
nào đó, gặp những chuyện đời éo le nào đó, mà còn là một con vật suy tưởng. Nó
đặt vấn đề. Nó thao thức. Nó tra vấn về mình. Thanh Tâm Tuyền phát biểu về nhân
vật tiểu thuyết như sau:
“Phân
biệt một tiểu thuyết cổ điển với tiểu thuyết mới, người ta thường gán cho tiểu
thuyết mới một tính chất phi lý, các nhân vật bây giờ là phi lý. Sự thật, tiểu
thuyết xưa mới phi lý, vì nhân vật tiểu thuyết xưa thường sống trong một đam mê
nào đó (passion). Mà đam mê là dẫn đến phi lý. Nhân vật tiểu thuyết bây giờ
sáng suốt quá, ý thức quá, không còn đam mê. Người đọc gán cho chúng là phi lý
vì sợ sự sáng suốt đó. (…) Tác giả nhập vào ý thức nhân vật và sống trong đó.
Nhân vật thì cô đơn, khắc khoải giữa cuộc đời chưa thành hình. Nhân vật dần dần
chỉ còn là hình bóng, hình bóng chỉ là tiếng nói. Thí dụ: La Chute của Camus.”[14]
Chưa
hết. Trong những truyện ngắn tiêu biểu như “Người đạp xe vào thành phố buổi
sáng”, “Thành phố dốc đồi”…của Hoàng Ngọc Biên, nhân vật không những chỉ là
hình bóng mà còn…biến mất. Chẳng những thế, cốt truyện cũng biến mất theo.
Hoàng Ngọc Biên là nhà văn đầu tiên thử nghiệm lối viết mới của trào lưu “tân
tiểu thuyết” (neauveau roman) xuất hiện ở Pháp với những Alain Robbe-Grillet,
Nathalie Sarraute, Michel Butor.
Tóm
lại, những nỗ lực không ngừng của các tài năng của văn học miền Nam đã đưa văn
học đất nước hòa nhập vào thời đại. Nó biến văn học thành một dòng chảy liên tục,
đi tới, đi tới…Nhưng, biến cố lịch sử 1975 đã chận đứng nó lại, phũ phàng. Tiếc
thay!
III. Về nội dung:
1. Tính
nhân bản: Tính
nhân bản ở đây phải hiểu bằng một khái niệm rộng hơn là khái niệm về đạo đức
hay tình người. Với sự giúp đỡ của những trào lưu triết học mới, nhà văn, nhà
thơ có thể đi sâu hơn vào những khía cạnh ẩn dấu của con người, về mặt ý thức,
tâm lý cũng như về mặt tương quan xã hội. Văn học miền Nam nói chung, trong quá
trình phát triển của nó, đề cập đến con người như một hiện sinh, một thân phận
chứ không chỉ như một hữu thể chính trị và cũng không chỉ như một hữu thể đạo đức,
hiều theo nghĩa cổ điển. Do đó, ngoài những tác phẩm đề cao tình người, đề cao
tình gia đình, một số tác phẩm cũng đề cập đến những ám ảnh tình dục, những ray
rứt về phận người hay những vấn nạn triết lý về đời người và người đời. Chẳng hạn
như diễn tả nỗi cô đơn của con người khi chỉ đối diện với chính mình trong “Một
mình” của Võ Phiến; hay phân tích chi li cái “chất đàn ông” chứa đựng trong một
tay đàn ông chơi gái qua cái nhìn của một gái điếm, trong “Đàn ông”, cũng của
Võ Phiến; hay những dằn vặt về tình yêu và tình dục trong một số các tác phẩm của
Túy Hồng. Tóm lại, là săm soi con người qua những tình huống và hoàn cảnh khác
nhau.
Ngoài
ra, trong những tác phẩm viết về chiến tranh, tác giả không đề cập đến người
lính như những kẻ chỉ biết “nhắm thẳng quân thù mà bắn”. Ngược lại, hầu hết đều
viết về những gian khổ của người lính và những ray rứt của họ khi phải cầm súng
bắn vào những người cùng máu mủ. Dù chống Cộng, không có một tác phẩm văn
chương nào kêu gào giết cho đến người Cộng Sản cuối cùng. Chẳng những thế, có
tác giả như nhà thơ Trang Châu, còn kêu gọi một cuộc “chiến đấu không hận thù”:
trong
cuộc chiến hôm nay
cho
tôi xin chiến đấu không hận thù
xin
những vết thương bình đẳng
cho
tôi đổi một trăm chiến thắng
Có
thể nói, không giai đoạn nào mà văn học mang đầy đủ tính cách “người” như hai
mươi năm văn học Miền Nam. Có khóc, có cười, có đau thương, có thống khổ, có
vui mừng, phấn khởi, có lo âu, dằn vặt, thậm chí có dâm, có loạn. Một nền văn học
thể hiện con người trong tất cả cái phức tạp của kiếp nhân sinh. Thay vì chỉ đề
cập đến cái thiện, cái đẹp, người ta đề cập đến cả cái ác, cái xấu. Thay vì
dùng văn chương chỉ để “tải đạo”, người ta dùng văn chương để lột trần những bề
trái, những khía cạnh giấu ẩn, tăm tối, xấu xa của con người. Có người bảo đó
là một nên văn nghệ viễn mơ; có người cho là một nền văn học đồi trụy. Tùy. Văn
học là sản phẩm của tự do thì phê phán văn học cũng tự do. Tùy cách thưởng thức,
cách đọc, cách tiếp cận. Và cũng tùy điểm đứng, tùy cách đánh giá về mặt đạo đức
và cũng tùy quan điểm về văn học. “Tùy” cũng còn ở chỗ: dở và hay.
2. Tính
hiện thực: Tác
phẩm văn chương, dù bản chất là hư cấu, không thể thoát khỏi sự ràng buộc vào
hiện thực. Phản ảnh hiện thực vào tác phẩm mức độ nào tùy thuộc vào nghệ thuật
của từng tác giả. Văn chương miền Nam dường như không giấu giếm điều gì. Nó hiện
ra cách này hay cách khác qua những tác giả và tác phẩm khác nhau. Nói cách
khác, hiện thực được phản ảnh khác nhau qua từng tác giả và từng tác phẩm. Ta
có thể tìm thấy những ẩn ức tâm lý trong Võ Phiến, những dằn vặt trong Dương
Nghiễm Mậu thì cũng có thể tìm thấy những trang văn dịu dàng về tình yêu tuổi
nhỏ của Hoàng Ngọc Tuấn. Nếu ta có thể tìm thấy khung cảnh thanh bình của một
Sài Gòn vắng lửa đạn “Con đường Duy Tân cây dài bóng mát”, “uống ly chanh đường,
uống môi em ngọt” thì đồng thời cũng tìm thấy dấu vết của một xã hội đang phân
rã, ly tán:
Năm
đọa đầy những đêm giới nghiêm
Năm
đằng đẵng những ngày tuyệt thực
Năm
máu chảy và năm ruột mềm
Năm
bom đạn và năm bão lụt (Trần Dạ Từ)
Hiện
thực chiến tranh đuợc diễn tả vô cùng sống động ở nhiều tác giả, nhất là các
tác giả khoát áo nhà bính. Khác với hình ảnh “đường ra trận mùa này đẹp lắm” của
những anh lính bộ đội, với người lính miền Nam, chiến tranh mang một hình ảnh
khác: tàn khốc.
Mùi
tử khí theo khói đưa, lửa quyện
Xác
phơi mình chờ đêm xuống mang đi
Bài
vọng cổ. Trời ơi! Ai cất tiếng!
Xuống
câu Xề nghe não nuột, lâm ly ! (Huy Văn)
Một
đoạn của Văn Lệ Thiên trích từ “Trong lớp khói mầu” về cái chết của một người bạn
cùng
đơn vị:
“Thới
thả cây súng xuống đất. Người đứng sau lưng kêu “trời”. Anh ta quăng một trái
khói. Khói tỏa xanh đặc một khoảng, che khuất Khắc, cái thùng rác và phần dưới
cái cây bên đường. Chúng nó lại bắn vào đám khói. Khắc được lôi vào, chỉ còn là
cái xác. Nhưng cái xác đã bị thêm hai viên đạn nữa. Trên lưng Khắc đóng rõ ba lỗ
máu. Người can đảm trừng trừng nhìn xác bạn, rồi tự vuốt mặt mình.”
Và
buồn, rất buồn như ở Trần Dzạ Lữ:
Chiều
Mai Lộc không mưa không nắng
lửa
cháy trong hồn những kẻ đi xa
này
anh lính nhỏ nhoi miền Bắc
giữa
sương mù anh có nhận ra ta?
Đó
là ngoài chiến trường. Còn ở chốn dân dã thì sao? Đây là khung cảnh của một trường
học ở vùng “xôi đậu” trong “Ngày về của bọn họ” của Y Uyên:
“Thằng
học trò trưởng lớp vẫn co ro trước cửa văn phòng hiệu trưởng đợi Ngưỡng. Đầu nó
chùm hụp một cái mũ nhà binh đã cũ. Ngưỡng không hiểu nó thiếu khôn ngoan hơn
mình hay bạo dạn hơn. Ngưỡng không bao giờ vứt cái vỏ Quân tiếp vụ ở trường như
trước kia vẫn vứt những vỏ Ruby. Chắc thằng bé lại muốn xin thôi học. Buổi nào
Ngưỡng cũng vỗ về chúng như một thông lệ cầu nguyện: "Các em cứ gắng đi học,
cuối năm thầy cho đậu hết". Nhưng sổ điểm danh ngày nào cũng chạy dọc một
cột dấu chữ thập. Có đứa vừa ra khỏi lớp học vừa mếu máo, luẩn quẩn bên cửa sổ
nhìn vào cả buổi, có đứa Ngưỡng nghe tin bị bắt lên núi cả tháng mới thấy người
nhà đến xin lại hồ sơ, có đứa nghỉ hôm trước, hôm sau gửi cho thầy một lá thư đầy
lỗi chính tả hẹn ngày "giải phóng" cho thầy. Ngưỡng thay vì soạn bài
đã lục trí nhớ chép lại những bản nhạc của Phạm Duy đem dạy học trò. "Ngày
trở về có anh thương binh chống nạng cày bừa…"; "Từ ngày chinh chiến
mùa thu…"; "Tôi yêu tiếng nước tôi từ khi mới ra đời…". Lúc này,
chỉ còn Phạm Duy mới dạy được chúng nó. Nhưng chỉ dạy một bài ca, một câu nói về
Phạm Duy, những đứa trẻ lại thấy mình tách khỏi khối Việt Nam thảm họa, thấy
mình một mình lo lắng trên đường về, một mình thao thức chờ tiếng trống tựu để
biết đã qua đêm. Không còn ai để cất lời than chung với nó, chỉ có từng người
hoang mang lẫn trốn.”
Trong
truyện, tuy không có súng đạn, nhưng đầy cả chiến tranh!
Xuất
phát từ hiện thực, bây giờ đọc lại những truyện ngắn hay thơ thời đó, dù cũ và
dù cảm giác khác đi – cuộc sống hiện lên vẫn rõ ràng, mồn một, sống động. Văn
chương miền Nam ở đó, có quằn quại, đau đớn, dằn vặt. Và cũng có cả hưởng thụ,
vui chơi. Cuộc sống là thế, hiện thực là thế. Đọc lại các tác phẩm miền Nam,
Vương Trí Nhàn nhận xét: “Thì bức tranh về xã hội chiến tranh như thế, tôi thấy
rất nhiều trong các tác phẩm của các nhà văn miền Nam, ở phần tốt nhất của họ, ở
phần họ đúng là nhà văn, thì họ đã nói lên được thực trạng xã hội, ở đấy, đọc
thấy rõ hơn, và có cảm tưởng như trở lại không khí của một đất nước, đã trải
qua ba mươi năm quá đặc biệt.”
3. Tính
bi kịch: Một
trong những thuộc tính của văn chương là tính bi kịch. Không có tác phẩm văn
chương nào không nói lên, đề cập đến hay xây dựng bi kịch. Nói một cách khác,
phải bi kịch hóa mới thành văn chương. Sáng tạo văn chương là gì nếu không phải
là sáng tạo bi kịch. Như chúng ta đều biết, những tác phẩm văn chương lớn trong
văn học nhân loại bao giờ cũng chứa đựng tính chất bi kịch. Trong một xã hội
bình thường thì bi kịch diễn ra nhẹ nhàng, đơn giản và do đó, tính bi kịch
trong văn chương cũng diễn ra nhẹ nhàng, đơn giản. Như cái dửng dưng, buồn nản
về quan hệ nam-nữ trong “Bonjour tristesse” (Buồn ơi chào mi) của Francois
Sagan chẳng hạn. Trong một xã hội nhiễu nhương, bi kịch xã hội càng nhiều, càng
lớn và do đó, bi kịch văn chương càng đa dạng và càng sâu sắc.
Nói
bi kịch, nghe trầm trọng. Thực ra, tính bi kịch trong văn chương chẳng qua là
đào xới và phân tích những mâu thuẫn, xung đột, va chạm cũng như những nghịch
lý phô bày hay tiềm ẩn trong con người và trong cuộc sống. Tính bi kịch trong
trào lưu văn chương đổi mới không phải chỉ là những tình cảnh éo le, gay cấn
hay ngang trái đời thường mà tìm thấy ở những cái vốn chẳng có gì là gay cấn.
Nhã Ca tìm thấy bi kịch ngay ở những chỗ trông ra ít bi kịch nhất: nỗi buồn thời
mới lớn.
Đời
sống ôi buồn như cỏ khô
Này
anh, em cũng tựa sương mù
Khi
về tay nhỏ che trời rét
Nghe
giá băng mòn hết tuổi thơ.
Trong
“Vòng tay học trò”, Nguyễn Thị Hoàng viết về một điều “ngang trái”: tình yêu giữa
cô giáo và cậu học trò. Trong “Yêu”, Chu Tử cũng mô tả một điều “ngang trái”
khác: tình yêu của “cô cháu” với “ông chú” là bạn của ba. Trong “Tôi nhìn tôi
trên vách”, Túy Hồng viết về sự xung đột cá tính, địa phương, cũ-mới diễn ra
trong gia đình.
Cơn
khóc khởi đầu bằng những cái chớp mắt nhỏ, nỗi buồn khởi đầu bằng tiếng thở dài
ẩm ướt, cơn điên khởi đầu bằng những sợi thần kinh hư, tôi thảng thốt nghĩ rằng
tôi đang ở trong một cái ống, mở thoáng hai đầu trông ra cuối trời mơ ước, cuối
trời kỷ niệm. Tôi trông ra và tôi thúc thủ bó tay.
Thảo
rướm giọng:
“Lấy
chồng đôi khi là một sự lỡ tay.” Trâm ngừng viết ngửng đầu lên khôi hài:
“Lấy
chồng là tự sát…” (Túy
Hồng)
Túy
Hồng đẩy những va chạm lặt vặt, thường ngày thành bi kịch, bi kịch của cá tính
và qua đó, bi kịch gia đình.
Đi
sâu hơn và xa hơn, trong “Niềm đau nhức của khoảng trống”, Dương Nghiễm Mậu đề
cập đến nỗi khắc khoải của một người khi bị mất đi một phần cơ thể, dù phần bị
mất đi là cái bướu độc cần phải cắt bỏ:
“Thân
thể anh còn đây, cái bướu đã mất. Anh khước từ sự hiện diện vô ích của nó nên
anh đã trở thành một sự không thực. Anh chẳng còn gì ngoài cái thân thể đang dần
dần nhiễm độc, ung thối ra cho những sinh vật khác sinh sống. Anh là một sự
không thực nằm đây – Sự quái gở bắt đầu bay hơi ẩm mốc. Nhưng từ đó anh biết rằng
anh là gì. Anh hơn đám đông vây quanh, bởi anh ý thức được sự có anh, mọi người
coi họ có mặt- nhưng là một sự có mặt hư ảo, không thấy mình.”
Dương
Nghiễm mậu đã biến một điều bình thường, thậm chí vô nghĩa, thành bi kịch; ở
đây là bi kịch thân phận, bi kịch hiện sinh. Hay nói cho đúng, đây là một loại
“bi kịch ý thức” vì trong truyện, “Tác giả nhập vào ý thức nhân vật và sống
trong đó,” theo cách phân tích của Thanh Tâm Tuyền ở trên.
Bi
kịch lớn nhất là bi kịch chiến tranh. Trong 20 năm, cuộc chiến trở thành bi kịch
mẹ kéo theo vô vàn bi kịch con, tác động trên cả chiều dài lịch sử và toàn thể
xã hội và đi vào từng mảnh rời của số phận cá nhân. Bi kịch hiện thực biến
thành bi kịch văn chương. Khuôn mặt chiến tranh được phản ảnh một cách sống động
qua rất nhiều tác giả, nhất là những cây bút nhà binh: Hồ Minh Dũng, Văn lệ
Thiên, Thế Uyên, Nguyên Vũ, Vương Thanh, Lê Bá Lăng, Luân Hoán, Nguyễn Nho Sa Mạc,
Nguyễn Bắc Sơn, Mang Viên Long, Lữ Quỳnh, Kinh Dương Vương…Nhiều, rất nhiều. Hầu
hết đều mô tả sự tàn phá, đau khổ gây ra bởi cuộc chiến nhưng mỗi tác giả có một
cách nhìn khác nhau. Trần Hoài Thư, Lê Bá Lăng, Vương Thanh dữ dội, sống động;
Y Uyên điềm tĩnh, nhưng cay đắng; Văn Lệ Thiên chừng mực, buồn bã. Nhiều truyện
ngắn về chiến tranh khá độc đáo, đọc đã lâu lắm rồi, vẫn còn đọng lại trong đầu
óc, chẳng hạn như “Khu rừng mùa xuân” của Vương Thanh hay “Đường kiến” của Kinh
Dương Vương. Ngoài ra, một số tác phẩm mô tả những bi kịch do sự hiện diện của
quân đội nước ngoài. “Vành đai xanh”, bút ký của Ngô Thế Vinh chẳng hạn, vừa
bày tỏ thái độ không Cộng Sản, lại vừa bức xúc về sự hiện diện của lính Mỹ ở đất
nước.
Có
lẽ truyện ngắn “Người đàn bà mang thai trên kinh Đồng Tháp” của Thảo Trường biểu
trưng cho cái bi kịch chiến tranh, hay nói đúng hơn, bi kịch Quốc Cộng ở mức độ
đáng xem là “bi kịch” nhất.
“Thời
gian này chị Tư quên đi mất hình ảnh anh Tư, vì chị Tư đã được sống lại những cảm
giác khoái lạc đến hỗn độn với anh binh sĩ truyền tin và “chú” em trai cán bộ.
Chị giãy giụa trong những niềm hoan lạc tràn ngập đó. Cuối cùng, đến một hôm,
cái thai trong bụng chị máy động. Cái máy động thứ nhất làm chị bàng hoàng. Chị
tự hỏi “nó”là của ai? Của anh cán bộ hay anh binh sĩ truyền tin? Chị thẫn thờ cả
người và chị muốn rời ngay cái chốn đó. Chị tự hỏi của ai? Chị muốn biết của
ai? Cái thai của ai cũng được nhưng chị phải biết chắc là của người nào. Lúc
này chị lại nghĩ tới anh Tư dữ dội. Và chị Tư bỏ dở công tác binh vận. Chị trở
về căn nhà xiêu vẹo ở ven bờ kinh. Chị khóc ròng vì không biết cái thai của ai.”
Của
ai? Thật khó có câu trả lời rõ ràng. Mà ngay có câu trả lời, bi kịch ở đây vẫn
nguyên vẹn là bi kịch. Tóm lại, bi kịch của một cuộc chiến tranh tương tàn. Của
một bế tắc. Một cùng đường. Nhưng xin lưu ý: nêu lên bi kịch không phải là chấp
nhận bi kịch. Ngược lại, bi kịch ở đây chính là sự thao thức, một thao thức lớn.
Tuy thu tóm trong hình ảnh của một người phụ nữ, câu hỏi “của ai?” hàm chứa một
thao thức về phận người, phận nước, về vận người, vận nước, về chiến tranh và
hòa bình. Và về tương lai.
Người
Cộng Sản không cho phép có cái “bi” trong sáng tác văn chương. Tuy nhiên, một
nhà văn Cộng Sản, Hoàng Phủ Ngọc Tường, sau bao nhiêu năm chỉ biết ca ngợi những
niềm vui, thú nhận: “Ba chục năm nay ta chỉ ủng hộ niềm vui, chỉ cho phép in
thơ nói niềm vui. Nhưng nỗi buồn là cả một tài sản tâm hồn của con người mà ta
hãy còn đóng cửa đối với nó.”[16]
Văn
học miền Nam là một nền văn học được nói lên nỗi buồn, được dựng nên bi kịch.
Xoáy sâu vào bi kịch là một cách vượt qua bi kịch, theo tôi.
Phần kết
Theo
thời gian, một số nhà văn, nhà phê bình văn học trong nước có cái nhìn tỉnh táo
hơn. Xét về khía cạnh lịch sử, văn học miền Nam “là một phần không thể tách rời
của văn học dân tộc,” theo Nguyễn thị Thu Trang. Cũng theo nhà nghiên cứu này,
“Diễn trình văn xuôi đô thị miền Nam trong hai mươi năm không thẳng một đường,
hướng tới một đích như văn học Cách mạng mà quanh co, biến hóa khác thường…”[17] Trong tất cả những ý kiến phát biểu
công khai về văn học miền Nam, theo tôi, Vương Trí Nhàn có một cái nhìn bộc trực
nhất về nền văn học mà một thời bị nhà cầm quyền tìm cách tiêu diệt. Vương Trí
Nhàn nhận xét: “Văn học miền Nam nối tiếp truyền thống văn học của Nguyễn Du, của
Đặng Trần Côn – Đoàn Thị Điểm, của Hồ Xuân Hương, Tú Xương, mảng nói về những
đau khổ của con người và sự bơ vơ, khó khăn, bất lực, không biết đi lối nào
trong đời sống này và cả tính bi thương, đau đớn của con người. Mảng đó tôi thấy
rõ ở Văn học miền Nam đầy đủ hơn.” Nhưng tại sao văn học miền Nam vẫn bị phân
biệt đối xử? Trả lời cho câu hỏi này, nhà phê bình Vương Trí Nhàn nói thẳng: “Sở
dĩ đôi lúc người ta khó công nhận Văn học miền Nam là hình như họ nghĩ như thế
này: tức là nếu công nhận Văn học miền Nam thì [văn học] miền Bắc coi như là
thua, là kém, là không ra gì cả, thậm chí là hỏng, là vứt đi. Tôi nghĩ
"cách nghĩ chỉ có một [nền văn học] thôi" là không phải, vì như vậy sẽ
gây ra nhiều rắc rối trong việc tiếp cận nhau. Tôi cho rằng chúng ta có cả hai
[nền văn học], và hai bên bổ sung cho nhau. Tôi nghĩ độ một trăm năm sau, nếu
muốn nhìn lại xã hội Việt Nam nửa sau thế kỷ XX, muốn hiểu con người sống như
thế nào thì cần phải đọc cả hai. Nền văn học miền Bắc, tôi tạm gọi là văn học của
chiến công, nền văn học lôi cuốn người ta đi vào cuộc chiến tranh, còn nếu nói
có những trang sách nào diễn tả được con người trong chiến tranh thì tôi thấy
nó rõ trong phần văn học miền Nam.”[18]
Tôi
ghi nhận một hiện tượng khá đặc thù: sự biến mất một số các sách biên khảo phê
phán một chiều văn học miền Nam trước đây. Trên mạng, hầu như không còn một bài
viết nào của Trần Trọng Đăng Đàn, Lữ Phương, Phong Hiền – những tác giả một thời
phê phán và lên án một cách mạnh mẽ văn chương miền Nam. Trong khi đi tìm tài
liệu để viết bài thuyết trình này, tôi vào Google, gõ các nhóm chữ như “văn
chương thực dân mới” hay “văn học đồi trụy, phản động…để chỉ thấy một số đường
kết nối vào tên tác giả hay tên tác phẩm, nhưng không tìm thấy gì. Chúng như những
ngôi nhà bỏ hoang. Tóm lại, tôi không thể tìm thấy bất cứ một bài viết nào, dù
ngắn, dù dài lên quan đến “văn học thực dân mới” hay “văn học phản động” vốn là
những đề tài thời danh ngày nào. Tất cả dường như đã bị rút xuống.
Nhà
phê bình Thụy Khuê đưa ra những điều cụ thể hơn: “Cuốn sách của Lê Đình Kỵ được
viết với chủ đích “lột trần bộ mặt của nền văn hóa Mỹ Ngụy” tương tự như trường
hợp Đỗ Đức Hiểu viết cuốn “Phê phán văn học hiện sinh chủ nghĩa” (nxb Văn học
Hà Nội, 1978). Điểm chung của hai cuốn sách này là trình bày, phân tích, và đả
phá đối tượng giới thiệu; nhưng về sau, cả hai tác giả đều gạt chúng ra khỏi
danh sách những tác phẩm của mình. Trong câu chuyện riêng với chúng tôi năm
1993, nhà phê bình Đỗ Đức Hiểu không muốn nhắc đến cuốn “Phê phán văn học hiện
sinh chủ nghĩa”. Nhà nghiên cứu Lê Đình Kỵ cũng không đưa cuốn “Nhìn lại tư tưởng
văn nghệ thời Mỹ Nguỵ” vào phần tác phẩm đã in của mình, trong các bộ “Nhà văn
Việt Nam hiện đại” và “Từ điển văn học”. Có thể nói đó là một sự từ chối tác phẩm
rất đặc biệt, không do lệnh trên mà phát xuất tự lương tâm người trí thức.”[19]
Nhìn
chung, văn học miền Nam tồn tại, hiện hữu và phát triển theo một quy cách chẳng
khác gì văn học ở những quốc gia tiên tiến trên thế giới. Đó là một nền văn học
chứa đựng rất nhiều cái “có”: có bi, có hài, có tả, có hữu, có cổ điển, có hiện
đại, có giải trí, có nhận thức, có cao, có thấp, có cá nhân, có xã hội, có truyền
thống, có quốc tế. Cũng như mọi nền văn học khác, nó có mặt tích cực, có mặt
tiêu cực. Dù phải sống trong chiến tranh, phải chiến đấu để bảo vệ phần đất tự
do, văn học miền Nam phát triển. Đó là một nền văn học không kêu gọi căm thù,
không kêu gọi bạo động. Nền văn học miền Nam, vì tính chân thực của nó, không cần,
không có gì phải đặt lại. Nó là thế. Nó không thể khác.
Nếu
văn học miền Bắc là đơn nhất, là một khối, một tảng và là một công cụ hữu hiệu
bảo vệ chế độ thì ngược lại, văn học miền Nam là một thứ kính vạn hoa. Nó soi rọi
từng chân dung, từng ngóc ngách của cuộc sống, của từng số phận, từng hoàn cảnh.
Do đó, nó không – hoặc khó – trở thành công cụ của nhà cầm quyền; không những
thế, trong rất nhiều trường hợp, lại là một đối trọng với nhà cầm quyền. Cũng
như giòng sông, nó chảy; cũng như cánh rừng, nó mọc, nó ra lá trổ hoa. Đó là một
nền văn học mà sau lưng không có nghị quyết và trước mặt không có kẻ thù. Nó tự
nhiên như nhiên. Như một con chim thả bay ngoài trời hay những bông hoa nở
ngoài đồng nội.
Có
lẽ không ai trong chúng ta không khỏi cảm thấy ngậm ngùi khi cho rằng miền Nam
đã thất bại một phần chỉ vì đã sản sinh và thủ đắc một nền văn học phong phú và
đa dạng như thế. Nhưng mặt khác, nhờ thế mà hôm nay, dù bị trù dập cách này hay
cách khác, nó vẫn cứ tồn tại. Tồn tại bởi từ chính nội lực của nó, chứ không bởi
một ngoại lực nào. Nhờ vào đâu? Dạ thưa, nhờ vào “tính văn học”. Nó văn học nên
nó dính liền với cuộc sống. Hay nói cách khác, vì dính liền với đời sống nên nó
là văn học. Nó văn học nên nó tồn tại. Và phải tồn tại.
Xin được kết luận: Văn học miền Nam là
văn học Việt Nam. Vì nó không những phát triển theo chiều hướng riêng của nó,
mà còn bảo lưu văn học cổ điển, văn học tiền chiến, những tác phẩm văn học khác
trước 1954 cũng như các tác phẩm của Nhân Văn Giai Phẩm!
Có
quý vị ngờ rằng tôi nói quá. Một cách nói thậm xưng. Không. Chỉ xin vận dụng một
chút tưởng tượng, một chút thôi: giả sử như bây giờ đột nhiên văn học miền Nam
biến mất, tất cả đều bốc thành khói bay vào hư không, thì sự nghiên cứu văn học
Việt Nam nói chung sẽ gặp khó khăn như thế nào.
Xin
cám ơn quý vị.
Trần
Doãn Nho
(12/2014)
Ghi Chú:
[2] Đại phàm vật bất đắc
kỳ bình tắc minh, thảo mộc chi vô thanh, phong nhiễu chi minh, thủy chi vô
thanh, phong đãng chi minh…(Đại phàm vật nào cũng vậy, không được bình yên thì
kêu. Cỏ cây vốn không có âm thanh, gió thổi mới kêu; nước kia không có âm
thanh, gió xô nên kêu…) Hàn Dũ (đời Đường) Tống Mạnh Đông Dã tự. (Trích từ Khâu
Chấn Thanh/Lý luận văn học nghệ thuật cổ điển Trung Quốc. NXB Văn Học, 1992,
Mai Xuân Hải dịch.)
[4] Jean-Paul Sartre, Qu’est
ce que la littérature?, Éditons Gallimard, Paris, 1948, tr. 111, 112. “La
littérature (…) est le mouvement par lequel, à chaque instant, l’homme se
libère de l’histoire : en un mot, c’est l’exercice de la liberté.” Bản điện tử:
http://disciplinas.stoa.usp.br/pluginfile.php/67143/mod_resource/content/1/Sartre%20-%20Quest-ce%20que%20la%20litterature.pdf
http://www.viet-studies.info/NguyenKhai_DiTimCaiToiDaMat.htm
[6]Dẫn theo Nguyễn Hưng
Quốc, Văn học Việt Nam dưới chế độ Cộng Sản 1954-1990, nxb Văn Nghệ,
California, 1996, NHQ, tr. 50,51.
[8] Xin ghi lại đây một
nhận xét của Nguyễn Thị Thu Trang: “Đi qua những thành kiến cực đoan cá nhân,
những xung đột về chính trị, những cuộc tranh luận sôi nổi về vấn đề truyền thống
và hiện đại, những biến hóa nhiều chiều của văn chương đương thời…, tác phẩm của
nhiều nhà văn như Sơn Nam, Bình Nguyên Lộc, Võ Hồng, Trang Thế Hy, Nguyễn Văn
Xuân, Minh Quân… viết ở thập niên 50, 60 trong lòng đô thị miền Nam vẫn còn được
nhiều người yêu thích. Điểm chung nhất và là chỗ dựa vững bền của nó là hướng đến
những giá trị văn hóa dân tộc, là bản sắc văn hóa mỗi vùng miền và tình yêu quê
hương chân thành, tha thiết. Họ làm thành một dòng chảy riêng, không tách biệt
nhưng cũng không nhập cuộc vào những trào lưu khác vẫn thường được coi là thịnh
hành đương thời như "hiện sinh", "phân tâm", "ý thức"…
Từ tác phẩm của những nhà văn có kiểu viết rất "truyền thống" và
"cổ điển" này, người đọc có thể nhìn thấy bức tranh đa dạng của văn
hóa miền Nam những năm trước 1975, những sự kiện làm đổi thay đời sống văn hóa,
đặc biệt là đời sống tinh thần của người dân.” (Vài nét về văn xuôi đô thị
miền Nam giai đoạn 1954-1975/Tạp chí Nghiên cứu văn học số 5/2007- vienvanhoc.org.vn)
[9] Trần Thiện Đạo, Chứng
từ tạp chí Văn trong lòng độc giả, Văn chương Việt. Xem ở:
http://www.vanchuongviet.org/index.php?comp=tacpham&action=detail&id=15139
[11] Nguyễn Văn Lục, Diện mạo văn hóa, văn học
miền Nam trong những tình thế cực đoan lại là nơi hội tụ của bốn dòng chảy văn
hóa-văn học, Đàn Chim Việt, 3/11/2013. Xem ở:
http://www.danchimviet.info/archives/81032/dien-mao-van-hoa-van-hoc-mien-nam-trong-nhung-tinh-the-cuc-doan-lai-la-noi-hoi-tu-cua-bon-dong-chay-van-hoa-van-hoc-ket/2013/11
[12] Theo Nguyễn Văn Trung, dưới chế độ VNCH,
“Báo thì không phải kiểm duyệt nhưng có thể bị tịch thu đưa ra toà. Trong khuôn
khổ chính sách hạn chế tự do chính trị như vậy, nếu không xuất bản công khai, hợp
pháp, vẫn có thể in ronéo, phổ biến, bày bán ngay cả trên các sạp báo và có thể
bị tịch thu… Người cầm bút viết những điều cấm kỵ, phê phán chính sách này,
chính sách kia của nhà nước, thậm chí họp nhau viết kháng thư phản đối, đăng
trên báo mà không lo ngại về an ninh chính trị của bản thân gia đình bạn bè.
Nói cách khác, viết phê phán mà không sợ nhà nước.” ( Trích từ Hướng về Miền
Nam Việt Nam, Khởi Hành số 92, tháng 6/2004). Dẫn theo Thụy Khuê, Văn Học
miền Nam 1954-1975. Xem ở: http://vanviet.info/van-hoc-mien-nam/van-hoc-mien-nam/
[13] Vương Trí Nhàn, Văn học miền Nam trong
cách nhìn của Vương Trí Nhàn hôm nay, phòng vấn của Thụy Khuê. Blog Vuong
Trí Nhàn. Xem ở:
http://vuongtrinhan.blogspot.com/2009/04/van-hoc-mien-nam-54-75-trong-cach-nhin.html
[14] Nxb Sáng Tạo, Tủ sách Ý Thức, 95B Gia Long,
Sài Gòn. Bìa của Duy Thanh. Ấn vụ Lam Giang Ấn Quán Sài Gòn. Bản quyền của nhà
xuất bản Sáng Tạo, Sài Gòn, 1965.
Xem
ở: http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=9064&rb=08
[16] Hoàng Phủ Ngọc Tường, Tạp chí “Văn Nghệ” số
tháng 12/1988. Dẫn theo Nguyễn Hưng Quốc, sđd, tr. 251.
[19] Thụy Khuê, Văn Học miền Nam 1954-1975.
Xem ở: http://vanviet.info/van-hoc-mien-nam/van-hoc-mien-nam/
---------------------
HỘI THẢO VỀ VĂN HỌC MIỀN NAM 1954-1975
.
Ngự Thuyết 12/12/2014
.
Bùi Vĩnh Phúc 12.12.2014
.
Nguyễn Hưng
Quốc 12.12.2014
.
Trịnh Thanh Thủy Tuesday, December 09. 2014 11:30:49AM
.
Đặng Phú Phong Cập nhật: 11/12/2014 10:52
.
Đặng Phú Phong Cập nhật: 08/12/2014 12:19
.
Trangđài
Glassey-Trầnguyễn 9.12.2014
.
Du Tử Lê 07/17/2012 06:07 PM
.
Nguyễn Hưng Quốc 07.12.2014
.
Phạm Quốc Bảo Wednesday, December 03, 2014
6:20:29PM
.
Hội Thảo 20 Năm
Văn Học Miền Nam (ngày thứ nhì)
Kalynh Ngô/Người Việt Monday, December 08, 2014 6:51:41PM
.
Hội Thảo 20 Năm
Văn Học Miền Nam (ngày thứ nhất)
Kalynh Ngô/Người Việt Saturday,
December 6, 2014 8:19:21PM
VIDEO : Hội Thảo
20 Năm Văn Học Miền Nam, 1954 – 1975 (ngày thứ nhất)
.
.
Việt Báo 03/12/201400:05:00
.
Nguyễn Hưng Quốc
03.12.2014
.
Ðinh Quang Anh
Thái/Người Việt Tuesday, December 02, 2014 7:25:10PM
.
Người Việt Books tái bản, 2014
Thứ Năm, ngày 27 tháng 11 năm
2014
.
Nguyễn Hưng
Quốc Thứ
Bảy, ngày 29 tháng 11 năm 2014
.
Đinh Quang Anh Thái/Người Việt Wednesday, November 26, 2014 3:00:42 PM
.
Nguyễn Hưng Quốc 25.11.2014
.
Tiểu Muội (thực hiện) Thứ Sáu, ngày 21 tháng 11 năm 2014
.
Kalynh Ngô/Người Việt (thực hiện) 22.11.2014
.
Huy Phương Chủ
Nhật, ngày 23 tháng 11 năm 2014
No comments:
Post a Comment