Chuyển ngữ: Chân Phương
4.01.2011
Lời Giới Thiệu của dịch giả Chân Phương: The New York Times Book Review (phụ trương văn hóa – văn nghệ của nhật báo New York Times), trong số Chúa Nhật mừng năm mới, Jan.2,2011, giới thiệu một số tiếng nói phê bình văn học Anh-Mỹ nhận định về tình hình của bộ môn này dưới đề mục Why Criticism Matters*.
Bài viết cô đọng của Pankaj Mishra, nhà biên khảo kiêm tiểu thuyết gia đồng thời là thành viên trong Royal Society of Literature (Hội Hoàng Gia Văn Học [Anh quốc]), phác họa một bức tranh không được lạc quan lắm về hiện trạng văn học Mỹ hôm nay giữa một xã hội tiêu thụ bị kinh tế thị trường khống chế với đám đông công chúng đã đánh mất ý thức chính trị từ thời Chiến Tranh Lạnh. Ông còn bi quan hơn trong nhận định về tình hình của ngành phê bình ở đây “… đã bắt đầu chết dần mòn từ độ nào …”, khi ông so sánh nó với các ngòi bút như Alfred Kazin của những năm bốn mươi vào thế kỷ vừa qua. Trái lại Mishra dành nhiều cảm tình cho các dòng văn học “ thế giới thứ Ba”, và có vẻ đặc biệt ngưỡng mộ văn học chính trị Trung Quốc khi nhắc đến Lỗ Tấn và Lưu Hiểu Ba trong đoạn kết của bài nhận định.
Để khai mạc thập niên thứ hai của một thế kỷ còn mới, tôi xin gửi đến độc giả DA MÀU một tài liệu nóng, đầy chất “văn chương không biên giới” — một bài viết mở ra các chân trời văn hóa thế giới thoát khỏi khung văn hóa của một đế quốc đang lâm cơn sốt nặng kéo dài về nhiều mặt ( chính trị, quân sự, kinh tế, dân số – sắc tộc, sinh thái …).
Kính chúc tất cả các bạn một thập niên mới nhiều ý nghĩa.
CHÂN PHƯƠNG
-----------------------------------
Tốt nghiệp từ các lớp sáng tác, được hưởng lộc nhờ món tiền ứng dồi dào của các nhà xuất bản hoặc khoản tài trợ từ mấy foundations, và là khách mời quen mặt tại các festival văn học ở những nơi kỳ thú – quá nhiều ngòi bút ngày nay đã được kết nạp quá nhanh vào các giai cấp xã hội ăn trên ngồi trước để mà có thể làm tiếp công tác phê bình xã hội một cách thuyết phục, hoặc lâu bền…Phê bình văn học, ít ra trong các hiện thân gầy đây của nó ở Mỹ, đã phản ánh trung thực sự thoái lui nói chung của các ngòi bút khỏi quyển cầu công cộng biến thành một thứ ngôn ngữ riêng tư được luyện chế để nhả ra loại kiến thức chuyên biệt về một cõi tự rào kín của lối tiêu thụ sang trọng. Khó mà tưởng tượng dòng văn chương Mỹ gần đây có thể khiêu khích nổi một phản ứng phê bình kiểu như Alfred Kazin từng làm với cuốn khảo luận tuyệt vời, On Native Grounds, 1942; cuốn sách đã ghi nhận rất tinh nhậy sự diễn tiến của nhiều tâm trạng trong văn giới trên bối cảnh một thời kỳ tiền chiến đầy tranh chấp và khủng hoảng liên tục.
Cho nên tôi thấy quen quen, thậm chí cảm nhận được mối ưu tư nhức nhối trong ý thức của ông về một sự cáo chung, khi Kazin cảm thấy “niềm tự tin lớn lao rằng con người có thể hiểu biết thời đại của mình để kiến tạo lên từ đó, cùng với cảm thức đã đóng góp sinh lực cho nền nghệ thuật hiện đại, đã rời khỏi chúng ta”, nhưng tôi không thể chia xẻ điều này bởi lẽ môn phê bình, theo định nghĩa của Kazin, đã khởi sự chết dần mòn từ độ nào…
Chẳng đi đến đâu nếu chê trách phái “New Criticism” [phái Tân Phê Bình Hoa Kỳ] đã thần tượng hóa tính độc đáo và sự tự tồn tự tại (autonomy) của các tác phẩm văn chương, hoặc quất thêm lần nữa con ngựa chết ngáp là các phân khoa chuyên dạy sáng tác – những nơi từng đề xướng một thứ chủ nghĩa hình thức chống lại lịch sử đồng thời biến một thiên chức cao quí thành một cơ hội làm tiền khác. Lý do là các thứ thực hành này chẳng qua là triệu chứng của một hiện tượng lan rộng hơn, đã đâm rễ sâu trong suốt cuộc chiến tranh lạnh, và giờ đây càng hiển nhiên hơn: sự giải trừ ý thức chính trị ở đám đông trong khi các nếp an bài chính trị và kinh tế có vẻ như bất khả chuyển biến một cách trầm trệ.
Trong cuốn sách Ill fares the Land, Tony Judt đã viết lời ta thán tiếc nhớ tinh thần lý tưởng về đạo đức và thái độ nhập cuộc của công dân: “Trong đời sống chính trị cũng như kinh tế, chúng ta đã trở thành những kẻ tiêu thụ.” Một sự tòng phục tương tự cũng hằn dấu trên các chọn lựa văn hóa của chúng ta. Đa số các nhà văn cũng như các độc giả của loại văn chương hư cấu coi nó như một hình thức điệu nghệ của giải trí hoặc dạy bảo kiến thức.
Bị tước mất trọn gói ngôn từ về mối quan tâm đạo lý theo truyền thống vẫn được huy động bởi nền văn hóa nhân đạo chủ nghĩa, phê bình văn học luôn luôn đeo cái vận biến làm một dạng tri kiến sành điệu ưa thích tranh đua – một trò chơi xa-lông (parlor game) cho giới sản xuất ngày càng chuyên nghiệp cũng như giới tiêu thụ văn chương thụ động. Nó có thể mang lại những khoái cảm thông minh; nhưng với thái độ khăng khăng phi- xã hội, còn lâu nó mới đưa ra được, như Kazin từng yêu cầu ở nó, một “cảm thức lịch sử về cái gì đã, đang, và nên xảy đến cho sự đối đầu và phân tích tức thời của các tác phẩm nghệ thuật”.
Có thể các cú sốc nghiêm trọng về chính trị và kinh tế trong thập niên vừa qua rốt cục sẽ mở ra trước ngành phê bình văn học và văn chương những vấn đề mà Kazin và đồng bạn của ông từng đòi hỏi ở chúng. Tuy nhiên thế giới chúng ta cũng lớn rộng và đa dạng hơn cái thế giới Kazin từng biết. Chúng ta tiếp xúc dễ dàng với kiến thức về các loại xã hội và văn hóa mà trước đây chúng ta dốt đặc; và không có lý lẽ nào để quy kết rằng chỉ có văn chương Âu-Mỹ là đáng kể, hay là cần phải được quan tâm đến, đối với nhà phê bình hôm nay.
Văn chương ở các nơi khác vẫn đưa ra một phương cách khảo nghiệm tri thức rất thoáng, cách này có thể ứng tiếp những minh kiến về các kiếp sống con người do lịch sử, triết học và dân tộc học cống hiến. Đọc kỹ tác phẩm của Lỗ Tấn, nhà văn hiện đại đầu đàn của Trung Quốc, ta noi theo mối ưu tư của ông để thâm nhập vào những điều mà người Hoa tự cảm nhận được, từ quá khứ Khổng Nho xa xôi đến hiện tại tư bản-Cộng sản nhập nhằng kỳ quái hôm nay. Ta không chỉ lĩnh hội các thử nghiệm của ông với nhiều thể loại và hình thái thẩm mỹ khác biệt mà còn hiểu được lịch sử rối rắm gần đây của đất nước ông, đó là chưa kể những điều liên lụy mà các diễn tiến ấy chứa đựng cho phần còn lại của thế giới.
Hiển nhiên là ta không tìm thấy ở bất cứ nơi nào khác những hoàn cảnh lịch sử đặc thù đã giới hạn việc tiếp nhận văn chương của ngành phê bình Âu-Mỹ vào tay một số ít chuyên gia. Các xã hội ở Á châu và Mỹ- La tinh không tĩnh lặng chút nào về mặt chính trị; các thứ xung đột, cách phô diễn tưng bừng và sự xô bồ của Âu-Mỹ vào thế kỷ 19 đã tái hiện tại những nơi này dưới hình dạng khuếch đại mà một nhà văn kiêm phê bình có óc tò mò chỉ có thể thích thú đón nhận.
Cả Lưu Hiểu Ba – giải Nobel Hòa Bình năm 2010 đang ở Trung Quốc với nghề chính là phê bình văn học, lẫn Mario Vargas Llhosa – người lấy Nobel Văn Chương cho Pêru, đều làm chứng cho một điều: không thể tách biệt các vấn đề thẩm mỹ ra khỏi những vận động xã hội – chính trị. Chúng khẳng định rằng ý thức về bản thân của một nhà văn luôn luôn được thúc đẩy bởi lịch sử, và ta không thể đánh giá tác phẩm của một nhà văn mà không khảo sát đến sự xung đột của cá nhân họ với thế gian, nỗi phẫn nộ hoặc bất bình đã khiến nhà văn trên hết dùng ngòi bút để trải bày.
* Có thể đọc toàn văn bài nhận định này cùng các bài khác trên www.nytimes.com/books
.
.
.
.
No comments:
Post a Comment