Friday, May 13, 2011

PHẠM ĐÌNH CHƯƠNG - TÀI NĂNG ÂM NHẠC LỚN [3/4] (Du Tử Lê)


Du Tử Lê
Wednesday, May 04, 2011 3:23:25 PM
Trong một bài viết cách đây khá lâu, tôi đã nhấn mạnh tới một tương tác đẹp đẽ giữa thơ và nhạc; như một gắn bó hữu cơ giữa hai bộ môn này. Nó giúp gia tăng sự giầu có, ý nghĩa và hạnh phúc trong kỷ niệm cho nền tân nhạc miền Nam, 20 năm.
Trong bài viết đó, tôi cũng có viết, đa số các nhạc sĩ của chúng ta, trong đời sáng tác của họ, ít, nhiều, cũng đã có lần tìm đến với thơ, như tìm đến với một người tình lý tưởng - Dù cho sự tìm đến đó, là thành công hay thất bại! Những người nhạc sĩ đến với thơ này, cũng giống như hầu hết các thi sĩ sớm, hay muộn đã tìm về với Lục Bát (một thể thơ đặc thù của văn học Việt).
Nhưng, nói như thế, không có nghĩa, tất cả các nhạc sĩ chỉ có một con đường duy nhất đến thơ. Vì thi ca Việt Nam như một cánh rừng già; đồng thời cũng có thể là biển cả hay vực sâu... Cho nên lịch sử thi ca Việt Nam hàng nghìn năm, đã mang đến cho người đọc (trong đó, có nhạc sĩ) những lựa chọn ứng hợp với cảm thức, trình độ thưởng ngoạn hay, mục tiêu nhắm tới của mỗi cá nhân. Có nhạc sĩ tìm đến với thi ca, như một lối thoát cho những bế tắc cảm hứng. Có những nhạc sĩ đến với thi ca, như đến với một người-tình-chung-của-văn-học. Và, dĩ nhiên, cũng có những nhạc sĩ tìm đến với một loại thơ nào đó, nhằm đáp ứng nhu cầu thưởng ngoạn dễ dãi hay thị hiếu của đám đông.
Cố nhạc sĩ Phạm Ðình Chương ở trường hợp thứ hai. Trường hợp của những nhạc sĩ tìm đến với thi ca, như sự tìm đến với người-tình-chung-của-văn-học.
Cụ thể ở những năm giữa thập niên (19)60, khi thơ Thanh Tâm Tuyền còn là một dị ứng lớn với đa số người thưởng ngoạn thì, họ Phạm đã chọn thơ ông để soạn thành ca khúc. (7)
Ông cũng là một trong vài nhạc sĩ đầu tiên, phá vỡ thành kiến cho rằng thơ tự do không thể phổ nhạc được. Chẳng những vì số chữ không đều của mỗi câu thơ mà các nhạc sĩ còn e ngại sự thiếu thi tính (?)của loại thơ đó nữa.
Như ca khúc “Bài Ngợi Ca Tình Yêu” của Phạm Ðình Chương đã dùng gần hết phân đoạn thứ nhất của bài thơ dài, 4 đoạn của Thanh Tâm Tuyền:
“Tôi chờ đợi lớn lên cùng giông bão / Hôm nay tuổi nhỏ khóc trên vai / Tìm cánh tay nước biển / Con ngựa buồn lửa trốn con ngươi / Ðất nước có một lần tôi ghì đau thương trong thân thể / Những dòng sông, những đường cày, núi nhọn / Những biệt ly, những biệt ly rạn nứt lòng đường / Hút chặt mười ngón tay, ngón chân da thịt / Như người yêu, như người yêu từ chối vùng vằng / Những dòng sông, những đường cày, núi nhọn những biệt ly / Những biệt ly rạn nứt lòng đường...” (Sđd.)
Cũng vậy, với ca khúc “Ðêm Màu Hồng,” họ Phạm cũng lấy gần như nguyên văn, ý của phân đoạn thứ 3, bài thơ Thanh Tâm Tuyền vừa kể trên:
“Em gối đầu sương xuống chuyện trò bằng bóng mình / Em gối đầu sương xuống tôi đẹp bóng hình tôi / Như cuộc đời, như cuộc đời, như mọi người, như chút thôi, như chút thôi / Em là lá biếc, là mây cao, là tiếng hát / Sớm mai khua thức nhiều nhớ thương, nhiều nhớ thương / Em là cánh hoa, là khói sóng / Ðêm màu hồng / Vòng tay, vòng tay dĩ vãng / Vòng tay, vòng tay bát ngát / Chốn yên nghỉ cuối cùng / Dưới mắt sao, dưới bàn chân những đứa con...” (Sđd.)
Ngoài ra, họ Phạm cũng là người đầu tiên có sáng kiến dùng hai bài thơ của một thi sĩ để hoàn tất một ca khúc phổ thơ của thi sĩ ấy. Ðó là ca khúc “Ðôi Mắt Người Sơn Tây” thơ Quang Dũng. (8)
Bất cứ ai, nếu đọc kỹ thơ Quang Dũng, sẽ dễ dàng nhận ra rằng, đoạn đầu của ca khúc này là 4 câu thơ của cố thi sĩ Quang Dũng, trích từ bài thơ nhan đề “Ðôi Bờ”:
“Thương nhớ ơ hờ thương nhớ ai / sông xa từng lớp lớp mưa dài / mắt em xưa có sầu cô quạnh / khi chớm thu về một sớm mai.”
Nhưng ngay sau đoạn “intro.”, họ Phạm lại dùng các đoạn thứ 5, 6, 7 và 8 của bài thơ “Ðôi Mắt Người Sơn Tây” của Quang Dũng để viết tiếp và kết thúc ca khúc ấy. Phần tiếp, được họ Phạm bắt đầu với câu “Ðôi mắt người Sơn Tây / U uẩn chiều luân lạc...” Và chấm dứt bằng câu “Ðã hết sắc mùa chinh chiến cũ / Còn có bao giờ em nhớ ta.” (Sđd.)
Sáng kiến của Phạm Ðình Chương sau đấy, đã được một số nhạc sĩ ứng dụng. Thí dụ nhạc sĩ Ðăng Khánh qua ca khúc “Lệ Buồn Nhớ Mi” - Vốn là hai bài thơ khác nhau của Du Tử Lê.
Là tác giả của nhiều ca khúc phổ từ thơ nổi tiếng, nhạc sĩ Phạm Ðình Chương được ghi nhận có biệt tài giữ nguyên lời mà ca sĩ không bị “trẹo” lưỡi khiến người nghe “nhận” được một... chữ khác, như thường xẩy ra nơi một số nhạc sĩ khác. Thí dụ có những chữ như “tình” không “ăn” được với nốt nhạc, ca sĩ có thể sẽ hát thành “tính” hay “tĩnh!” Chữ “sẻ” sẽ biến thành “sẽ” hoặc “sẹ”... Ðiển hình như trong ca khúc “Mộng dưới hoa” thơ Ðinh Hùng, có một chữ rất “đắt” là chữ “lả” trong câu “mắt em lả bóng dừa hoang dại” - Khi vào nhạc Phạm Ðình Chương, ca sĩ không bị “trẹo” lưỡi, hát thành “lá” hay “lạ.” Chỉ một đôi trường hợp đặc biệt lắm, họ Phạm mới buộc phải thay chữ để tránh sự hiểu lầm tai hại nơi người nghe. Thí dụ khi phổ nhạc bài “Khi tôi chết, hãy đem tôi ra biển,” có câu “Vùi đất lạ thịt xương e khó rã...” - Ông đã đổi thành “Vùi đất lạ thịt xương không tan biến...” Ông nói:
“Nếu giữ nguyên, khi ca sĩ hát, nó sẽ thành ‘Vùi đất lạ thịt xương e kho giá...’”
Ghi nhận về vị trí hay tương quan giữa cố nhạc sĩ Phạm Ðình Chương với nền thi ca Việt Nam miền Nam, hai mươi năm, tác giả Nguyễn Việt trong một bài viết được lưu trữ bởi trang mạng Wikipedia (Bách khoa toàn thư mở), ông viết: “Có thể nói Phạm Ðình Chương là một trong những nhạc sĩ phổ thơ hay nhất. Nhiều bản nhạc phổ thơ của ông đã trở thành những bài hát bất hủ, có một sức sống riêng như Ðôi Mắt Người Sơn Tây (thơ Quang Dũng), Mộng Dưới Hoa (thơ Ðinh Hùng), Mưa Sài Gòn Mưa Hà Nội (thơ Hoàng Anh Tuấn), Nửa Hồn Thương Ðau (thơ Thanh Tâm Tuyền), Ðêm Nhớ Trăng Sài Gòn (thơ Du Tử Lê).”
Nhưng trên tất cả, theo tôi, vẫn là tinh thần tự trọng đáng ghi nhớ của họ Phạm trong lãnh vực phổ nhạc thơ. Bởi vì, trong sinh hoạt thơ và nhạc của 20 năm nghệ thuật miền Nam, đã có không ít những nhạc sĩ thiếu tự trọng, rơi vào một trong 3 (hoặc cả 3) trường hợp sau đây:
1. Dựa theo ý thơ của một bài thơ nào đó để soạn thành ca khúc, nhưng những nhạc sĩ này cố tình không ghi xuất xứ!
2. Khi trình bày hay giới thiệu một ca khúc vốn là thơ của một nhà thơ nào đó, những nhạc sĩ này có thói quen không bao giờ nhắc tới tên nhà thơ!
3. Lấy nguyên bài thơ của một nhà thơ để soạn thành ca khúc, nhưng khi phổ biến, những nhạc sĩ này không ghi tên nhà thơ. Họ chỉ điều chỉnh, hay “nói lại” khi bị dư luận, báo chí phanh phui!
Tựu trung, đó là những tính thiếu lương thiện hay, những vết mực đen hoen ố, đáng tiếc trong sinh hoạt thơ và nhạc của 20 năm nghệ thuật miền Nam.
Nhưng, cho tới ngày từ trần, cố nhạc sĩ Phạm Ðình Chương đều không có mặt trong cả 3 trường hợp vừa nêu. Họ Phạm thận trọng và tự trọng tới mức, khi ông chỉ dùng 2 câu thơ của Thanh Tâm Tuyền, ở phần Coda của bài “Nửa Hồn Thương Ðau,” ông cũng đã ghi “Ý thơ Thanh Tâm Tuyền,” ngay dưới tựa đề; chưa kể thêm phần bị chú ở cuối bài. (Sđd.)
Cũng vậy, ngay dưới nhan đề ca khúc “Màu Kỷ Niệm,” Phạm Ðình Chương ghi “Ý thơ Nguyên Sa.” Cuối bài, ông lại bị chú thêm:
“Viết trong thập niên 60. Cảm hứng từ thơ Nguyên Sa: ‘Áo nàng vàng anh về yêu hoa cúc / áo nàng xanh anh mến lá sân trường / sợ thư tình không đủ nghĩa yêu đương / anh thay mực cho vừa màu áo tím.’ Bốn câu thơ trên trích từ bài Tuổi Mười Ba của ông.” (Sđd.)
Trong một bài nói chuyện về thơ phổ nhạc, ký giả Lê Văn, nguyên chủ biên phần Việt ngữ đài VOA kể, năm 1985, trong họp mặt thân hữu ở Hoa Thịnh Ðốn, tác giả “Nửa Hồn Thương Ðau” khoe với ông rằng:
“Moa vừa phổ nhạc được 1 bài thơ của Du Tử Lê. Thú lắm, để moa hát cho mà nghe.”
Anh ngồi vào piano, đã định hát nhưng trông thấy Quỳnh Giao có mặt ở đó, anh bèn gọi Quỳnh Giao đến và đưa cho cô bản nhạc chép tay của anh. Quỳnh Giao vốn là cô giáo dạy nhạc nên chỉ nhẩm qua một chút là hát được liền, và cô hát rất hay. Ðó là bài “Ðêm, Nhớ Trăng Saigon.” (9)
Nói cách khác, chẳng những không che giấu mà, còn cho thấy ông rất vui khi phổ nhạc một bài thơ. Nên không bao giờ ông quên nhắc tới tác giả bài thơ mỗi khi giới thiệu, trình bày hoặc in trên giấy!
Tóm lại, tính lương thiện của cố nhạc sĩ Phạm Ðình Chương, trong một chừng mực nào đó, đã cho thấy tính văn hóa rất cao của nhạc sĩ miền Nam, mà, ông là một người trong số đó.
Du Tử Lê

(Thứ Năm 12 tháng 5, 2011, kỳ chót: “Ca khúc 'Ly Rượu Mừng' phẩm vật tinh thần trong truyền thống Tết Việt Nam.”

Chú thích:
(7) Nhà văn, nhà thơ Thanh Tâm Tuyền tên thật Dzư Văn Tâm, sinh ngày 13 tháng 3 năm 1936, tại Vinh, Nghệ An. Ông là thành viên nòng cốt của nhóm Sáng Tạo. Ông từ trần ngày 22 tháng 3 năm 2006, tại thành phố Saint Paul, Minnesota, Hoa Kỳ, thọ 70 tuổi.
(8) Theo Wikipedia thì nhà thơ Quang Dũng tên thật là Bùi Ðình Diệm. Ông sinh năm 1921 tại làng Phượng Trì, huyện Ðan Phượng, tỉnh Hà Tây (nay thuộc thành phố Hà Nội). Ngoài tài làm thơ, ông còn được biết đến như một họa sĩ và nhạc sĩ nữa. Bị trù dập sau vụ án Nhân Văn-Giai Phẩm, ông chết âm thầm ngày 13 tháng 10 năm 1988 tại Hà Nội.
(9) Lê Văn, “Hứng nhạc trong thơ DTL,” trang nhà dutule.com (Cột mục “Ghi nhận từ bằng hữu”).
.
.
.

No comments: