Sunday, April 17, 2011

THÁNG TƯ BUỒN (Mai Thanh Truyết)


(04/16/2011)

Không biết tự lúc nào sau ngày 30 tháng tư năm 1975, mỗi năm vào dịp nầy lòng tôi dườngnhư chùng xuống. Mặc dù công việc hàng ngày vẫn chu toàn 8 giờ để trả nợ áo cơm,một vài giờ cho cái business consultant của tôi, và thì giơ cho các buổi phỏng vấn hay ngồi suy tư và viết bài hay đi đó đi đâytôi vẫn cảm nhận được một nỗi niềm u uẩn nào đó trong tôi.
Bỏ qua những ngày tháng nghiệt ngã còn lại ở Việt Nam trước khi vượt biên, phải thành thật mà nói lúc đó tôi không có thì giờ để bun như hôm nay, vì miếng cơm manh áo và mãi lo tìm đường ra đi (cu nước?) cho mt gánh nng vi 4 đứa con di

Bỏ qua những năm đầu tiên sống đời tị nạn, tôi cũng chưa thực sự quan tâm gì mấy cũng như không co thì giờ để buồnnhư tôi bun hôm nay vì cuc 'vt ln vi cuc sng mi

Chỉ trong vòng 20 năm trở lại đây, khi gia đình tương đối ổn định và sau khi bắt đầu bước vào con đường tranh đấu cho Việt Nam qua ngã môi trường, tôi mới thực sự cảm thấy buồn. Và mỗi năm nỗi buồn đo càng se sắc hơn, ngậm ngùi hơn.

Buồn để mà buồn một mình!

Không thể nào nói tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn được. Mà tôi hiểu và hiểu rất rõ nỗi buồn thực sự của tôi vì hai lý do: - Đất Nước còn điêu linh, - và Bà con mình vẫn còn chìm đắm trong nỗi nhục nhằn làm công dân hạng hai cho một chế độ phản dân tộc chưa từng thấ ytrong lịch sử Việt Nam.

Nhìn lại những ngày bắt đầu từ giữa tháng tư năm 75, có thể nói cả thành phố Sài Gòn đang lên cơn sốt. Nào là chạy đôn chạy đáo thăm dò tình hìnhmc dù biết rng min Nam đang trong cơn hp hi, nhưng cũng mong tìm và hy vng mt phép lạ. Nào là, đối với những người có chút tiền, lo chạy đi đổi tiền, làm…áp phe, hay do là tin tc tìm đường ra đi.

Tin tức đồn đãi nhiều khi trái ngược nhau, tin vui lẫn với tin buồn.

Nhưng nỗi buồn của tôi thực sự buồn khi rời trụ sở USAID ở đường Lê Văn Duyệt sau khi làm th tc”…ra đi. Cm tm th vô tri có hình ca mt “ông giáo trẻ” đầy nhit huyết, mà khi v li Vit Nam năm 1973, nguyn s làm mt cái gì cho thanh niên Vit Nam. Tôi không thiết ăn cơm chiu hôm đó. Nếu tôi nh không lm, đó là ngày thứ tư 09/4/1975.

Tới thứ hai tuần sau đó, lên Đại học Cao Đài Tây Ninh, tôi lại được mấy anh chàngCIA tr đóng trên đài phát tuyến đỉnh Núi Bà cho tôi biết rng ngày mai, hs rút v M và khuyên tôi nên ri b quê hương qua mt ging Bc rt rành rt. Suốt các buổi lên lớp sau đó, tôi nói như người mất hồn, một tâm trạng mà chính giờ phút viết lên dòng chữ nầy, tôi lại thêm một lần phiêu diêu na.

Đi? Ở? Hai chữ nầy ám ảnh mãi nơi tôi trong suốt thời gian còn lại cho đến ngày 30/4 năm đó.

Hình ảnh Ba tôi lẩn quẩn trong đầu. Hình ảnh một ông giáo già đã về hưu từ lâu, căm cuội viết thư cho con mình đi du học mỗi buổi sáng thứ năm trong tuần, để rồi, sang sáng thứ bảy đem thư ra Bưu điện gửi đi cho kịp chuyến máy bay Air France bay về Pháp, để cho con mình nhận được thư đúng ngày thứ hai. Việc nầy xảy ra đúng như in, không hề sai sót suốt hơn hai năm trời cho đến khi Ba tôi mất. Ba tôi mất ngày chủ nhựt và thứ hai sau đó tôi vẫn nhận được thư ba tôi viết trước khi nhận được điện tín của anh tôi.

Còn Má tôi. Một người mẹ già gặp lại và sống với con chưa đầy hai nămMà cũng chính trong thi gian ny, tôi luôn bn bu vi nhng “đam mê” cho cuc sng, chun bcho con đường công danh ca mình thì làm sao tôi có thì gi chăm sóc hay hi han đến m già. Và mỗi khi nhìn lại mình, chính tôi cũng phải tự thú rằng mình cũng không có thì giờ để nghĩ đến mẹ mình nữa trong thời gian nầy. Tôi thật có tội với má tôi.

Trở lại thời gian giữa tháng 4 năm xưa. Tâm trí tôi luôn bị ray rứt với tâm trang nửa Ở nửa Đi.
Đi không đành cũng vì mẹ già đơn côi.
Đi không đành cũng vì bầu nhiệt huyết của tuổi trẻ níu kéo lại để làm một cái gì”cho quê hương.
Và đi cũng không đành vì một suy nghĩ non dại (mà chắc cũng có nhiểu người suy nghĩ như tôi), đó là Mình có th đối thoi vi người cộng sản, vì trước khi họ là cộng sản, họ là người Việt Nam với đầy đủ dân tộc tính; vì vậy mình có thể hợp tác được.

Khi đã biết sai lầm thì đã muộn, tôi phải trả cái giá gần 8 năm trong nhà tù lớn Việt Nam dưới chế độ nầy.

Chiều thứ hai 28/4, khi một tên phi công (tôi không muốn nhắc tới tên nầy lên đây, v ìlàm sao tôi quên được tên những kẻ phản bội quê hương) dội bom dinh Độc Lập, và từ đó lịnh giới nghiêm 24/24 được ban hành. Tôi liền chạy lên nhà một người bạn vong niên trên cư xá giáo chức ở đường Tự Đức.

Tôi đã chứng kiến được gì và đã học được gì?
Xin ghi lại vài dòng để chiêm nghiệm nỗi đau thương, nhục nhằn của những đứa con Việt trước cảnh quốc phá gia vong. Đó là:

Hình ảnh một Trung tá TQLC chạy từ Đà Nẵng về nhà người anh cũng ở cùng cư xá, hình ảnh giọt nước mắt lưng tròng khi anh cổi chiếc áo trận và cắt từng nút áo cũng như hai bông mai bạc trên cầu vai. Anh nói với người anh qua giọt nước mắt và trong từng tiếng nấc Anh xem như em đã chết ri ngày hôm nay.

Hình ảnh từng đoàn trực thăng Mỹ chiếu đèn sáng rọi vào mặt chúng tôi trên sân thượng của cư xá trong lúc tháo chạy và chở người đi ra hạm đội.
Hình ảnh những người lính tôi không còn nhớ Dù hay Thủy Quân Lục Chiến tiếp tục chiến đấu ở cầu Phan Thanh Giản trên con đường đi ra Ngã tư Hàng Sanh. Tiếng súng bắt đầu ngay sau khi tướng Minh tuyên bố đầu hàng lúc 10 giờ 37 phút sáng 30/4. Tiếng súng chỉ im lặng lúc xế trưa, có nghĩa là tất cả anh em binh sĩ đã chiến đấu cho đến quả lựu đạn cuối cùng.

Chuyện ĐI và Ở đã được tôi quyết định ở khúc quành định mệnh nầy.

Qua ngày thứ năm 1/5, lệnh trên radio yêu cầu (bắt thì đúng hơn) mọi công chức phải đến trình diện tại trụ sở làm việc của mình. Sáng đó, tại cư xá có mặt Ông Khoa trưởng, Ông Phó Khoa trưởng và một số giáo sư, tôi và một giảng nghiệm viê ntình nguyện vào Trường Sư phạm xem tình hình.
Mọ isự có vẻ êm xuôi vì họ” chưa có người vào tiếp qun, ngoài mt s cơ sở” địa phương thôi. Nhưng mt hình nh khác làm b bàng và làm đảo ln nhng suy nghĩ tt đẹp trong tôi khi nhìn thy mt s đồng nghip ca mình mi ch vừa cách đây một ngày, nay đã mang băng đỏ cách mng t cung cách hướng dn ch để xe, cho ti thái độ trong lúc nói chuyn. Đáng ph nh nht là nhng người ngày nào thưa anh, xưng em vi tôi, mà nay tr mt dương dương t đắc t xưng tôi, tôi, anh,anh mt cách trơ trẻn.

Có những chị giáo sư thước tha, dịu hiền trong khi lên lớp mà nay ngoài băng đỏ, thậm chí còn để lá cờ vàng ba sọc đỏ dưới chỗ chân bàn đạp xe hơi nữa. Và hơn nữa,có giáo sư trong suốt thời gian chưa đầy hai năm ngắn ngũi của tôi, đã xem tôi như thn tượng mc dù biết tôi đã lp gia đình ri, thường xuyên đi ăn ungc hung; thm chí đã dám cùng tôi nhu tht chó” na Người đó bây gi là mtcông thn ca chế độ.

Trên đây, tôi xin diễn lại bức tranh vân cẩu chập chùng những ý nghĩ lộn xộn trong những ngày quốc phá gia vong. Xin chia xẻ cùng bà con. Đây không phải là lời tự thú hay than thở, hay nói về mình.
Nơi đây tôi chỉ muốn nói lên vài điều suy nghĩ chủ quan. Đó là:

Truyết, mầy đừng bao giờ mơ tưởng người Việt cộng sản là người Việt Nam.
Tình đời như chiếc lá, đổi trắng thay đen và lòng người thật khó lường (hơi cải lương một chút).
Và để thoát khỏi ý nghĩ tiêu cực trong những ngày đau thương của Đất và Nước, tôi tự điều hướng cho chính mình cần phải hành xử trong tương lai như:
Đứng trước quá khứ, hãy ngả mũ. Đứng trước tương lai, hãy XẮN TAY ÁO (H.L.Mencken).
Người khôn ngoan đi tìm nguyên do lỗi lầm ở bản thân. Kẻ khờ dại đi tìm nguyên do ở người khác. (Câu nói của Khổng Tử giản dị như vậy mà còn có kẻ không học được!).
Xin góp phần vào những Ngày Buồn Tháng Tư

MaiThanh Truyết
WestCovina 15/4/2011
.
.
.

No comments: