Friday, May 13, 2011

NGƯỜI ĐÀN BÀ TRÊN TÀU HQ 502 (bút ký của Phan Lạc Tiếp)

Bút ký ca Phan Lc Tiếp
Apr 24, '11 2:43 A

.
Chuyến di tản của Dương Vận Hạm Thị Nại, HQ 502, một con tàu hỏng máy, đang trong thời kỳ sửa chữa, chở theo trên 5,000 người, rời cầu tàu trong Hải Quân Công Xưởng đêm hôm 29 Tháng Tư năm 1975 với bao nhiêu là khó khăn, hãi hùng, nguy hiểm.
Hầu như trên mười năm sau đó, đã định cư ở Hoa Kỳ an toàn, nhiều đêm ngủ, thần trí tôi vẫn bị trôi theo cơn hốt hoảng kinh hoàng bởi chuyến đi này.
Trong những giấc mơ kinh dị đó, tôi vẫn thấy rõ rừng người đặc nghịt ở trên sàn tàu. Bầu trời thì đen thẫm, những ánh đèn xanh đỏ của những chiếc trực thăng vần vũ, nặng nề bay qua bay lại. Những đám cháy sáng rực bùng lên ở mấy góc trời. Kho xăng Nhà Bè trắng xóa, lấp loáng dưới ánh lửa đang cuồn cuộn bốc cao từ Căn Cứ Hải Quân.
Những tiếng nổ òa vỡ bên tai, kéo theo những tiếng rít của những trái đạn rời nòng từ hai khẩu đại bác của Ðặc Khu Rừng Sát. Con tàu ôm sát bờ lửa đạn ấy để vào nhánh sông Soài Rạp, bò ra cửa biển.
Sáng ngày 30 Tháng Tư, con tàu liệt máy, buông trôi ở cửa sông. Biển ở trước mặt, sóng trắng xô xô từng đợt. Lại những đợt máy bay từ phía Sài Gòn túa ra.
Những chiếc trực thăng bay thấp, dọc theo hông tàu, thấp hơn chiều cao của đài chỉ huy chiến hạm. Cửa máy bay mở rộng. Chúng tôi thấy trong lòng máy bay chật ứ những đàn bà, trẻ con. Mấy bà già hướng về chiến hạm, quỳ, cúi gập người, chấp hai tay mà lễ.
Trong khi đó viên phi công rà được tần số của chiến hạm. Bằng một giọng nói đầy khấp thiết: “Anh em Hi Quân ơi, cu chúng tôi vi. Chúng tôi được lnh bay ra bin đ đáp xung tàu M. Nhưng ti đim hn ch thy bin mông mênh, tàu M đâu không thy, nên phi quay v. Tàu tôi ch còn 5 phút xăng. Xin cu chúng tôi, gia đình tôi, m tôi…
Không cầm lòng được, Hạm Tướng Nguyễn Văn Tánh và “Ban Tham Mưu” chấp nhận những khó khăn, bất trắc, đồng ý là cho trực thăng đáp xuống sân chiến hạm. Sân chiến hạm đông đặc những người, lùng nhùng những chiếc mền đủ màu căng ra che sương gió qua đêm.
Nắng bắt đầu oi ả. Tất cả phải giải tỏa cấp kỳ. Mọi người phải xuống hết sân chiến xa. Sân tàu trống vắng. Chiếc trực thăng từ từ đáp xuống. Một chiếc. Lại một chiếc nữa…
Tới gần trưa ngày 30 Tháng Tư, ông Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng. Cả tàu mấy ngàn người xốn xang, cuống quýt.
Có những tiếng khóc vỡ òa đâu đó. Một buổi họp khẩn cấp để đi đến quyết định: Bằng mọi giá phải thoát ra khỏi lãnh hải Việt Nam.
Phải đi cho bằng được. Toán thợ máy kết hợp lạ lùng cố sửa chữa.
Máy tàu nổ, một máy. Tàu ra được ngoài khơi, lết đến gần Côn Sơn, gặp được hạm đội mình ở đó. Lệnh từ Soái Hạm HQ3 chỉ thị cho HQ16 tới kéo HQ502 đi. Những đêm lừ đừ ở ngoài khơi, đoàn tàu vừa đi vừa đợi nhau.
Những chiếc ghe đầy ứ người sáp vào chiến hạm. Không thể làm ngơ, tàu thả thang dây, lại vớt thêm người. Ðêm xuống, hải đăng Vũng Tàu lóe lên từng đợt như thách thức, như mời gọi, như những vẫy tay giã từ.
Bờ biển quê hương đấy mà giờ đã trở nên kinh khiếp, chia lìa, đớn đau. Ngày đêm, qua làn sóng điện của đài Sài Gòn, không còn là những giọng nói thân quen, mà là những lời kêu gọi chát chúa, đe dọa của kẻ thù: “…quân, cán chính ca ngy quân Sài Gòn mau mau ra trình din.
Những ngày thiếu thốn, chật chội, chia nhau từng ngụm nước, từng nắm cơm chỗ sống, chỗ khê, chỗ thì thiu chua.
Mấy ngày sau, bờ biển Phi Luật Tân hiện ra, núi non chập chùng đen thẫm. Lễ chào và hạ Quốc Kỳ Việt Nam Cộng Hòa lần cuối được diễn ra, đơn giản nhưng vô cùng nghiêm trang và rất đớn đau.
Lá quốc kỳ nền vàng ba sọc đỏ bạc màu từ từ được kéo xuống, cùng với hàng ngàn giọng hát, già, trẻ, nam, nữ cất lên, vừa hùng tráng, vừa chất chứa những nghẹn ngào. Những lời hát như trùm kín cả vùng trời biển nước mênh mông. Lời ca dứt.
Những tiếng kêu khóc bỗng bùng vỡ. Nhìn đâu tôi cũng chỉ thấy những cặp mắt đầm đầm nước mắt.
Trong những tiếng kêu khóc thảng thốt ấy, tôi thấy có tiếng kêu của một người đàn bà: Ơi, con ơi, con ơi…
Trong tập bút ký viết về cuộc di tản này, tôi đã không quên ghi lại tiếng kêu thảng thốt, lạ lùng này.
Tại sao tôi lại không ghi những tiếng kêu khóc khác tràn ứ quanh tôi trên con tàu Thị Nại HQ 502 lúc đó.
Tôi không trả lời được. Vì khi viết lại giây phút xúc động lịch sử này, tay tôi như chỉ tuân theo những gì mà thần trí tôi đã ghi dấu mà tự động viết ra.
Viết ra như vẽ lại rất tự nhiên, không có một sự lựa chọn nào. Nhưng bây giờ thì tôi hiểu. Tình cờ tôi đã hiểu.
Có những hình ảnh tuy mờ nhòa, khi ẩn khi hiện, nhưng không bao giờ biến mất trong trí nhớ của tôi. Tôi không bao giờ quên. Tôi nhớ lại rồi.
Tôi nhớ thật rõ. Tôi hiểu tại sao tôi ghi lại tiếng kêu này.
Xin hãy cho tôi từ từ nhớ lại.
Tôi bỏ chiếc xe hơi nhỏ ở ngoài cửa Hải Quân Công Xưởng, sát bên Bệnh Xá Bạch Ðằng. Tôi đi đầu, hướng dẫn cả gia đình trên mười người, theo đoàn người lũ lượt chạy bộ dọc theo chiều dài của Hải Quân Công Xưởng. Vừa chạy vừa ngoái cổ nhìn trở lại để kiểm soát đoàn “rồng rắn” của gia đình. Chỉ sợ có người bị lạc.
Lạc là vô cùng khốn khổ, khó khăn. Tìm đến cầu tàu trước Bộ Tư Lệnh Hạm Ðội. Con tàu Thị Nại, HQ 502 nằm đó, vị trí 1. Bên ngoài con tàu này còn ba con tàu khác cặp song song.
Tất cả bốn con tàu xám ngắt, hướng mũi phía hạ dòng. Người từ phía sau tràn tới. Như đã hẹn, tôi sẽ phải lên cho được con tàu này. Con tàu do bạn thân cùng khóa với tôi làm Hạm Trưởng – Hải Quân Trung Tá Nguyễn Văn Tánh.
Chúng tôi cũng đã hùn tiền mua thêm nhiều gạo, mì và những thức ăn khô chất sẵn ở tàu này. Nước lấy tối đa.
Lúc này nước thủy triều dâng cao, bắt đầu xuống. Người ken sát nhau như gạch trên cầu tàu, nhích tới, nhích tới. Cái thang dài độc nhất dựng dốc ngược bên hông tàu.
Tôi biết rằng khi khẩn cấp, chỉ cần thả hai mối dây là cái thang tự động tuồi xuống cầu tàu, lăn theo hai bánh xe ghì trên mặt đất, không một chút khó khăn. Tàu sẽ tách bến dễ dàng. Nhưng bây giờ rừng người đang ùn ùn tiến tới.
Những quân nhân, trai tráng thì tìm mọi cách bám vào thành tàu mà lên. Gia đình tôi tất cả mười ba người, con số tình cờ không vui, trong đó có hai ông bà nhạc tôi ốm yếu, bốn đứa con nhỏ dưới mười tuổi.
Chúng tôi không có cách nào khác là phải leo ngược cầu thang nhỏ, dốc ngược này để lên tàu mà thôi.
Tôi lên đầu tiên, bế trên tay thằng con út hai tuổi bụ sữa, nặng trĩu. Trên lưng đeo một ba-lô quần áo và các thứ cần dùng.
Một tay xách cái va-li nhỏ đựng đầy giấy tờ, bản thảo và hình ảnh. Rất nhiều hình ảnh. Cầu thang dốc và trơn, khiến tôi trượt chân.
Cái va-li trở nên nặng quá bung ra phía ngoài. Tôi buông tay, nắm vội vào sợi dây cable, cái va-li rơi tõm xuống nước, mất tăm. Hai tay ôm chặt thằng nhỏ trong lòng. Tôi cúi người xuống để ghì lấy mặt thang. Trong phút chông chênh đó có bàn tay ai rất mạnh giữ chặt lấy cánh tay tôi. Chỉ trong một sát na kinh khiếp đó, tôi gượng lại được và bò lên sàn tàu. Không biết cánh tay ấy của ai.
Ai đã cứu bố con tôi.
Ðặt con xuống sàn tàu tim tôi còn đập bập bùng hồi hộp.
Tôi quay lại cùng các em tôi kéo vợ tôi, hai ông bà nhạc lên tàu.
Kiểm điểm lại “quân số” gia đình. Ðủ cả. Tôi quay lại cầu thang, đứng chân trước chân sau thật vững trên sàn tàu. Một tay vịn vào hàng rào chắn, một tay chìa ra kéo những người đang trèo ngược thang lên. Bao nhiêu bàn tay tôi đã nắm.
Có bao nhiêu bàn tay bè bạn thân quen, nắm chặt tay nhau kéo lên, buông ra với những nụ cười. Anh Trần Văn Tâm (nhà văn Trần Quán Niệm), anh Nguyễn Hưng Quảng, anh Nguyễn Ða Phúc và bao nhiêu người nữa. Chúng tôi xúm nhau ở đó để tiếp tay, đỡ đần những người yếu đuối.
Có bao nhiêu là những bàn tay già nua, hay non dại của những ai tôi chưa bao giờ gặp gỡ. Tất nhiên chúng tôi cũng đã chuyển, bế bao nhiêu là trẻ con ở tuổi các con tôi. Lúc kéo người lên như thế, cũng là lúc tôi nhìn xuống khoảng trống giữa thành tàu và cầu tàu, tôi không còn thấy cái va-li của tôi đâu cả.
Nước đã cuốn nó đi trôi nổi ở góc kẹt nào. Khoảng trống dọc theo thân tàu chỉ độ bốn mươi phân thôi, là bề dày của trái độn cao su. Cái khe này hun hút đen thẫm dọc theo thân tàu dài hàng trăm thước.
Dưới sâu là mặt nước, những làn sóng nhỏ, lấp lánh ánh đèn trôi đi, trôi đi. Tôi biết sức nước trông thế nhưng thật là mạnh mẽ. Chân cầu tàu lù xù những vết sò hến, rác rưởi bám đầy.
Nếu ban nãy tôi không có cánh tay nào bám lấy, ngã xuống đây… Mới thoáng nghĩ thế, toàn thân tôi như lạnh buốt. Tôi nghĩ đến con tôi. Ðứa con út của tôi.
Rời cầu thang quay gót trở lại với gia đình, tôi vừa quay gót, có tiếng người đàn bà thảng thốt kêu lên: “Con tôi, con tôi rơi… ri. Ơi con ơi là con ơi… Tôi quay phắt lại, người ta đen đặc, đang kéo người đàn bà vào sàn tàu.
Ở phía cầu thang người vẫn cứ ùn tấn lên không dứt. Người đàn bà khốn khổ, mất con như mê đi, đang được người ta xúm lại chữa chạy, giựt tóc, bôi dầu. Hình như không ai quan tâm gì đến số phận của đứa nhỏ vừa rời tay mẹ rơi xuống cầu tàu, mất tăm. Vô phương cứu tìm. Mà ai còn có thì giờ đâu để ngó xuống cái khe đen thẫm đó.
Người càng lúc càng lên thêm, đứng đen đặc cả sàn tàu. Không ai biết, chẳng ai quan tâm đến cảnh huống bi thảm vừa mới xảy ra. Ðêm mỗi lúc mỗi sâu. Nỗi khốn khổ của người mẹ mất con như bay theo, mất hút giữa đêm đen mỗi lúc mỗi thêm kinh sợ.
Lên được trên tàu, tìm gặp bạn tôi, HQ Trung Tá Nguyễn Văn Tánh, Hạm Trưởng, anh nhường phòng của anh cho gia đình tôi. Tôi ngần ngại, nhưng anh bảo: “Tôi còn cái phòng nh trên Trung Tâm Hành Quân.” Tạm yên tâm, tôi sát cánh cùng anh, tập họp tất cả những quân nhân có mặt, tìm mọi cách để đem tàu ra khơi.
Người thì chật cứng ở sân boong chính, ở hầm chiến xa, và la liệt cả ở hành lang, mọi chỗ. Nhưng như anh Tánh sau này cho biết thì “nhân viên cơ hữu trên 100 nay chỉ còn có 9 người…”
Tình trạng chiến hạm thì còn đang sửa chữa: “Hai máy chánh ráp xong, nhưng chưa thử tại chỗ. Hai máy điện chưa được ráp song song. Bơm nước ngọt và bơm cứu hỏa chưa ráp. Bình cứu hỏa CO2 còn nằm trên Hải Quân Công Xưởng. Hai máy neo trước và sau bất khiển dụng. Sàn tàu cắt mở lối đem máy chánh lên chưa hàn lại”.
Biết bao nhiêu là trở ngại, khó khăn, nguy hiểm. Khi khởi động được máy thì tay lái bất khiển dụng. Dây cable lái bị cắt đứt. Nói ra không hết những nguy khốn của cuộc đi này. Bao nhiêu điều, bao nhiêu hình ảnh vẫn đầy ắp trong trí nhớ của tôi.
Nhưng hình như tiếng kêu vô vọng, thảng thốt của người đàn bà khốn khổ đó đã thấm nhập sâu đậm vào trí não tôi. Lúc mờ lúc tỏ, nhưng tiếng kêu đó không bao giờ mất được trong tiềm thức của tôi.
Khi có những sự tương quan, hình ảnh ấy sẽ tự động hiện ra mà lý trí tôi hình như không thể can dự vào. Và sự việc đã được xảy ra rất tình cờ mới đây, gần 30 năm xa cách.
Trong một buổi gặp gỡ thu hẹp của mấy bà bạn cựu nữ sinh Trưng Vương của bà xã tôi tại San Jose, chuyện trò đang nổ như cái chợ, bỗng khựng lại, khi tình cờ chị D. N. nói: “Thế ra gia đình tao dùng di tn trên con tàu Th Ni HQ 502 vi ti mày à. A, sao c tun l trên tàu mà mình không gp được nhau. , người đông như kiến. Trên 5,000 người. Khiếp tht!
Anh Ng., chồng chị N. nói: “Khi trên tàu tôi xung phong trong toán nhà bếp, nóng như cái hm. Lúc có đin lúc không. Cơm nu sut ngày mà không đ. Lúc sng, lúc khê. Khi ra đi đi gia đình chúng tôi có 20 người. Nếu k c thng cháu P. b rơi cu tàu là 21. Bây gi tng s đã là 40… Lòng tôi như có điện giật.
Cả một khung trời kinh khiếp đêm 29 rạng 30 Tháng Tư năm cũ lại hiện ra rõ ràng. Cái khe sâu dài dọc theo cầu tàu đen thẫm, lấp lánh những lượn sóng trôi đi, trôi đi. Tiếng kêu thảng thốt của người đàn bà: “Con tôi, con tôi rơi ri… Ơi con ơi là con ơi.
Lạ nhỉ. Quả đất tròn thật. Tôi phải tìm gặp cho được người đàn bà ấy.
Bà D. T. L., qua điện thoại kể lể: “…mt tay tôi cm cái túi. Mt tay tôi dt thng cháu P. bước lên cu thang dc ngược ca con tàu. Người t phía dưới c nng lên. Mà là người nhà mình c ch đâu.
Gót giày tôi như kt vào khe cu thang, chân tôi bng nghiêng đi, lao chao mun ngã. Thế là tôi buông tay thng nh ra. Nó rơi ngay xung khe tàu, mt tiêu. Tai tôi như ch còn thy tiếng cháu kêu: m L…
Tôi kêu lên, nhưng có ai giúp được gì đâu. Mà có ai thy gì đâu mà giúp. Tay tôi bng trng không. Tôi được người ta kéo lên sàn tàu. Tôi mê đi chng còn biết gì na st. Bên tai tôi c như loáng thoáng tiếng kêu ca nó. T đó, nói ông b quá đi cho, tôi c ngơ ngn, ch còn thiết gì na c. Tôi nm như chết sàn tàu, ch thiết ăn ung gì. Khi đoàn tàu sa son vào cng Phi Lut Tân, mi người lên sân chính đ chào quc k ln cui, trong tai tôi vn vang vang li kêu cu ca cháu: M L. ơi… Vì thế, trong gi phút y tôi bng òa khóc và kêu lên…
Vẫn lời kể của bà L.: “Lúc y cháu T. T. P. được 6 tui rưỡi. Cháu nh tri cũng chu ăn, chu chơi nên cũng có da có tht, chc nch. Mi khi cháu trái nng, tr tri cháu c hay kêu: M L. ơi cu P.
Tôi không quên được tiếng kêu y ca cháu, ông à. Tiếng kêu y c vang vang trong đu tôi, hình như không lúc nào dt. Lúc thc, lúc ng, lúc tng kinh, không lúc nào tôi không nghe thy tiếng kêu y ca con tôi, nên tôi nghĩ rng con tôi còn sng.
Vì thế sut my chc năm, ngày nào tôi cũng thp hương cu Pht Bà Quan Âm cu kh cu nn phù h đ trì cho cháu. Sau này chúng tôi tr li đo, tôi hàng ngày li cu xin Ðc M Maria che ch cho cháu. Tôi tin tưởng hoàn toàn vào Đng Thiêng Liêng và tôi vn tin rng cháu còn sng ông à”.
Vẫn lời kể của bà L.: “Ri cách đây ít năm, người Vit Nam t hi ngoi v nước mi lúc mi đông. Tôi cũng v thăm li làng xóm, thăm thân nhân. Trong câu chuyn qua li gia bà con, có người nhc rng: Nếu ch tin là cháu còn sng, thì phi có người vt được cháu.
Ch th đăng báo tìm xem thế nào. Không thiếu nhng trường hp tht lc con cái, ri người ta cũng tìm li được đy. Thế là tôi nh đăng tin tìm cháu báo Tui Tr, thì có 6 người cùng tui vi cháu liên lc vi tôi. Người thì ngay trong thành ph Sài Gòn, người thì dưới quê. Cũng là người t tế c.
Có anh nói: Thôi con không qua M đâu. Ðã có v con và sng đây quen ri, m có thương con thì cho con ít cây (vàng), con mua my mu rung.
Thì nghe thế biết thế, tôi cũng chưa có gì đích xác đ quyết đnh c. Trong 6 người nhn là con tôi, có mt anh cao, ging thng con tôi tên là M. Anh này hin hc ngh Ðông Y, chưa v con gì c. Vi tôi anh y đi x lch s, bình thường, không vn vã mà chng đ ngh xin x gì. Vì theo bà m nuôi ca anh k li thì câu chuyn khá dài, nhiu un khúc lm.
Vẫn theo lời kể của bà L.: “Bà này giàu có lm. Trước 75 bà là dược sĩ, có tim thuc tây rt ln. Bà đã có gn 10 người con do bà đ ra. Nhưng trong hoàn cnh tang thương ca thi lon lc, có my người không nuôi được con, đem cho bà, bà đu nhn hết.
Bà săn sóc trên mười đa con, con đ cũng như con nuôi, như nhau. Ða nào hc được bà cho đi hc. Nhiu đa thành tài là k sư, bác sĩ.
Có đa ln lên xin v nhà b m đ, bà cũng vui lòng, còn cp vn liếng cho đ làm ăn. Có đa làm ăn tht bi li bò lên xin li vi bà, bà li nhn nuôi nng c gia đình v con nó như xưa. Bây gi trong thi đi mi, bà đang kinh doanh v ngành du lch.
Bà mua c mt khu rng xây khách sn, đp núi non, vườn cnh. Trong đó có nhng nhánh sông, bà cho xây cu qua li tht là đp. Nói ra có l khó ai tin được. Tht cái nhà ca tôi bên M không bng cái nhà xe ca bà y. Bà y nói vi tôi rng thng M do mt bà bán chè bến sông Sài Gòn cho bà y.
Thng nh này trôi trên sông Sài Gòn, có mt người lái đò vt được, đưa lên b. Thng bé bơ vơ, rét mướt khóc quá xá, nên cho đng tm cnh bà bán xôi chè, đi b m nó tìm đến.
Nhưng ch thy b m nó đâu, bà hàng xôi tìm đến bà dược sĩ bo rng: Bà làm phước nuôi giùm thêm đa nh này. Hi b m con đâu, nó nói trong nước mt: Ði M ri. Do đó bà dược sĩ mi đt tên nó là M.
Vẫn lời của bà L.: “Cái anh tên M này ln lên trong gia đình bà dược sĩ. Dù không ai nhc nh, nhưng anh ta vn tin rng s có lúc anh ta phi qua M đoàn t vi cha m rut. Thi gian vùn vt trôi, gn ba mươi năm cơ hi chưa đến. Trong khi ch đi, anh ta quyết không lp gia đình, s lôi thôi khi đoàn t.
Và đ có mt ngh qua M không cn hc li, anh ta hc ngh đông y sĩ. Bà dược sĩ nói vi tôi rng, tuy là con nuôi, nhưng tôi thương thng M như con rut. Nó mun gì, tôi không tiếc. Ðy cái ca hiu đông y đy, rt khang trang, đ mi th thuc, t sâm nhung ho hng, đến các th quế đt tin, th gì tôi cũng đt mua đy đ.
Nó va sa son là thy lang va làm người bào chế, rt mát tay tuy chưa ra trường nhưng cũng đông khách lm. Sang M chưa chc gì đã có mt cơ s vng vàng như thế. Nhưng nó biết, nó tin là nó không đây lâu đâu.
Thế nào nó cũng qua M đoàn t vi b m rut ca nó. Nó mun thế, tôi cũng sn sàng giúp nó được toi ý khi cơ hi đến. Nếu nó thc s là con bà, bà chng minh được nó là con bà, tôi s c gng tìm mi cách đ nó v vi bà”.
Vẫn lời của bà L.: “Tôi tr li Hoa K, tôi c nh cái thng M này quá. Chc chn nó là con tôi. Nhưng bo rng chng minh c th thì tôi chưa có cách. Tôi có đem chuyn này hi ông bác sĩ gia đình. Ông bác sĩ nói rng: D lm. Nếu nó là con bà, ch đem đi th máu, th DNA là ra ngay. Thì cái v th nghim này thì chc ri.
Nhưng tôi li không mun làm thế. Tôi tin tưởng mnh m rng, nh tôi thành tâm l bái, khn cu, nên Đng Thiêng Liêng đã đưa đy cho tôi tìm thy cháu. Bây gi li đem th nghim thì có khác gì không tin vào Đng Linh Thiêng na, nên tôi không làm.
Nghe thế, ông bác sĩ ngi th ra hi lâu ri hi tôi. Nếu nó là con bà, thì nó không ging ông bà cái tai, cũng phi ging cái tóc ch. Bà nhìn nó bà có thy nó ging ai trong nhà không, chc là phi ging ông nó nhà tôi. Khn ni ông nhà tôi sang bên M được ít năm thì mt.
Ông mt cũng là ti tôi mt phn. Ông c cn nhn tôi bao nhiêu năm: Sao đang nm tay nó bà li buông tay ra. Làm gì cũng phi có ý có t ch. Nm tht cht tay thì nó đâu có rơi được. Ðành rng thế, nhưng nào tôi có mun buông tay ra đâu.
Tri xui đt khiến nó hóa như thế, ch có người m nào li n buông con ra cho nó rơi xung sông h ông. Thế là bao nhiêu năm đng đng xót xa, ri ông y mt. Lúc mt hình như ông y còn gi tên nó trong phút lâm chung. Thế là bao ni cay đng đ c trên đu tôi.
Thôi thì trăm s tôi trông vào Đng Linh Thiêng, Ðc Quan Thế Âm khi trước và bây gi là Ðc M Maria. Ðêm nào tôi cũng thp hương, cu khn.
Vẫn lời bà L.: “Tôi thn th đau kh, lúc nào cũng ch nghĩ đến nó. Còn thng em nó hu như tôi quên bng đ mc cho ông nhà tôi trông nom. Nhà tôi mt đi, trên bàn th bây gi có hình ông y nhà tôi na. Hàng ngày khi đc kinh, nhìn hình ông nhà tôi trên bàn th, tôi bo: Ông có khôn thiêng thì ông mách bo cho tôi tìm ra thng P. Mt hôm, em thng P. đi đánh banh v, t trong nhà tm đi ra, nó ngi trước mt tôi, ly khăn lông lau đôi bàn chân.
Nó lau k lm, khiến tôi chú ý. Sao mà hai ngón chân cái ca nó li xòe ra như người Giao Ch ngày xưa. Tôi hi nó sao thế. Nó bo thì ngón chân con nó thế. Ði giày thì hai ngón chân cái ép li. Ð chân không, nó li xòe ra. Tôi tr li Vit Nam, tr li nhà bà dược sĩ.
Bà vn ân cn, nim n đón tôi, và vn mt mc nói: Tôi s tr con cho bà, vi điu kin bà phi chng minh được nó đích thc là con bà. Thì cũng là tình c thôi, hôm y thy lang M li xung khúc sông trước nhà, bơi, tm.
Tm xong, lúc ngi nhà ngang anh ta ngi lau chân, tri ơi, hai ngón chân cái ca thng M cũng xòe ra như thng con tôi, em nó bên M. Không sai được na ri. Tôi bng bt khóc và kêu lên P. ơi, con ơi. Thy lang M tr mt nhìn tôi.
Bà dược sĩ cũng thng tht, đng lên. Ba chúng tôi ôm choàng ly nhau, nước mt chan hòa. Thng P. ôm tôi và nói: Con là P. ca m đây, m L. ơi. Bà dược sĩ thì bo: “Sao trước đây bà không nói cho tôi biết tên nó trước đây là P.”
Vẫn lời bà L.: “Bà dược sĩ nói rng: Hàng ngày chúng tôi kêu nó là M. Nhưng nhng khi đau m, mê sng, nó kêu lên: M L. ơi cu P. Nhưng qu đúng 100% nó là con bà, bà dược sĩ li hi tôi, va cười va nói, trong người nó có vết tích gì đc bit không. Tôi đáp ngay: Mông đít nó có mt vết chàm.
Thế là hai chúng tôi li ôm ly nhau ln na. Và ln này thì bà dược sĩ rành rt nói: Ðúng thng M đây, khi bé có tên là P. Nó đích thc là con bà.
Tôi giàn gia nước mt xà li ôm ly P. Hai m con chúng tôi ôm nhau tht cht. Tôi bu vào vai nó. Tôi nm cht cánh tay nó. Không ri ra được na đâu.
Và trong lúc xúc đng này, tôi li ht hong kêu lên: Ơi, con ơi, con ơi… Tôi buông P. ra, buông con tôi ra, tôi chp tay, đc thm mt đon kinh t ơn Chúa, t ơn Tri, Pht.
Nước mt tôi tuôn như mưa. Tôi qu xung, tôi vái t phương. Tôi gi tên nhà tôi. Ông ơi, tôi tìm thy con… ri. Hai m con tôi quay li, thy bà dược sĩ đng nhìn chúng tôi, mếu máo vi hai hàng l chy.
Chúng tôi, m con tôi tiến ti, choàng tay ôm cht bà vào lòng. Tôi nói: ơi! Bà là ân nhân ca chúng tôi, bà mi tht là m nó. Tri, Pht đã dn dt nó là con bà. Con tôi cũng nói: Con xin đa t m
Tht, chưa bao gi tôi vui sướng như thế mà cũng khóc nhiu như thế. Và cũng chưa bao gi tôi tin tưởng mnh m như thế vào s huyn diu ca các đng thiêng liêng.
Cho đến khi chúng tôi viết những dòng này thì Bà L. đã hoàn tất mọi thủ tục để đưa người con trai tên P. sang Mỹ đoàn tụ với gia đình. Khi mọi việc đã xong, tên tuổi những người liên hệ sẽ được in đầy đủ trong bài viết.
Gần 30 năm đã qua. Một thời gian đủ dài để một thế hệ được sinh ra, lớn lên và trưởng thành. Những con em chúng ta khi ra đi còn bé dại, nay đã không thiếu những người thành tài, có mặt trong hầu hết những sinh hoạt cao cấp nơi quê hương mới, là niềm vui sướng và hãnh diện cho cha mẹ, cho cộng đồng.
Nhân câu chuyện trên, người viết đang thu thập những gương thành công của con em những gia đình ra đi trên Dương Vận Hạm Thị Nại, HQ 502, để viết thêm vào phần cuối cuốn bút ký di tản này, như phần thưởng cho lòng can trường, liều chết ra đi vì Tự Do, vì tương lai của con cái. Rất mong được đón nhận những kết quả đẹp đẽ của những ai cùng đi trên chuyến tàu trên.
Mọi liên lạc xin gửi về cho người viết: PO Box 888, La Jolla, CA 92088. ÐT: (858) 484-9193. Email: tphan2@san.rr.com.
Bài viết có thể viết bằng tiếng Việt hay tiếng Anh. Nếu không có gì trở ngại, cuốn bút ký di tản của tác giả và những gương thành công của con cái chúng ta di tản trên Dương Vận Hạm Thị Nại, HQ 502 sẽ được xuất bản để kỷ niệm 30 năm di tản.
—————————-
Vài hàng v nhà văn Phan Lc Tiếp

Ông Phan Lạc Tiếp nguyên là một Hạm Trưởng, một nhà văn. Ðêm 29 rạng ngày 30 Tháng Tư năm 1975, ông đã tận lực hỗ trợ vị Hạm Trưởng chiến hạm HQ 502, rời bến đem theo trên 5,000 đồng bào thoát được ra khơi.
Cuối năm 1979, khi làn sóng người vượt biển lên cao, và thảm nạn của thuyền nhân trở nên khủng khiếp nhất, ông đã cùng Giáo Sư Nguyễn Hữu Xương thành lập y Ban Báo Nguy Giúp Người Vượt Bin (Boat People SOS Committee).
Liên tục trong 11 năm hoạt động, ủy ban này hợp tác với những tổ chức nhân đạo thế giới, đem tàu ra biển Ðông, cứu vớt được 3,103 thuyền nhân, và xin định cư cho hàng ngàn đồng bào tại các quốc gia đệ tam.
Mới đây Quốc Hội Tiểu Bang California, Hoa Kỳ đã gửi đến tặng nhà văn Phan Lạc Tiếp một bằng tưởng lệ, viết:
California State Assembly
Certificate Of Recognition
presented to

TIEP LAC PHAN
In honor of
Your Hard Work and
Accomplishments in becoming a
Proud Member of our community.
Your Dedication to your Community is
Greatly Appreciated

.
.
.

No comments: