Wednesday, April 20, 2011

THẾ HỆ 30 THÁNG 4 (Dr. Tristan Nguyễn)

Dr. Tristan Nguyễn
Thứ ba, 19 Tháng 4 2011 09:43

Đối với hầu hết mọi người Việt Nam ở khắp nơi, trong nước cũng như ngoài nước, ngày 30 tháng 4 là một ngày không-bình-thường bởi vì ngày này đã hằn sâu vào trí nhớ, đã ảnh hưởng sâu đậm vào tâm lý vui-buồn-giận-thù-uất-hận của người Việt Nam đang sống trong tất cả các hoàn cảnh hiện tại của họ. Riêng tôi, Tristan Nguyễn, vào ngày 30 tháng 4 năm 1975 tôi được sanh ra trên một chiến hạm thuộc Đệ Thất Hạm Đội Hoa Kỳ đang ở ngoài khơi Biển Đông, vì vậy cha tôi đã đặt cho tôi cái tên Tristan có nghĩa là Buồn, Tristan Nguyễn có nghĩa là Nguyễn Buồn. Có phải Nguyễn Buồn rất khác với nhiều người Việt Nam ở trong nước được sanh ra trong ngày 30 tháng 4 năm 1975 và được cha mẹ của họ đặt cho cái tên Nguyễn Vui hay không?

Tại sao người Việt Cộng Sản hay Việt Cộng cứ nói hoài ngày 30 tháng 4 là ngày thống nhất đất nước nhưng rõ ràng đó là ngày người dân Việt Nam phân ly? Tại sao Việt Cộng cứ nói hoài ngày 30 tháng 4 là ngày giải phóng miền nam VN nhưng rõ ràng là miền nam VN lúc đó đã không cần được ai giải phóng?

Sau những nổ lực quân sự của cả hai bên Cộng Sản và Quốc Gia điển hình qua trận Việt Cộng Tổng Tấn Công Tết Mậu Thân 1968 vào tận các tỉnh thành miền nam, các cuộc hành quân đại qui mô của quân lực VNCH để bình định những vùng nông thôn do Việt Cộng kiểm soát, và Chiến Dịch Phượng Hoàng tiêu diệt gần hết hạ tầng cơ sở Việt Cộng để giải quyết vấn đề Việt Nam nhưng không thành công; tiếp theo là nổ lực chính trị kết quả của Hiệp Định Hoà Bình Ba Lê 1973 được ký kết để chấm dứt những xung đột có võ trang và lập lại tình trạng sinh sống bình an ổn định ở cả hai miền nam bắc Việt Nam và để toàn thể người dân Việt Nam thực hiện Quyền Dân Tộc Tự Quyết và Quyền Tự Do Lựa Chọn chính thể và thống nhất đất nước qua những cuộc hiệp thương và tổng tuyển cử tự do có lực lượng Liên Hiệp Quốc giám sát.

Hai bên Cộng Sản và Tự Do gồm có Bắc Việt Cộng và Nam Việt Cộng cùng với Mỹ và Việt Quốc Gia-VNCH đồng ký kết Hiệp Định Hoà Bình Ba Lê 1973, nhưng chỉ có Mỹ là nghiêm chỉnh thi hành hiệp định trong khi Bắc Việt Cộng, Nam Việt Cộng, và Việt Quốc Gia đều vi phạm hiệp định.

Mỹ và các nước đồng minh tham chiến ở VN là để bảo vệ cái tiền đồn tự do dân chủ của thế giới tự do tại Đông Nam Á và đã tạo dựng một nước VNCH rồi củng cố sức mạnh quân sự, chính trị và một nếp sinh hoạt chính trị dân chủ, một lối sống tự do cá nhân, một trình độ dân trí đủ để cho người dân miền nam VN đủ sức để đương đầu với Việt Cộng và đủ khôn ngoan để lựa chọn giữa Cộng Sản và Tự Do. Như vậy, tại sao Việt Cộng cũng như một số người Việt Quốc Gia có thể nói một cách hàm hồ là Mỹ và đồng minh thua trận và bỏ chạy?

Cho tới cuối ngày 29 tháng 4 năm 1975 các sĩ quan và nhân viên trực thuộc phòng Tuỳ Viên Quốc Phòng của Đại Sứ Quán Mỹ vẫn còn tích cực làm việc tại Sài Gòn. Khi Thủ Tướng VNCH Vũ Văn Mẫu yêu cầu mọi người Mỹ phải tức khắc rời khỏi miền nam VN để người Việt Nam tự giải quyết vấn đề Việt Nam với nhau. Vì tôn trọng Chủ Quyền Việt Nam của người Việt Nam những người Mỹ cuối cùng ở Đại Sứ Quán Mỹ phải ra đi vội vã, nhưng việc đó không phải là bỏ chạy trước sức mạnh của Việt Cộng. Mỹ không bỏ rơi VNCH một nước đồng minh ở Đông Nam Á mà chính Mỹ đã hy sinh rất nhiều tài nguyên, nhân lực để bảo vệ. Lời yêu cầu của Thủ Tướng Mẫu bắt buộc mọi người Mỹ phải tức khắc rời khỏi miền nam VN là một tình huống vô cùng bất ngờ, bởi vì Đại Sứ Quán Mỹ đã đánh giá nước VNCH còn đủ sức mạnh để cầm cự cho tới năm ngân sách 1976, và 16 tấn vàng 24K cùng với một số lượng đá quí và hàng ngàn tỉ tiền đồng VN còn lưu giữ tại Ngân Hàng Quốc Gia VN. Mọi kế hoạch hậu chiến, tái thiết Việt Nam đều bị huỷ bỏ liền sau đó. Mỹ và các nước đồng minh luôn luôn đề cao, bảo vệ Dân Chủ và Tự Do, cũng như Quyền Dân Tộc Tự Quyết và Quyền Tự Do Lựa Chọn của người dân. Sau khi ra lệnh đuổi người Mỹ và hoàn toàn đóng lại mọi cánh cửa đối với người Mỹ, TT Dương Văn Minh và Thủ Tướng Vũ Văn Mẫu nghĩ rằng với lập trường trung lập, hoà bình, bất bạo động, hợp tác, hoà giải và hoà hợp dân tộc của họ thì họ có thể thương lượng, điều đình, thoả hiệp với Việt Cộng. Thực tế rất phũ phàng là họ đã thất thế chính trị, thất bại thê thảm vì họ hoàn toàn bị Việt Cộng lừa gạt.

Việt Cộng đã lợi dụng thời cơ đối phương đang rối loạn hàng ngũ quân đội VNCH, việc bỏ trống lãnh thổ Vùng I và Vùng II theo quân lệnh sai lầm “di tản chiến thuật” của TT Nguyễn Văn Thiệu đã làm dao động mạnh tâm lý của hầu hết người lính cộng hoà. Sau khi Hiệp Định Hoà Bình Ba Lê 1973 được ký kết thì TT Thiệu tuyên bố một lập trường chống cộng rất cực đoan “Bốn Không”- không chấp nhận các hoạt động chính trị cộng sản ở miền nam VN, không thương lượng với cộng sản, không có chính phủ liên hiệp với Nam Việt Cộng, không nhượng đất cho Bắc Việt Cộng hay Chính Phủ CMLT của Nam Việt Cộng. Điều này đã cho cả thế giới, nhất là Quốc Hội Mỹ thấy rõ TT Thiệu sai lầm khi chủ trương không nhượng đất cho cộng sản nhưng lại “di tản chiến thuật” bỏ trống cả Cao Nguyên Trung Phần, duyên hải miền trung thuộc Vùng I và Vùng II Chiến Thuật của VNCH. Một sai lầm khác của TT Thiệu là ông không đủ tự tin vào bản lãnh chính trị của ông, ông trấn áp những người quốc gia bất đồng chính kiến với ông, ông chụp mũ cộng sản lên đầu của bất cứ ai chống lại ông cho dù có một số người quốc gia chân chính, và ông lo sợ sẽ bị thất thế chính trị vì nghi ngờ sẽ có những kẻ phản bội chính nghĩa quốc gia tôn thờ Marx-Lenin len lỏi vào tổ chức khi thành lập Hội Đồng Quốc Gia Hoà Giải và Hoà Hợp Dân Tộc để bắt đầu tiến hành giải pháp chính trị. Ở đây trích dẫn Hiệp Định Ba Lê 1973 như sau:
khoản (b) điều 9 Chương IV quy định “Việc thực hiện quyền tự quyết của nhân dân Miền Nam Việt Nam” như sau:
“ b) Nhân dân Miền Nam Việt Nam tự quyết định tương lai chính trị của Miền Nam Việt Nam thông qua tổng tuyển cử thực sự tự do và dân chủ, có giám sát quốc tế.”
Khoản (a) điều 11 thì ghi “Ngay sau khi ngưng bắn, hai bên Miền Nam Việt Nam sẽ hiệp thương trên tinh thần hoà giải và hoà hợp dân tộc, tôn trọng lẫn nhau và không thôn tính lẫn nhau để thành lập Hội Ðồng Quốc Gia Hoà Giải và Hoà Hợp Dân Tộc gồm ba thành phần ngang nhau...”.

Điều 15 của chương V Hiệp Ðịnh Paris quy định rất rõ ràng: “Việc thống nhất nước Việt Nam sẽ được thực hiện từng bước bằng phương pháp hoà bình trên cơ sở bàn bạc và thoả thuận giữa Miền Bắc và Miền Nam Việt Nam, không bên nào cưỡng ép hoặc thôn tính bên nào...Thời gian thống nhất sẽ do Miền Bắc và Miền Nam thoả thuận...”

Cũng có một sai lầm chính trị nghiêm trọng tương tự như của TT Thiệu khi ông từ chối không thành lập Hội Đồng Quốc Gia Hoà Giải và Hoà Hợp Dân Tộc là Việt Cộng sau khi giải phóng hoàn toàn miền nam VN, hay nói cách khác là cưỡng chiếm nước VNCH, đã không thành lập một Uỷ Ban Hoà Giải và Sự Thật của nước Việt Nam bởi vì Việt Cộng đã thống nhất VNDCCH-(Bắc Việt Cộng) với VNCH-(Việt Quốc Gia) vừa bị cộng sản cưỡng chiếm dưới hình thức CPCMLTCHMNVN-(Nam Việt Cộng). Một trong số những thủ đoạn tinh ranh của người CSVN đã được sử dụng nhiều lần nên trở nên rất thành thạo lão luyện là “lợi dụng nắm thời cơ đánh cướp chính quyền” và sau khi đã cướp được chính quyền rồi thì không cần gì tới hoà giải hay hoà hợp dân tộc nữa, và cũng là để làm đúng theo câu châm ngôn của thủ lãnh đảng CSVN- Hồ Chí Minh “Yếu thì liên hiệp. Mạnh thì triệt tiêu”, Việt Cộng sau khi đã làm chủ cả nước Việt Nam thì xây dựng lên những trại tù để cải tạo các cấp quân nhân, cán bộ, nhân viên chính phủ, chính trị gia, văn nghệ sĩ, ký giả, nhà giáo, hầu hết trí thức tư sản của VNCH, thay vì Việt Cộng thành lập một Uỷ Ban Hoà Giải và Sự Thật của nước Việt Nam.

Chính những người CSVN-Việt Cộng là những người sợ hãi Sự Thật. Họ sợ hãi Sự Thật như Con Ma Cà Ròng sợ hãi ánh sáng mặt trời. Nếu tất cả hai bên Cộng Sản và Tự Do, bốn phía là Mỹ, VNCH-(Việt Quốc Gia), VNDCCH-(Bắc Việt Cộng), CPCMLTCHMNVN-(Nam Việt Cộng) đều nghiêm chỉnh thi hành Hiệp Định Ba Lê 1973, thực hiện đàng hoàng giải pháp chính trị thì rõ ràng Việt Cộng không thể chiếm được nước VNCH, không thể chiếm được lòng tin yêu của người dân miền nam VN. Khi có sự giao lưu giữa Việt Cộng ở trong bưng biền miền nam ra ngoài tỉnh thành và Việt Cộng ở miền bắc vô miền nam, không kể một khối lượng rất nhiều thường dân nghèo khổ của miền bắc sẽ trố mắt thèm muốn lối sống sung túc ấm no và tự do của người dân miền nam. Người thường dân miền bắc lúc đó lựa chọn cái gì? Cộng Sản nghèo khổ hay Tự Do ấm no??

TT Nguyễn Văn Thiệu đã không đủ hoặc không có bản lãnh chính trị để chống chọi với những đối thủ chính trị đối lập với ông là những người Việt Cộng nguỵ trang ở nội tuyến nội thành, những người làm chính trị khuynh tả thân cộng, những người quốc gia bất đồng chính kiến không cộng sản, ông không có đủ bản lãnh để hoà giải và thoả hiệp với những người này trong chính phủ của ông; ông Thiệu cũng đã sợ hãi sự thất thế và thất bại của ông trong một chính phủ liên hiệp ba thành phần cho nên ông đã thẳng thừng từ chối thành lập Hội Đồng Quốc Gia Hoà Giải và Hoà Hợp Dân Tộc. TT Thiệu đã bỏ tù những người đối lập khi họ đòi hỏi ông thực thi Hiệp Định Ba Lê. Quốc Hội Mỹ thông qua Đại Sứ Quán Mỹ đã có nhận xét gì về ông Thiệu khi ông đã có những hành động đối phó sai lầm như vậy.

Có cùng một nỗi sợ hãi giống nhau, Việt Cộng đã sợ hãi Sự Thật nên đã không thành lập Uỷ Ban Hoà Giải và Sự Thật của nước Việt Nam sau khi đã cưỡng chiếm nước VNCH, thống nhất đất nước bằng biện pháp quân sự. Bắc Việt Cộng cũng đã cưỡng ép Nam Việt Cộng gấp rút chạy đua trên con đường tiến lên xã hội chủ nghĩa để cả hai miền Nam Bắc cùng nghèo đói bằng nhau. Sau khi đã thống nhất hai đảng Nhân Dân Cách Mạng của Nam Việt Cộng và đảng Lao Động của Bắc Việt Cộng thành một đảng Việt Cộng-CSVN mặc dù tất cả đều đã là cộng sản, nhưng trong nội bộ Việt Cộng cũng không có sự hoà giải với nhau.

Lịch sử chính trị Việt Nam cho thấy sự hoà giải và thoả hiệp đã bắt đầu khi thành lập Chính Phủ Liên Hiệp Kháng Chiến. Tháng 11 năm 1945, Tướng Tiêu Văn dưới quyền của Thống Tướng Tưởng Giới Thạch đứng ra tổ chức một cuộc hội nghị hòa giải tại Đại Sứ Quán Trung Hoa gồm có Việt Nam Quốc Dân Đảng, Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội, Việt Minh CS, và đảng Dân Chủ tham dự. Tất cả các đảng Việt Quốc, Việt Cách, Việt Minh, và Dân Chủ đều thỏa thuận thành lập một Chính Phủ Liên Hiệp Kháng Chiến, các bên tránh xung đột võ trang để giải quyết những vấn đề bất đồng và chấm dứt việc tuyên truyền đả kích nhau. Tuy nhiên, Chính Phủ Liên Hiệp Kháng Chiến này không tồn tại lâu. Tháng 7 năm 1946, Việt Minh CS đã tấn công lực lượng của Việt Quốc.

Để tranh giành quyền lãnh đạo độc tôn, trong hai năm 1945, 1946 Việt Minh đã triệt tiêu những thủ lãnh của các đảng phái quốc gia, giết chết rất nhiều đảng viên của Việt Quốc và Đại Việt Quốc Dân Đảng. Việt Minh còn giết chết cả những đảng viên Việt CS Đệ Tứ Quốc Tế.

Vào năm 1947 ở miền tây nam bộ VN, CS Việt Minh đã triệt tiêu Huỳnh Phú Sổ một thủ lãnh của Phật Giáo Hoà Hảo trong chuyến đi gặp Nguyễn Bình một thủ lãnh của CS Việt Minh ở miền tây để hoà giải những tranh chấp giữa PGHH và CS Việt Minh.

Sự hoà giải, hoà hợp dân tộc và thoả hiệp với CS Việt Minh đã thất bại vì CS Việt Minh chỉ muốn chiếm giữ vị trí lãnh đạo độc đảng độc tôn. Đây là một bài học lịch sử rất giá trị mà không ai có thể quên. Nhưng không phải vì thế mà sợ hãi Việt Cộng, một loài Ma Cà Ròng sợ hãi Sự Thật.

Ở miền nam VN dưới thời TT Ngô Đình Diệm, sự hoà giải và thoả hiệp giữa chính phủ Ngô Đình Diệm và các đảng phái quốc gia cũng đã thất bại. TT Diệm đã phản bội những thủ lãnh của các đảng phái quốc gia, những người đã ủng hộ và giúp ông Diệm trong việc truất phế Bảo Đại đưa đến việc ông Diệm trở thành tổng thống đầu tiên của nước VNCH. TT Diệm cũng đã không thi hành Hiệp Định Geneva 1954 và từ chối hiệp thương với Bắc Việt Cộng trong một giải pháp chính trị để thống nhất đất nước qua cuộc tổng tuyển cử. TT Diệm có lập trường chống cộng cực đoan, không hoà giải và thoả hiệp với các đối thủ chính trị thuộc các đảng phái quốc gia, có óc kỳ thị Phật Giáo, và áp dụng lối gia đình trị vào việc quản lý nước VNCH.

Do những tham vọng chính trị bất hảo và ý muốn làm giàu bằng xương máu của nhân dân Việt Nam nên một số chính trị gia Việt Nam ở cả hai bên, Cộng Sản và Quốc Gia, đều đã áp dụng thủ đoạn chính trị độc ác gian manh “yếu thì liên hiệp, mạnh thì triệt tiêu” để diệt trừ hết những đối thủ chính trị cũng như những người hợp tác hầu chiếm trọn địa vị độc tôn, độc quyền, và độc tài cai quản guồng máy quốc gia và qua công việc đó để tham nhũng, làm giàu bất chính.

Thông thường là những người có lập trường cực đoan-cực tả hay cực hữu, những kẻ quá khích khủng bố, những người còn mang nặng thù oán cá nhân, những tên độc tôn-độc tài, ở bất cứ nơi nào họ cũng muốn kéo dài sự tranh chấp để trả thù báo oán, để lợi dụng trục lợi, để tham quyền cố vị hưởng đặc quyền đặc lợi; vì thế mà không chấp nhận sự hoà giải và thoả hiệp. Bởi vì có sự hoà giải và thoả hiệp thì họ sẽ không còn tranh chấp để trả thù trả oán, để trục lợi riêng tư, không còn địa vị độc tôn độc đảng độc tài, không còn được hưởng đặc quyền đặc lợi nữa.

Sự hoà giải, hoà hợp dân tộc và thoả hiệp giữa những người Việt Nam làm chính trị với nhau, những nhà chính trị Việt Nam thường thường nghi kỵ lẫn nhau, không chân thật, không ai chịu nhường nhịn ai vì có quá nhiều tự ái, tự cao, tự đại, và tự phụ; vì vậy họ đã gặp phải nhiều khó khăn và còn trở ngại kéo dài cho tới nay trong khi hơn lúc nào hết sự hoà giải, hoà hợp dân tộc và thoả hiệp giữa những đảng phái chính trị của người Việt Nam là khẩn thiết vì lợi ích của đất nước Việt Nam, vì đời sống ấm no hạnh phúc của toàn thể người dân Việt Nam?

Nếu cha mẹ, cô dì, chú bác của chúng ta đã thành thật hoà giải và ngay thẳng thoả hiệp được với nhau thì bản thân của tôi đã không được sanh ra trên một chiến hạm của Mỹ ở ngoài khơi Biển Đông, tôi đã không có cái tên Tristan Nguyễn hay là Nguyễn Buồn, và các anh chị cũng đã không được đặt cho cái tên là Nguyễn Vui hay Nguyễn Buồn tuỳ theo mỗi hoàn cảnh riêng của cha mẹ của các anh chị ở Việt Nam. Và khi tôi truy tầm ý nghĩa cái tên của tôi, tôi lại có ý muốn tìm hiểu những cái tên khác như là Trần Đại Thắng, Lưu Quốc Hận, Nguyễn Phục Quốc, Lê Quang Phục, Mai Trọng Dân, .v.v. Dĩ nhiên mỗi cái tên đền có ý nghĩa riêng biệt của nó và muốn biểu lộ một điều gì đó mà người cha hay người mẹ đã đặt tên cho con mình, hoặc là chính người mang cái tên đó đã tự đặt tên cho mình. Dù như thế nào thì cái tên cũng mang ít nhiều tính chất chính trị và ý thức hệ mà người cha hay người mẹ muốn truyền đạt lại cho con.

Nguyễn Buồn và Nguyễn Vui đang ở hải ngoại cũng như Nguyễn Vui và Nguyễn Buồn hiện ở trong nước Việt Nam có thể hoà giải với nhau để giải quyết những vấn-đề-xung-khắc-vì-Vui-vì-Buồn-với-nhau hay không? Hay là Nguyễn Buồn thì cứ mặc kệ cho Nguyễn buồn. Còn Nguyễn Vui vì đã được vui thì cứ tiếp tục cuộc vui và cứ thừa hưởng đặc quyền đặc lợi di truyền để cứ là Nguyễn Vui cha truyền con nối? Trong những tình cảnh di truyền như vậy thì những xung đột ý thức hệ chắc chắn còn xảy ra ở trong nuớc Việt Nam. Ý thức hệ di truyền cộng sản sẽ xung đột với ý thức hệ tự do lựa chọn.

Hôm nay nhân ngày 30 tháng 4 năm 2011, sinh nhật thứ 36 của những người Việt Nam tuỳ theo từng hoàn cảnh cá nhân mà có tên Nguyễn Vui hoặc Nguyễn Buồn hiện ở trong nước; cũng như những người Việt Nam rời bỏ quê hương tuỳ theo hoàn cảnh của từng người mà mang tên Nguyễn Buồn hay Nguyễn Vui đang cư ngụ ở nước ngoài.

Riêng tôi mang tên Nguyễn Buồn, muốn nhân dịp này mời gọi tất cả những anh chị có cùng tên Nguyễn Buồn hay Nguyễn Vui hãy cùng tôi thành lập một liên hội thế hệ ngày 30 tháng 4 năm 1975, gọi tắt là Liên Hội Thế Hệ 30 Tháng 4, để trao đổi Vui-Buồn với nhau. Cho dù anh chị là Nguyễn Vui hay là Nguyễn Buồn, anh chị đang ở trong nước hay ở hải ngoại, chúng ta đều có chung một ngày sanh là 30 tháng 4. Thế Hệ 30 Tháng 4 không thể để cho những chất độc của “lòng hận thù ngút trời” và “máu của Con Ma Cà Ròng” làm ô nhiễm và ung thối trí óc và trái tim của chúng ta. Các anh chị Nguyễn Vui hay Nguyễn Buồn đang ở trong nước hay ở hải ngoại, chúng ta không thể tiếp tục có thái độ lãnh đạm, vô cảm đối với các hoàn cảnh, các sự cố đã đang xảy ra xung quanh chúng ta. Trường hợp các anh chị đã có xích mích với nhau vì một vài xung khắc tình cảm, một vài tranh chấp quyền lợi trong cuộc sống thì xin các anh chị vui lòng cởi mở, bày tỏ trung thực suy nghĩ và ý muốn của mình, sau đó hãy cảm thông hoàn cảnh của nhau và giúp nhau vượt qua những khó khăn trong cuộc sống bị gò bó. Khi chúng ta nói lên được sự thật hoặc trung thực nỗi lòng của mình, chúng ta tự giải phóng được những gông cùm xiềng xích nội tâm hoặc tự phá vỡ được những rào cản của xã hội Việt Nam khép kín. Các anh chị thuộc Thế Hệ 30 tháng 4 hãy mạnh dạn nói lên cảm tưởng gì về thân phận của mình. Chúng ta luôn luôn lắng nghe lẫn nhau./.

Dr. Tristan Nguyễn
San Francisco, 30/04/2011
.
.
.

No comments: