Monday, April 25, 2011

SỰ GIẬT MÌNH CỦA LÝ TRÍ (Giáp Văn Dương)


Giáp Văn Dương
Chủ nhật, ngày 24 tháng tư năm 2011

Thời kỳ Khai sáng trong triết học Châu Âu diễn ra từ nửa sau thế kỉ 17, khởi đầu bởi sự ảnh hưởng của cuộc cách mạng trong khoa học tự nhiên tiên phong bởi Galileo, Newton, ban đầu ở Anh, sau đó lan sang Pháp, Đức, châu Âu nói chung, và sau đó ra khỏi châu Âu sang Mỹ, Nhật. Theo đó, lý trí được coi như ánh sáng đối chọi lại tăm tối của sự phi lý và u mê. Chính vì thế mà I. Kant đã định nghĩa: “Khai sáng là sự thoát khỏi tình trạng thiếu trưởng thành do chính mình gây ra. Sự thiếu trưởng thành này là thiếu khả năng sử dụng lý trí của mình mà không cần sự dẫn dắt của kẻ khác. Nguyên nhân của sự thiếu trưởng thành không phải là do thiếu tri thức, mà do thiếu sự quyết đoán và lòng dũng cảm để sử dụng lý trí của mình khi vắng mặt sự chỉ dẫn từ kẻ khác.
Như thế, khai sáng chính là quá trình tự do sử dụng lý trí của mình để tư duy, để hiểu, để tin, để lựa chọn và để hành động.

Lý trí lên ngôi
Đặc trưng của thời kì khai sáng có thể khái quát thành sự đề cao của lý trí với khẩu hiệu nổi tiếng, cũng được giương cao bởi I. Kant: “Hãy dám biết!”.
Như thế, có thể nói, với thời kỳ khai sáng, lý trí đã lên ngôi.
Sự lên ngôi của lý trí dẫn đến những ảnh hưởng to lớn, không chỉ trong khoa học và nghệ thuật, mà còn lan tràn ra mọi mặt của đời sống ngoài xã hội. Điển hình nhất là sự thiết lập tự do, bình đẳng và quyền lực tối thượng của quần chúng trong cuộc cách mạng Pháp.
Chính vì thế, trong những xã hội mà tự do, bình đẳng và quyền lực của số đông quần chúng còn bị bóp méo và chà đạp, thì khai sáng lại được gọi tên như một phép màu với hy vọng những tăm tối của phi lý, u mê sẽ bị xua tan.
Nhưng bi kịch ở chỗ, trong những xã hội này, bản thân sự bóp méo và chà đạp lại thường nhân danh những giá trị của khai sáng như tự do, bình đẳng, ưu việt, tiến bộ, giải phóng... Chúng được vận hành bởi một cơ chế và định hướng bởi một thang giá trị được thiết kế nhân danh lý trí, nhân danh khai sáng. Vì thế, chúng có tính chính danh nhất định và rất khó bị loại bỏ, bất chấp những hậu quả xấu xa của chúng đã bày ra đầy rẫy ở ngoài xã hội.
Chúng như chiếc mặt nạ đã dính chặt vào da thịt không thể gỡ ra. Lý trí đã biến dạng trở thành lý trí giả tạo khô cứng, vô nhân bản. Mục đích tốt đẹp của những học thuyết nhân danh lý trí, nhân danh tiến bộ đã trở thành phương tiện thống trị và đàn áp con người.
Chúng trở thành những bất công, phi lý và u mê mới mà ban đầu, chúng có sứ mệnh cần phải loại bỏ.

Lý trí giật mình…
Nhận thức khoa học từ đầu thế kỉ XX đến nay có một bước dịch chuyển lớn. Đó là dịch chuyển từ sự chắc chắn tất định sang bất định trong giới hạn.
Sự dịch chuyển này ban đầu diễn ra trong các ngành khoa học tự nhiên như Vật lý, Toán học, sau đó lan sang các ngành khác và cuối cùng là nghệ thuật.
Nổi bật nhất trong dòng dịch chuyển này là sự ra đời của Nguyên lý bất định, Nguyên lý bổ sung trong Vật lý và Nguyên lý bất toàn của toán học. Những điều tưởng chừng là tất định thì nay trở nên bất định, mang tính xác suất. Những hệ thống được hy vọng là hoàn thiện thì nay được chứng minh là bất toàn về bản chất.
Sự ra đời của các trường phái hậu điện đại trong nghệ thuật cũng có liên hệ sâu xa về bản chất với những bất định trong khoa học tự nhiên này.
Sự bất định và bất toàn về bản chất của tự nhiên, được kiểm chứng và đóng dấu xác nhận của những ngành khoa học được coi là chặt chẽ nhất, đã làm rúng động nhận thức của loài người.
Biểu hiện quan trọng nhất là sự tỉnh ngộ của con người về giới hạn hiểu biết của mình; chấp nhận những ý kiến khác mình như một sự bổ sung cho hiểu biết. Nói cách khác, lý trí đã giật mình, con người đã biết khiêm tốn và chấp nhận những tri thức khác mình, thậm chí coi “đối lập như một sự bổ trợ” cần thiết.
Nhà khoa học đã biết hoài nghi trước mỗi kết luận của mình, thay vì khăng khăng tất định nhân danh lý trí. Nhà lãnh đạo giỏi đã biết lắng nghe những ý kiến trái chiều. Vì họ biết, nhận thức của mình về tự nhiên, xã hội và con người là khiếm khuyết về bản chất.
Bất toàn, bất đinh, bổ sung trở thành những nguyên lý không thể chối cãi. Con người phải chấp nhận chúng và tôn trọng chúng, coi chúng là thuộc tính tất yếu của nhận thức.

… hoài nghi
Nếu khai sáng là sự lên ngôi của lý trí, thì xa hơn khai sáng chính là sự giật mình của lý trí.
Lý trí giật mình để lý trí được khai sáng thêm một lần nữa, được bổ sung những giá trị mới, được trở về với đúng vai trò của mình là thúc đẩy sự tiến bộ thông qua những nhận thức mới, thay vì bảo thủ trì trệ và tha hóa thành công cụ đàn áp sự tiến bộ, dù đã được khoác lên những lớp vỏ mỹ miều.
Nếu tinh thần chủ đạo của Khai sáng cổ điển là “Hãy dám biết!”, thì tinh thần mới của Khai sáng phải là “Hãy dám biết và hãy dám hoài nghi!”.
Hoài nghi để không kẻ nào có thể nhân danh lý trí – thực chất là chiếc mặt nạ của lý trí; nhân danh sự hợp lý – thực chất là hợp lý giả tạo; nhân danh những giá trị tốt đẹp – thực chất là những xấu xa được trang điểm bởi các mỹ từ - có thể đàn áp sự tiến bộ.
Hoài nghi để hiểu được những khiếm khuyết về bản chất trong năng lực và tri thức của mình, để khiêm tốn với lý trí của mình và mở lòng thành tâm lắng nghe ý kiến của kẻ khác.
Hoài nghi để không u mê tôn vinh một hệ giá trị duy nhất, không tạo mầm cho độc đoán ra đời; để thấy rằng “đối lập là bổ trợ”, đa dạng và khác biệt là động lực của phát triển.
Hoài nghi để những mỹ từ sáo rỗng không tác oai tác quái sản sinh ra những giả dối, vô cảm, đọa đày.
Hãy hoài nghi, hoài nghi hơn nữa, hoài nghi với cả chính mình.
______________________

Bài đăng trên Tia Sáng, số ra ngày 20/4/2011.
.
.
.

No comments: