Tuesday, March 31, 2009

ĐÌNH CHỈ DỰ ÁN BÔ-XÍT TÂY NGUYÊN ???

(TRO CA THANG TU)

----------------------------

Bản tin dưới đây được đăng tải trên hai trang web :

x-cafevn.org tại địa chỉ : http://www.x-cafevn.org/node/1531

Dân Luận tại địa chỉ : http://danluan.org/node/885

Nhưng không tìm thấy trên website của chính phủ CHXHCNVN: http://www.chinhphu.vn/

*****

Ngày 1/4/2009:

Thủ tướng quyết định đình chỉ kế hoạch khai thác Bô xít ở Tây Nguyên

http://www.x-cafevn.org/node/1531

http://danluan.org/node/885

Tại phiên họp thường kỳ của Chính phủ lần đầu tiên diễn ra trực tuyến với các tỉnh, thành chiều 31/03/2009, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã chính thức công bố quyết định huỷ bỏ vô thời hạn kế hoạch khai thác mỏ bô xít ở Tây Nguyên. Quyết định này đã được Thủ tướng ký duyệt và có hiệu lực kể từ ngày 01/04/2009.

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và Phó thủ tướng Trương Vĩnh Trọng tại phiên họp chiều 31/03/2009 (Ảnh: TTXVN)

http://danluan.org/files/u2/1_1.jpg

Tại cuộc họp, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã dành phần lớn thời gian để giải thích quyết định đình chỉ kế hoạch phát triển Bô xít Tây Nguyên. Như báo chí trước đây đã cho biết, việc khai thác quặng bô xít là chủ trương lớn của Đảng, Nhà nước ta, như đã được nêu trong Nghị quyết Đại hội X. Đã có nhiều ý kiến khác nhau trong các cuộc họp của Bộ Chính trị cũng như Chính Phủ và cuối cùng đã có quyết định chung dẫn đến việc Chính phủ phê duyệt việc qui hoạch phát triển bô xít Tây Nguyên với tinh thần đảm bảo hiệu quả, bền vững.

Tuy nhiên, sau khi cân nhắc bàn thảo, lắng nghe ý kiến mọi ngành mọi cấp trên tinh thần "lấy dân làm gốc" trong một tháng trở lại đây, Chính phủ - mà đứng đầu là Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng - đã ra quyết định huỷ bỏ tất cả các dự án khai thác quặng bô xít ở các khu vực Đăk Nông, Bảo Lộc. Ngoài những ảnh hưởng rõ ràng về kinh tế, môi trường và xã hội, dự án bô xít nếu tiến hành sẽ ảnh hưởng đến vị thế chính trị của quốc gia trước thế giới. "Tây Nguyên là mái nhà của Đông Dương, chúng ta không được để bất cứ một ảnh hưởng nào từ bên ngoài gây áp lực đến vị trí chiến lược này, chúng ta phải kiên quyết bày tỏ thái độ đối với những hàng xóm nào muốn leo lên trên mái nhà ấy!" Thủ tướng cho biết. "Những sự kiện nóng hổi diễn ra gần đây trên biển Đông cho thấy, chúng ta không thể không đề phòng những người hàng xóm này".

Thủ tướng giải thích nguyên nhân chính dẫn tới việc phủ quyết này là sự quan tâm và lo ngại sâu sắc của mọi giới, mọi tầng lớp về vấn đề này. Chính phủ đã thành tâm lắng nghe các ý kiến, quan điểm đóng góp của các nhà môi trường học, xã hội học như Tiến sĩ Nguyễn Thành Sơn, Tiến sĩ Trần Bỉnh Chư... cũng như những nhân vật có uy tín và ảnh hưởng lớn trong quần chúng, từ Đại tướng Võ Nguyên Giáp đến nhà văn Nguyên Ngọc, từ Hoà thượng Thích Quảng Độ đến những người Việt ở nước ngoài như ông Bùi Tín.

Thủ tướng cũng chân thành cám ơn các nhà báo đã mạnh dạn bộc lộ quan điểm của mình qua những bài viết nảy lửa trên những trang blog cá nhân. "Bày tỏ chính kiến trong môi trường thông tin đại chúng là một việc làm đáng hoan nghênh, hoàn toàn phù hợp với xu thế chung của thời đại," Thủ tướng nhấn mạnh.

Thanh niên Việt Nam bắt đầu biết quan tâm đến công việc nước nhà là một tín hiệu đáng mừng!


» Đồng chí Nông Đức Mạnh

Cuộc họp trực tuyến đầu tiên đã trở nên sôi động với cuộc viếng thăm bất ngờ của Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh. Trong bài phát biểu ngắn trước Chính phủ, đồng chí Tổng Bí Thư đã nhấn mạnh chủ trương của Đảng là hoàn toàn ủng hộ quyết định của Chính phủ. Bằng một giọng xúc động, đồng chí cho biết lý do Bộ Chính trị và bản thân đồng chí thay đổi quyết định như trên là vì đã đọc được những ý kiến và tranh luận của các thành viên của các diễn đàn X-Cafe và Dân Luận trên mạng Internet. "Thanh niên Việt Nam bắt đầu biết quan tâm đến công việc nước nhà là một tín hiệu đáng mừng", đồng chí Tổng Bí Thư bày tỏ.

Một ngày trước đó, ông Phạm Khôi Nguyên, bộ trưởng Bộ Tài Nguyên Môi Trường đã thay mặt chính phủ giải trình trước Quốc Hội về dự án gây nhiều tranh cãi này. Cuộc điều trần của bộ trưởng Phạm Khôi Nguyên bị gián đoạn nhiều lần vì những tranh luận gay gắt giữa ông Dương Trung Quốc và những đại biểu Quốc hội ủng hộ hoặc chống đối chủ trương khai thác bô xít này.

Chương trình nghị sự ngày mai sẽ chú trọng vào việc chính thức tuyên bố Chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa, cũng như những biện pháp để khai thác và bảo vệ vùng biển đảo này của tổ quốc.

Bán Nguyệt San TỰ DO NGÔN LUẬN số 72 (1-4-2009)

Đảng bảo đi là đi! Đảng bảo cướp là cướp !!!
Xã luận bán nguyệt san Tự do Ngôn luận số 72 (1-4-2009)

***

Xin mời bấm vào đây để xem BNS Tự do Ngôn luận số 72

***

Bài thơ một thời của thi nô Tố Hữu : “Đảng bảo đi là đi! Đảng bảo đánh là đánh! Đảng bảo thắng là thắng!...”, một bài thơ từng góp phần lường gạt và đẩy hàng triệu thanh niên Việt Nam vào chỗ chết để xây nên ngai vàng bạo chúa cho tập đoàn lãnh đạo CSVN hiện thời, bài thơ ấy nay được nhân dân cải biên rất chí lý thành: “Đảng bảo đi là đi! Đảng bảo đánh là đánh! Đảng bảo cướp là cướp!...”.

1- Quả thế, sau khi “cướp chính quyền” (họ vỗ ngực tự hào thế), đảng CSVN đã lộ nguyên hình một đảng mafia và đào tạo ra cả một bọn cướp đông đảo trên đất Việt Nam. Đây là thành quả chủ yếu và có thể nói là “vĩ đại” nhất trong “sự nghiệp trồng người” của Hồ Chí Minh, “sự nghiệp giáo dục” của “cách mạng VN”. Với nhiều kỹ thuật: đầu độc nhồi sọ, o bế dụ khị, hăm dọa trấn áp, hứa suông hẹn hão, đảng CS đã biến vô số người Việt hiền lương thành một bầy lâu la, chẳng còn biết thế nào là lương tâm và luật pháp (dù là luật pháp CS), một chỉ nhắm mắt tuân theo mệnh lệnh mà đi tàn hại đất nước và dân lành, góp phần củng cố sự thống trị bất công của đảng, của thiểu số lãnh đạo cao cấp trong đảng. Đám lâu la, bầy tiểu yêu, lũ tay chân này không chỉ là hạng tứ chiếng giang hồ, đâm thuê chém mướn, mặt mày bặm trợn, thuộc thành phần “xã hội đen” (nay được đảng rất trọng dụng trong các cuộc đàn áp) mà còn là những kẻ ít nhiều có học, nhà cửa đàng hoàng, sắc phục nghiêm chỉnh, đi đứng ăn nói chững chạc, có địa vị danh tước trong xã hội… Chúng không chỉ theo lệnh đảng đi đánh thân thể người, cướp đất đai nhà cửa thiên hạ mà còn đánh nhiều thứ khác, cướp nhiều thứ khác của nhân dân. Xin đan cử vài ví dụ rất thời sự.

Trước hết, đám tay chân này đang ngồi trong một nơi lẽ ra rất đáng trọng vọng là Bộ Giáo dục và Đào tạo CSVN. Qua cái gọi là “Chương trình giáo dục mầm non từ 3 tháng đến 6 tuổi” do Bộ này đưa ra hôm 11-02-2009, trong Phần III (Chương trình giáo dục mẫu giáo), mục 4 (Giáo dục phát triển tình cảm-xã hội), cả hai lứa tuổi từ 3 đến 4, 5 đến 6 đều được đúc khuôn uốn nắn theo tôn chỉ “kính yêu Bác Hồ và những người có công với quê hương đất nước” (chủ yếu là các công thần đảng CS) (trang 53). Đi vào chi tiết thì cả độ tuổi 3-6 đều được yêu cầu “nhận ra Bác Hồ, đầu tiên qua tranh ảnh, băng hình, đoạn qua lăng Bác (nhà trường tổ chức đi thăm), rồi qua chỗ Bác ở, nơi Bác làm việc…” Chưa đủ, bên cạnh việc nhận ra, thầy cô còn phải dạy các em thích nghe chuyện, nghe hát, đọc thơ, xem ảnh “Bác Hồ”, đoạn thích và thuộc một số bài hát, bài thơ về “Bác”, rồi thì biết một số bài hát, bài thơ, câu chuyện về “Bác” nữa (trang 68)!?! Đưa ra cho các tâm hồn thơ bé mẫu gương của một con người mà khi còn sống đã phạm tội ác với thân thuộc bạn bè, đã giở đủ mọi thủ đoạn lừa gạt nhân dân, đưa họ đi theo con đường chém giết, cướp giật, khi chết còn nằm ăn vạ 80 triệu người Việt Nam, từ đứa trẻ lọt lòng mẹ đến cụ già gần đất xa trời, làm điêu linh cuộc sống trăm họ, khiến đất nước khốn khổ tang thương, suy đồi đốn mạt như hôm nay, đó là một việc đầu độc hết sức đáng tởm, một sự cướp đoạt lương thức con người không thể chấp nhận.

Thứ đến, đám lâu la này cũng có mặt những nơi mà người ta nghĩ là phải phục vụ công lý và sự thật. Dưới danh xưng “sở tư pháp”, “luật sư đoàn”, “phòng thuế vụ”, “cơ quan công an”, “ban thi hành án”, bằng đủ cách như “xử phạt hành chánh”, “đòi giải trình thuế”, “khám xét hành lý”, “kê biên tài sản”, “mời đi làm việc” đầy thủ đoạn mờ ám, phi lý, vô luật, vừa qua chúng đã đánh hội đồng những con người đang bảo vệ công lý cho giáo dân Thái Hà bị án oan và cho các nhà dân chủ bị tù oan là luật sư Lê Trần Luật và các cộng sự. Chiếm đoạt máy móc, tước quyền hoạt động, chặn đường đi lại, quấy nhiễu gia đình, mạ lỵ xuyên tạc trên báo đài, nhắn tin hăm dọa chửi bới trên điện thoại, cưỡng bức xúi giục khách hàng thân chủ vu khống, gởi giấy mời đến tòa biện hộ sau phiên xét xử… những việc đánh phá ấy đối với Văn phòng Luật sư pháp quyền có phải được thực hiện bởi các tay du thủ du thực, những kẻ cướp đêm cướp đường, giai tầng cặn bã của xã hội đâu!

Cùng chịu những trò như Luật sư Luật là 8 giáo dân và cả vị cai quản giáo xứ Thái Hà là linh mục Vũ Khởi Phụng. Trên tờ Hà Nội Mới, ở trang nhất, liên tiếp hai ngày 26-27/03, tức trước phiên tòa phúc thẩm, bài viết đầy sát khí "Phải vạch mặt và xử lý nghiêm những kẻ chủ mưu" đã cho ai nấy thấy “trận đánh” nhắm vào Thái Hà của nhà cầm quyền CS đã chính thức chuyển hướng. Tám giáo dân bây giờ được gạt sang một bên và kẻ đang bị đưa vào “tầm ngắm” để thế chỗ không còn ai khác hơn linh mục chánh xứ Vũ Khởi Phụng, với những luận điệu "Thực chất họ [giáo dân] đang là nạn nhân của những kẻ xấu đứng đằng sau, muốn thông qua họ để gây khiếu kiện, chia rẽ khối đoàn kết dân tộc". Và quả nhiên thông tin từ trong tòa án ra bên ngoài lúc 11g sáng ngày phúc thẩm (27-03-2009) cho thấy phiên xử đã được công tố cũng như quan tòa lái theo hướng : "Nếu các giáo dân chấp nhận cúi đầu nhận tội và khai ai là người cầm đầu thì được tha bổng hết". Trước đó một ngày, các viên chức chính quyền tại Hà Đông đã đi nhắc nhở dân địa phương nên đóng các cửa hàng quán lại, đề phòng “bọn giáo dân” gây bạo loạn, với lời nhắc nhở: “Ngày mai sẽ xử “bọn giáo dân” phá nhà. Bọn này ghê lắm…”, khiến người dân phải kháo láo với nhau: “Chúng nó phá bao nhiêu nhà dân ngoài Hà Nội. Giờ kéo vào đây, công an nhắc nhở chúng tôi không cẩn thận chúng phá cả cửa hàng. Ngày mai học sinh các trường quanh tòa án đều phải nghỉ học cả đấy!” Rồi trong ngày phúc thẩm, đang lúc bên ngoài hàng trăm công an chìm nổi trang bị tận răng, mặt đằng đằng sát khí, thì bên trong tòa án, dưới bộ áo “thẩm phán uy nghiêm”, hội đồng xét xử vẫn ngang nhiên cắt lời, chặn họng các luật sư bào chữa, và cuối cùng, vẫn cứ theo chỉ đạo ở trên mà tuyên phán y án cho các bị can vô tội. Rõ ràng những kẻ núp dưới danh nghĩa bảo vệ công lý và phục vụ sự thật đã hành xử như bọn cướp, vâng lệnh đánh thanh danh, cướp danh dự của nhiều công dân lương thiện. Đấy là chưa kể kế hoạch tước đoạt phương tiện, vu khống thóa mạ các cá nhân và tổ chức đấu tranh cho nhân quyền như Khối Dân chủ 8406, như trang blog Người Buôn Gió, như nhà đối kháng Đỗ Nam Hải (bị cướp máy móc đến lần thứ 8)…

Chuyện đảng viên cán bộ địa phương cướp đất đai tài sản của nhân dân, với sự bao che của trung ương (vốn đã nhận tiền “đút lót, lại quả”) là bộ phim dài nhiều tập. Ta hãy nghe một đoạn trong ký sự “Thị trấn Bô-xít tại Lâm Đồng” của Lý Nam Bình: “Người dân Lộc Thắng thì đi đâu cũng bàn tán xôn xao về mỏ Bô-xít. Họ kể về những gia đình được nhận trên 1 tỷ đồng tiền đền bù giải tỏa để giao mặt bằng, nhưng ra thị trấn hay xuống thị xã mua nhà vẫn không đủ. Có người không chịu đi bị cưỡng chế, sau đó tiền đền bù mất hơn 400 triệu trừ vào chi phí cưỡng chế. Có người tiếc vườn chè, vườn cà phê, quyết ôm cột nhà không đi, bị xe múc vào múc bể đầu chết ngay tại chỗ mà còn bị kết tội là chống người thi hành công vụ…” Hay trong ký sự “Đại loạn tại Trường Yên” của Trần Khải Thanh Thủy: “Đất ở đây có giá 5 triệu/m2. Chính quyền xã đồng ý trả lại cho các gia đình bị thu hồi đất mỗi nhà 10% đất dịch vụ, với giá 2 triệu một m2. Nghĩa là bị cưỡng ép bán ruộng với giá rẻ, vẻn vẹn 220.000 một mét, song lại "được" xã ưu tiên nhượng lại với giá gấp 9-10 lần, với lý do nhà chật, đông anh em trai, thiếu đất ở và đất sản xuất... Bán cả sào đất, được 80 triệu thì mua lại đất xã bán… người nông dân chỉ còn vẻn vẹn 8 triệu, còn mất đi 9/10 số đất đã có. Quả là một dạng ăn cướp tinh vi, cướp trên cơ sở luật pháp của nhà nước XHCN. Lực lượng cưỡng chế cậy lệnh, cậy đông, khinh nhờn quyền dân nên hung hăng như giữa chốn không người, trong lúc chủ tịch xã cầm loa oang oang kích động, ra sức tuyên truyền đường lối và chủ trương "đúng đắn" của đảng và nhà nước: “Đất đai là sở hữu của nhà nước! Khi cần, nhà nước ra lệnh trưng thu, đề nghị bà con thôn ta tự nguyện chấp hành”.

2- Sở dĩ có cảnh “Đảng bảo đi là đi! Đảng bảo đánh là đánh! Đảng bảo cướp là cướp!...” như thế, đó là vì chính CSVN đang là tên đầy tớ chịu lệnh của CS Trung Quốc. Cái đảng Đại Hán này đã và đang ra lệnh cho tay chân, đàn em phải đi, phải đánh, phải cướp cơ đồ nước Việt mà dâng cho họ. Đầu tiên là qua công hàm ô nhục năm 1958, tiếp đến qua 2 hiệp định lãnh thổ và lãnh hải đầy khiếp nhược năm 1999 rồi 2000, đoạn qua việc câm lặng để cho Trung Cộng tống cổ hai công ty dầu khí Mỹ và Anh khỏi thềm lục địa VN năm rồi. Mới đây nhất, nguy hiểm nhất, quân cướp Việt Cộng lại đánh đuổi cư dân khỏi Tây nguyên, đánh bạt tiếng dân khắp cả nước, để cho tướng cướp Trung Cộng đem nhân công và máy móc của mình vào yếu huyệt sinh tử, tiền đồn quan trọng đó của Quốc gia (chưa kể cho Trung Cộng thắng thầu rất nhiều công trình trọng điểm về điện, ximăng, hóa chất). Rồi giữa cảnh dầu sôi lửa bỏng, thậm chí giữa xung đột quốc tế trên biển Đông, bộ Chính trị CSVN vẫn liên tục tiếp các đại diện Bắc triều để nhận lệnh: Uỷ viên Quốc vụ viện Trung Cộng là Đới Bỉnh Quốc được cả ba lãnh đạo cao cấp nhất của Việt Cộng tiếp trong hai ngày 19 và 20-03-2009. Rồi Bộ trưởng Quốc phòng Phùng Quang Thanh cùng Tham mưu trưởng quân đội Nguyễn Khắc Nghiên, và sau đó là Phó chủ tịch nước Nguyễn Thị Doan, lại tiếp Trần Bỉnh Đức, Tổng tham mưu trưởng quân đội Trung Cộng hôm 23-03… Cùng ngày, Đới Bỉnh Quốc và Phạm Gia Khiêm, Phó thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao VC, chứng kiến lễ ký giao ước thiết lập đường dây điện thoại nóng giữa lãnh đạo cao cấp hai nước.

Đứng trước nạn cướp bóc Nhân dân và Dân tộc này, có những con người anh dũng đã lên tiếng, nổi bật nhất trong đó là Khối 8406 (sắp kỷ niệm 3 năm ngày thành lập) và Hòa thượng Quảng Độ, người vừa ra lời kêu gọi Đồng bào các giới trong nước bất tuân dân sự, biểu tình tại gia suốt tháng 5 để yêu sách bãi bỏ khai thác quặng bô-xít Tây Nguyên gây đại nạn sinh thái và an ninh quốc phòng (30-3-2009). Toàn dân còn đợi gì mà không cùng đứng lên với họ?


BAN BIÊN TẬP

TRƯƠNG NHÂN TUẤN GÓP Ý VỀ GIẢI PHÁP BIỂN ĐÔNG

Góp ý cùng ông Phạm Quang Tuấn về vấn đề ông Dương Danh Huy và giải pháp Biển Đông

Trương Nhân Tuấn

01/04/2009 4:16 sáng

http://www.talawas.org/?p=1944

Ông Phạm Quang Tuấn vừa lên tiếng bênh vực ông Dương Danh Huy trên talawas qua bài viết «Giải pháp Biển Đông của Dương Danh Huy và Quỹ Nghiên cứu Biển Đông». Ông này cho rằng tôi đã «kịch liệt công kích đề nghị (để giải quyết vấn đề Biển Đông) của Dương Danh Huy, thậm chí bảo ông này là tay sai của chính quyền, sửa soạn dư luận để đem Trường Sa và Hoàng Sa cúng cho Trung Quốc.»

1. Về đề nghị giải quyết vấn đề Biển Đông

Trong bài viết của tôi về «Chủ quyền của Việt Nam tại bãi Tu Chính - Vũng Mây và vùng trũng Nam Côn Sơn» không có dòng nào phê bình «đề nghị giải quyết vấn đề Biển Đông» của ông Dương Danh Huy. Thật ra «giải pháp Biển Đông» của ông Huy tôi đã phê bình rồi, đó là bài «Bàn lại cùng TS Dương Danh Huy về giải pháp cho tranh chấp Biển Đông», đăng ngày 16-9-2008 trên trang web Thông Luận.

Tôi không nghĩ là ông Phạm Quang Tuấn đã không đọc bài tôi một cách kỹ lưỡng. Nhận thấy ông đã rất tỉ mỉ, chỉ trích đến cả những chi tiết nhỏ trong bài. Nhưng có lẽ do lý do kỹ thuật, ông chuyển qua vấn đề «đề nghị giải quyết tranh chấp Biển Đông», chủ quan giải thích nó, đồng thời phê bình tôi nặng nề trên nội dung đó.

«Giải quyết tranh chấp Biển Đông» là một chủ đề rất lớn ở bình diện quốc gia, công trình nghiên cứu mấy mươi năm qua của các học giả Việt Nam là để gầy dựng lên nó. Nội dung vấn đề, theo cái nhìn của cá nhân, là có ba phần chính: lịch sử, quốc tế công pháp và địa lý chiến lược. Phác họa sơ lược vấn đề là một việc khó, giải thích và phê bình vấn đề do đó không hề là một việc đơn giản.

Như đã ghi trên, chủ đề này tôi đã viết rồi, tuy nhiên tác giả Phạm Quang Tuấn muốn thảo luận lại, tôi không thể không sẵn lòng trao đổi thêm cùng ông vài ý kiến.

Về «giải pháp Biển Đông» của ông Huy, đáng lẽ phải gọi lại cho đúng là «giải pháp Biển Đông» của Mark Valencia, là một vụ «cầm nhầm» thật đáng tiếc.

Ý kiến của ông Huy, trích trong bài của ông Phạm Quang Tuấn, thực ra được viết lại từ bài “Thử tìm giải pháp cho Biển Đông» (BBC ngày 18-8-2008). Ý kiến này trùng hợp với một trong nhiều đề xuất giải quyết vấn đề tranh chấp Biển Đông của học giả Mark Valencia công bố từ nhiều năm trước.

*

Bản đồ của Dương Danh Huy

http://www.talawas.org/wp-content/uploads//2009/04/ban-do-cua-duong-danh-huy-271x300.jpg

Bản đồ của Mark Valencia

http://www.talawas.org/wp-content/uploads//2009/04/ban-do-cua-mark-valencia-229x300.jpg

*

So sánh, ta thấy gì? Nếu loại bỏ màu trên tấm bản đồ Valencia và vẽ thêm những vòng tròn «12 hải lý» trên các đảo thuộc HS và TS thì bản đồ của ông Valencia thành bản đồ của ông Huy. Quan trọng hơn cả là nội dung ghi chú phía dưới tấm bản đồ Valencia: “Allocation of the entire South China Sea using lines equidistant from defensible baselines, ignoring both the Spratlys and the Paracels». Tạm dịch là: phân chia Biển Đông theo đường trung tuyến, tính từ đường cơ bản hợp lý, không tính hiệu lực các đảo HS&TS.

Do đó «giải pháp Biển Đông» của ông Dương Danh Huy thực ra là «giải pháp» của ông Mark Valencia. Không một người Việt Nam nào có thể mạo hiểm trình bày một giải pháp thiệt hại cho nước mình như thế. Cốt lõi của giải pháp này là «tạm gác chủ quyền các đảo sang một bên» và phân chia hải phận theo đường trung tuyến.

Ta thấy các đảo đang trong vòng tranh chấp thuộc HS và TS đều thuộc về Việt Nam và Việt Nam có đủ bằng chứng lịch sử và pháp lý để chứng minh chủ quyền của mình. Mã Lai chiếm đảo của Việt Nam trong thập niên 80. Phi chiếm một số đảo của Việt Nam thập niên 70. Trung Quốc chiếm các đảo của Việt Nam thập niên 40, 70 và 80.

Phía duy nhất bị thiệt hại trong việc «tạm gác» này đương nhiên là Việt Nam. Phe có lợi nhất là Phi Luật Tân. Những đảo của Việt Nam gần với bờ với Phi, vì lo sợ thiệt hại do việc phân định hải phận với các đảo này, ông Mark Valencia đề nghị một loạt các giải pháp, nhưng giải pháp nào cũng có lợi cho Phi, vì ông ta là người Phi.

Điểm thiếu sót của giải pháp này là vấn đề lịch sử. Phía Phi Luật Tân không có lịch sử về HS và TS, nhưng họ có tham vọng lớn ở các đảo đó, do đó họ chủ trương đi tắt, đặt nặng giải pháp ngoại giao, loại bỏ giải pháp pháp lý, tìm cách phân chia hải phận Biển Đông và bỏ qua một bên vấn đề tranh chấp chủ quyền các đảo.

Phía Việt Nam, đương nhiên thế mạnh là lịch sử và pháp lý. Thực ra trong việc giải quyết tranh chấp chủ quyền bằng pháp lý, lịch sử có vai trò chính. Lịch sử là các bằng chứng chứng minh chủ quyền của quốc gia. Trên phương diện đó Việt Nam có đủ lý lẽ mà không bên nào có thể phản biện, (trong khi Phi không có, hay có với những bằng chứng gượng ép).

Về phía Trung Quốc, họ cũng không hề có lịch sử chủ quyền tại HS và TS. Hồ sơ của họ về HS và TS phần lớn là bịa đặt, không có căn bản. Họ chỉ lên tiếng đòi hỏi HS từ năm 1909; về TS thì rất lâu sau này. Nhưng Trung Quốc có sức mạnh và mưu lược. Nhờ mưu lược họ đã lập được một hồ sơ vững chắc về chủ quyền của Trung Quốc tại HS và TS từ năm 1958. Hồ sơ này đến từ phía Việt Nam, quan trọng là công hàm này 14 tháng 9 năm 1958 của ông Phạm Văn Đồng. Do đó điểm mạnh của Trung Quốc cũng là lịch sử và pháp lý. Trội hơn Việt Nam và các nước tranh chấp khác trong vùng, Trung Quốc còn có thêm sức mạnh và mưu lược ngoại giao. Tuy nhiên điểm yếu của Trung Quốc cũng là hồ sơ lịch sử, Trung Quốc biết rõ điểm này, vì công hàm của ông Đồng không chắc chắn có giá trị về mặt pháp lý nếu phía Việt Nam biết hóa giải nó. Tôi sẽ trở lại nội dung công hàm này ở phần dưới.

Do đó đề nghị «giải quyết vấn đề Biển Đông» của ông Dương Danh Huy, thực ra là của ông Mark Valencia, sau này được bổ túc thêm một số ý kiến mới, nội dung không hề bênh vực quyền lợi của Việt Nam, mà chỉ nhằm giúp nhà cầm quyền Việt Nam thoát khỏi việc đối diện với lịch sử. Vì nếu vấn đề chủ quyền HS và TS được giải quyết bằng một trọng tài quốc tế, nhà nước CSVN phải trả lời về công hàm của ông Phạm Văn Đồng.

Ông Phạm Quang Tuấn viết thế này: «Xin để ý là nhóm Dương Danh Huy không hề nói là đem Hoàng Sa, Trường Sa ‘dâng’ cho Trung Quốc hay ai khác cả như Trương Nhân Tuấn đã viết. Trái lại, họ luôn luôn nhấn mạnh là Việt Nam vẫn phải bảo vệ chủ quyền ở Trường Sa, Hoàng Sa [1], chỉ nói là việc phân chia Biển Đông cần làm trước hoặc làm song song.»

Đúng vậy, trong bài «Giải pháp Biển Đông», ông Huy không dọn sân để nhà nước CSVN cống HS và TS cho Trung Quốc, mà ở đây ông Huy chỉ nhiễm phải «bùa» Mark Valencia, chỉ dọn sân cho Phi Luật Tân vào hưởng các đảo TS của Việt Nam (và hải phận phải có của chúng). Nhưng trong bài «Chủ quyền của Việt Nam tại bãi Tu Chính - Vũng Mây và vùng trũng Nam Côn Sơn» mà ông Phạm Quang Tuấn vì lý do kỹ thuật nên không nói tới, ông Huy rõ ràng dọn sân cho nhà nước cống TS cho Tàu. Đáng tiếc, do lý do kỹ thuật nơi Phạm Quang Tuấn, chủ đề này không bàn luận rộng ra được ở đây.

2. Cái nhìn địa lý chính trị

Ông Phạm Quang Tuấn viết thế này: «Chỉ trong vòng 30 năm nữa, Trung Quốc sẽ trở thành siêu cường, kể cả trên mặt biển»… «Đánh nhau trên biển không phải như trên đất liền mà có thể dùng ‘tiêu thổ kháng chiến’, ‘du kích chiến’, ‘đường mòn Hồ Chí Minh’, ‘địa đạo Củ Chi’, ‘bẫy cọp’ hay chỉ dựa vào lòng yêu nước và can đảm hy sinh…» «30 năm nữa, ngay cả Mỹ cũng sẽ không còn đủ sức và nhất là đủ ý chí để đè nén tham vọng của Trung Quốc ở Biển Đông»… «Vì vậy, dùng sức mạnh đối với Trung Quốc hay ỷ vào sức mạnh của Mỹ để đòi lại Hoàng Sa và chiếm lại hết Trường Sa là điều hoàn toàn không tưởng đối với Việt Nam, và mỗi năm lại càng thêm không tưởng. Việt Nam chỉ có thể dùng luật pháp và ngoại giao, và đó là giải pháp của Dương Danh Huy đề nghị.»

Lý luận này không khác lý luận của ông Dương Danh Huy khi so sánh Việt Nam với Gruzia trong bài dẫn trên. Tôi nghĩ các lý luận này phản ảnh tâm trạng sợ sệt, như tâm trạng của nhà nước CSVN hiện nay, nhưng nó không có căn cứ. Lối phân tích vấn đề Trung Quốc của ông Phạm Quang Tuấn rất phiến diện và sai lầm. Ông chỉ thấy bề mặt mà không thấy bề trong, bề sâu, tức về những mâu thuẫn nội tại, những bất an của xã hội Trung Quốc. Trung Quốc có quá nhiều yếu điểm để có thể sụp đổ một cách bất ngờ. Các vấn đề này không thể chỉ nói suông mà cần có luận cứ, dữ kiện xác đáng, không thể viết trong bài này. Tôi chỉ đặt một câu hỏi để suy nghĩ: Trung Quốc sẽ ra sao sau cuộc khủng hoảng kinh tế hiện nay?

Và đương nhiên không ai ngu xuẩn đề nghị một phương pháp đương đầu với Trung Quốc, nhưng cho kẻ thù thấy mình khiếp nhược là một việc phải tránh bằng mọi cách.

Ông Phạm Quang Tuấn đề nghị sử dụng giải pháp của ông Huy, dùng «luật pháp và ngoại giao», để giải quyết tranh chấp.

Ông Tuấn tưởng như chỉ có ông Huy mới có giải pháp giải quyết bằng ngoại giao và pháp lý. Vấn đề là giải quyết thế nào để Việt Nam có lợi, hay ít ra, không bị mất mát?

Giải pháp của ông Huy, theo đó luật pháp không phải để giải quyết chủ quyền HS và TS thuộc về ai, ngoại giao không phải vận động đưa vấn đề tranh chấp ra một trọng tài quốc tế phân xử, mà luật pháp ở đây là diễn giải luật biển theo lối không có lợi cho Việt Nam và ngoại giao ở đây là bỏ qua một bên các việc tranh chấp, cũng không hề có lợi cho Việt Nam.

Trong khi đó, theo lý luận thuần lý, muốn giải quyết vấn đề Biển Đông, tức phân chia hải phận Biển Đông, trước tiên phải giải quyết chủ quyền HS và TS, vì theo luật biển các đảo ở đây cũng có hải phận riêng của nó. Không thể phân định hải phận Biển Đông nếu không giải quyết vấn đề chủ quyền HS và TS.

Chỉ có giải pháp này, Việt Nam mới bảo toàn được quyền lợi của mình. Đây là chủ trương của tôi cũng như nhiều học giả khác của Việt Nam và quốc tế.

Nhưng tại sao Việt Nam không chọn đường lối đó? Như đã nói, rất có thể nhà nước CSVN sẽ chọn lối giải quyết của ông Huy (?) mà ông Tuấn đang bênh vực và bảo vệ, là để tránh đối diện với công hàm của ông Đồng. Công hàm của ông Đồng là một vấn đề đạo đức, đối diện với nó là đặt lại tính chính thống và tư cách lãnh đạo của Đảng CSVN. Do đó họ phải tránh, phải chọn giải pháp khác, cho dầu giải pháp đó làm thiệt hại cho quyền lợi của Việt Nam.

Đảng CSVN đặt quyền lợi đảng phái, cá nhân trên quyền lợi đất nước. Để giảm thiểu mất mát, họ chủ trương các đảo HS và TS chỉ có 12 hải lý lãnh hải mà không có ZEE 200 hải lý.

Tôi đã kết luận trong bài của tôi: Rõ ràng nhà nước CSVN muốn «buông» ở HS&TS. Các bài viết của ông Huy nhằm mục đích dọn sân để nhà nước CSVN làm việc đó. Đây là một hình thức cống HS và TS cho Tàu. Kết luận này dĩ nhiên đã được chứng minh rõ rệt.

3. Về công hàm của ông Phạm Văn Đồng

Ông Phạm Quang Tuấn viết thế này: «ông này (tức là tôi, Trương Nhân Tuấn) nhắc đến Phạm Văn Đồng ít nhất là TÁM lần trong bài và câu kết thúc cũng là nói về cái công hàm ‘mắc dịch’ đó, dường như mối lo chính của ông là sợ người đọc quên cái tội của Phạm Văn Đồng».

Thật là đúng như vậy, bài này tôi cũng nhắc đi nhắc lại không ít hơn bài trước, vì tôi thấy các học giả Việt Nam, mọi người đã quên chi-tiết-cơ-bản-giải-quyết-mọi-vấn-đề-tranh-chấp này, do đó bất đắc dĩ tôi phải nhắc đi nhắc lại. Nhưng tôi không hề có mục đích muốn mọi người «luận tội» ông Phạm Văn Đồng như ông Phạm Quang Tuấn đã viết. Nếu có luận tội thì tôi không luận tội ông Đồng. Ông chỉ là người thừa hành của ông Hồ Chí Minh. Người cần phải luận tội là ông Hồ. Tôi nghĩ sớm muộn sẽ có người làm công việc đó để trả lại sự thật cho lịch sử.

Công hàm của ông Phạm Văn Đồng là một vấn đề pháp lý. Giải quyết nó là giải quyết mọi vấn đề tranh chấp. Như đã nói, hồ sơ pháp lý của Trung Quốc chỉ dựa trên bằng chứng này. Trung Quốc xâm lăng quần đảo HS hay cưỡng chiếm một số đảo TS trong quá khứ đều đứng dưới lý do «giải phóng», lấy lại chủ quyền HS và TS về đất mẹ. Tương lai họ sẽ lặp lại việc này tại các đảo TS còn lại cũng trên lý lẽ đó. Do đó phải vô hiệu hóa công hàm này càng sớm càng tốt. Nhưng hóa giải công hàm này bằng cách nào?

Vì thế sẽ rất cần thiết để nói vài dòng về hiệu lực pháp lý của công hàm này sau đó mới có thể bàn luận việc vô hiệu hóa nó.

Công bố của Trung Quốc về lãnh hải ngày 4 tháng 9 năm 1958 gồm 4 điều, nội dung phần quan trọng tóm lược như sau:

Điều 1: Lãnh hải của Trung Quốc rộng 12 hải lý. Điều này áp dụng trên toàn bộ lãnh thổ Trung Quốc, các hải đảo Đài Loan và các đảo phụ thuộc, đảo Bành Hồ và các đảo phụ thuộc, quần đảo Đông Sa, quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa), quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa (Trường Sa)… Điều 3: Tất cả phi cơ, thuyền bè không được phép của Trung Quốc thì không được xâm phạm vào không và hải phận của Trung Quốc. Điều 4: Nguyên tắc qui định ở điều 3 (và 2) được áp dụng cho cả HS và TS.

Ngày 14 tháng 9 năm 1958 Thủ tướng Phạm Văn Đồng gởi công hàm công nhận công bố về lãnh hải của Trung Quốc, nguyên văn như sau:

Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa quyết định về hải phận của Trung Quốc.

Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc, trong mọi quan hệ với nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa trên mặt bể.

Điều không thể không nhắc là trước đó, năm 1956, ông Ung Văn Khiêm, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao, nhân tiếp phái đoàn ngoại giao Trung Quốc, có tuyên bố với Li Zhimin, tham tán sứ quán Trung Quốc tại Việt Nam: chiếu theo tài liệu Việt Nam thì HS và TS thuộc về Trung Quốc. Ông Lê Lộc, Chủ tịch châu Á Sự vụ, nhân có mặt cũng nói vào: Theo sử liệu Việt Nam thì HS và TS thuộc Trung Quốc từ thời nhà Tống. Sự việc này tạp chí Beijing Review ngày 18 tháng Hai năm 1980 đã có đăng lại trong bài «Chủ quyền không thể tranh cãi của Trung Quốc trên các đảo Tây Sa và Nam Sa».

Năm 1977 cựu Thủ tướng Phạm Văn Đồng giải thích quan điểm của ông về công hàm này như sau: «đó là thời chiến nên phải nói như vậy thôi».

Sau đó ông Nguyễn Mạnh Cầm, nguyên Bộ trưởng Bộ Ngoại giao, trong một cuộc họp báo tại Hà Nội ngày 2 tháng 12 năm 1992 nói như sau:

«Các nhà lãnh đạo của ta lúc trước xác nhận về Hoàng Sa và Trường Sa như vậy là do theo Hiệp định Genève năm 1954 về vấn đề Đông Dương thì tất cả lãnh thổ từ vĩ tuyến thứ 17 trở vào Nam là thuộc chính quyền miền Nam, kể cả hai quần đảo này.

Thêm vào đó, vào lúc ấy Việt Nam phải tập trung hết mọi lực lượng vào cuộc chiến chống Mỹ nên cần bạn bè khắp nơi. Tình hữu nghị Việt-Trung đang thắm thiết và hai nước hoàn toàn tin cậy lẫn nhau. Việt Nam xem Trung Quốc là một nguồn hỗ trợ to lớn và giá trị.

Trong tinh thần đấy thì do tình thế cấp bách, quan điểm của lãnh đạo ta (tức ủng hộ Trung Quốc công bố chủ quyền của họ trên các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa) là cần thiết vì nó phục vụ cho cuộc chiến bảo vệ tổ quốc.

Đặc biệt, việc này còn nhắm vào nhu cầu cấp thiết lúc đó là ngăn ngừa đế quốc Mỹ không sử dụng các quần đảo đó để tấn công chúng ta. Việc lãnh đạo ta tạm công nhận như thế với Trung Quốc không có can hệ gì đến chủ quyền lịch sử và pháp lý của Việt Nam trên các quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa cả».

(Thông tấn xã Việt Nam ghi lại và đăng ngày 3 tháng 12 năm 1992.)

Ý của ông Cầm là vì HS và TS lúc đó thuộc quyền quản lý của Việt Nam Cộng hòa (VNCH) nên việc công nhận như thế chỉ là «tạm công nhận», không quan hệ gì đến «chủ quyền lịch sử và pháp lý của Việt Nam».

Nhưng một công hàm quốc gia đâu thể nào công nhận «vào thời chiến» và không công nhận vào thời khác, nói như ông Đồng, hay «tạm công nhận» như ông Cầm như thế được?

Công hàm của ông Phạm Văn Đồng là văn bản có tầm quan trọng ở mức quốc gia. Quốc gia có tên gọi là Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (sau đây viết tắt là VNDCCH) (gián tiếp) công nhận chủ quyền HS và TS thuộc về quốc gia có tên gọi Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Nội dung công hàm này không thể thay đổi theo thời gian hay thay đổi theo tình trạng chính trị. Lời nói chữa lại của ông Đồng hay của ông Cầm là những lời tráo trở, chỉ làm cho cái chế độ gọi là VNDCCH, sau đó là Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (sau đây viết tắt là CHXHCHVN), thêm xấu hổ chứ không hề có giá trị phủ nhận công hàm ghi trên.

Công hàm của ông Đồng có hai ý nghĩa:

1/ công nhận chủ quyền của Trung Quốc tại HS và TS.

2/ Phủ nhận chủ quyền của VNDCCH tại HS và TS.

Nhưng dầu vậy, ta có thể hóa giải công hàm này qua một số thủ tục cần thiết.

*

Bà Monique Chemillier-Gendreau, tác giả cuốn La Souveraineté sur les Archipels Paracels et Spratleys có cho rằng công hàm của ông Đồng không có giá trị pháp lý vì lý do «người ta không thể cho cái mà người ta không có». Ý kiến này dựa trên tinh thần Hiệp định Genève, ông Nguyễn Mạnh Cầm có nhắc lại. Hai quần đảo HS và TS trong giai đoạn 1954-1975 thuộc quyền quản lý của Việt Nam Cộng hoà (sau đây viết tắt là VNCH). VNDCCH không có thẩm quyền gì ở HS và TS nên tuyên bố của ông Đồng không có giá trị.

Một vài nhà nghiên cứu Việt Nam dựa trên thuyết này (estoppel) để khai triển thêm, chứng minh công hàm của ông Đồng không có giá trị về chủ quyền của Trung Quốc ở HS và TS.

Như thế, theo thuyết này công hàm của ông Đồng không có giá trị, Trung Quốc không có chủ quyền tại HS và TS.

Nhưng chủ quyền của VNDCCH có được xác lập tại nơi đây hay chưa? Không có gì chắc chắn hết.

*

Bà M. Chemillier-Gendreau dựa trên thuyết «liên tục quốc gia» để cho rằng VNDCCH có thể kế thừa VNCH để có quyền chủ quyền tại HS và TS.

Nhà nước VNCH, tiếp nối nhà nước thực dân Pháp, vốn là đại diện triều đình nhà Nguyễn, quản lý liên tục và khai thác HS và TS. Như thế chủ quyền của Việt Nam tại HS và TS liên tục từ nhiều thế kỷ, từ chúa Nguyễn, Tây Sơn, nhà Nguyễn, thực dân Pháp cho đến thời VNCH. Sau 1975, chính phủ lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam (sau đây viết tắt là CPLTCHMNVN) chưa bao giờ tuyên bố HS và TS thuộc về Trung Quốc.

Như thế, sau khi hiệp thuơng thống nhất đất nước 1976, CHXHCNVN có thể lựa chọn lập trường của VNCH và CPLTCHMNVN để khẳng định chủ quyền của Việt Nam tại HS và TS.

Nhưng hiện nay người ta đều biết Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam (sau đây viết tắt là MTDTGPMN) chỉ là con bài do Đảng CSVN lập ra. Và cách hành xử của Đảng CSVN cho thấy chế độ VNDCCH phủ nhận chế độ VNVH, xem thực thể chính trị này là «ngụy», tức là cái giả, cái không có.

Sau ngày 30-4-1975 không hề có một buổi lễ bàn giao chính quyền giữa VNCH và VNDCCH hay với MTDTGPMN. Thực thể chính trị VNCH bị mất đi và di sản của nó bị tước đoạt, nếu không nói là bị đánh cướp (dùng chữ của CSVN: cướp chính quyền). Quân nhân, công chức… phục vụ cho chính quyền này bị gọi là «giặc», «giặc ngụy»; dân chúng cũng bị nghi ngờ, xếp vào thành phần «phản động», «ngụy dân».

Không có bàn giao quyền lực thì làm sao có kế thừa?

Gọi VNCH là «ngụy», tức là giả, không phải là một thực thể chính trị, thì không thể có việc kế thừa. Không thể kế thừa một cái gì đó không có thật (ngụy).

Như thế chế độ CHXHCNVN là tiếp nối đương nhiên của VNDCCH và phủ nhận VNCH.

Nội dung công hàm và lời nói chữa lại của ông Đồng và ông Cầm càng khẳng định thêm VNDCCH đã phủ nhận chủ quyền tại HS và TS.

Như thế lý thuyết «kế thừa» của bà Monique Chemillier-Gendreau đề nghị thì không thể áp dụng cho Việt Nam trong tình huống như thế.

4. Phương pháp hóa giải công hàm của Phạm Văn Đồng

Ở điểm này chắc chắn cần nhiều thảo luận. Có thể có nhiều phương pháp để hóa giải nếu việc thảo luận được đến nơi đến chốn. Diễn đàn talawas sẽ là một nơi lý tưởng để làm các việc này. Tôi hy vọng được sự góp ý của các học giả trong nước.

Về cá nhân, tôi cũng có một phương pháp đề nghị. Không có việc gì mà không có phương cách cứu vãn. Cho dầu đến hôm nay, sau hơn 33 năm, việc kế thừa vẫn chưa muộn, nếu lãnh đạo CSVN muốn làm việc này.

Thủ tục kế thừa: thông qua chính sách hòa giải dân tộc.

Nhà nước CSVN bỏ tên nước, đặt lại tên nước, thí dụ: Cộng hòa Việt Nam, thay đổi quốc kỳ, quốc ca, hiến pháp… thay đổi tất cả những gì dính líu đến VNDCCH và CHXHCNVN để lập một nền cộng hòa mới, tổ chức bầu cử tự do, lập chính quyền thực sự của dân, do dân và vì dân; đoạn tuyệt với quá khứ sai lầm của VNDCCH.

Nhà nước mới, trên nền tảng dân chủ, thảo luận về một bộ luật «hòa giải dân tộc», trong đó qui định phương cách phục hồi danh dự cũng như việc đền bồi xứng đáng cho các thành phần quân nhân công chức VNCH nạn nhân của chính sách học tập cải tạo. Lập ra điều luật cấm sử dụng tiếng «ngụy» đối với những người thuộc chế độ cũ. Đền bồi cho các nạn nhân do cải tạo công thuơng nghiệp, đánh tư sản mại bản, kinh tế mới; làm luật phục hồi danh dự (cho người quá vãng) và đền bồi tương xứng cho nạn nhân của cộng sản như vụ Cải cách Ruộng đất, Nhân văn - Giai phẩm, vụ án «xét lại chống Đảng» v.v… Nếu những người này đã mất thì đền bồi cho con cháu của họ. Cho tu bổ các nghĩa trang liệt sĩ, không phân biệt Nam Bắc, dân tộc Kinh, Thuợng, không phân biệt cuộc chiến 1975, 1979 hay cuộc chiến với Campuchia v.v…

Đứng trên quan điểm đó, một nước Việt Nam mới, dân chủ, hoàn toàn đủ tư cách và tính chính thống, long trọng tuyên bố trước cộng đồng thế giới kế thừa di sản VNCH. Trên căn bản như thế Việt Nam đương nhiên có chủ quyền tại HS và TS, như VNCH, từ đó làm căn bản giải quyết các tranh chấp chủ quyền HS và TS bằng một trọng tài quốc tế, sau đó phân định hải phận Biển Đông với các nước khác.

Trên tinh thần đó, với sự hưởng ứng của toàn khối dân tộc, Việt Nam sẽ đứng ở thế mạnh, hay ở thế không ai có thể bắt nạt, toàn dân một lòng chắc chắn đủ khả năng để tự bảo vệ lãnh thổ và lãnh hải của tổ tiên để lại.

5. Về các chi tiết lặt vặt

*

5.1 Đá Rockall: tôi viết sai chính tả, nhưng không phải vì không biết, mà tôi viết theo cách viết của hồ sơ Bộ Ngoại giao Việt Nam phát hành 2002. (Kiểm chứng ở Sổ tay pháp lý cho người đi biển do Tuần Việt Nam tóm lược và đăng tải 16-03-2009. Sách do Bộ Ngoại giao, Ban Biên giới Chính phủ và NXB Chính trị Quốc gia phát hành, năm 2002.

Ông Phạm Quang Tuấn viết rằng: «trong khi thực ra Anh đã chính thức rút lại đòi hỏi này từ năm 1997 để tuân thủ Luật Biển». Sai!

Ông Phạm Quang Tuấn không nắm vững hết các vấn đề của đảo này. Ông trích dẫn thiếu câu văn của tôi, làm sai ý nghĩa của nó: “Anh vẫn giữ nguyên tuyên bố 200 hải lý quyền khai thác”.

Thực ra nguyên văn là: «Mặc dầu hiện nay Anh đã rút lại đòi hỏi về hải phận ZEE nhưng về thềm lục địa họ vẫn giữ nguyên tuyên bố 200 hải lý quyền khai thác». Tức là về ZEE của Rockall thì Anh rút lại đòi hỏi, nhưng về thềm lục địa 200 hải lý thì họ vẫn giữ nguyên hồ sơ. Như thế tiền lệ này ủng hộ tôi hay ông Huy? Điểm này cho thấy sẽ cực kỳ nguy hiểm nếu lý luận rằng các đảo HS và TS là các đảo nhỏ, không có hiệu lực v.v…

*

5.2. Về ExxonMobil, ông Phạm Quang Tuấn viết như sau:

«Những người quen thuộc với UNCLOS và tình hình Biển Đông cũng sẽ thấy ngay một số điểm sai quan trọng trong những luận cứ của Trương Nhân Tuấn. Chẳng hạn, ông Tuấn nói rằng Exxon Mobil rời bỏ Việt Nam vì áp lực của Trung Quốc, một việc chưa hề xảy ra (Exxon Mobil quả đã bị áp lực trong năm 2008 nhưng đã tuyên bố là không rời bỏ hợp đồng khai thác với Việt Nam).»

Ông Phạm Quang Tuấn chỉ nhắc đến «điểm sai quan trọng» là trường hợp Exxon-Mobil mà bỏ qua điểm đúng quan trọng khác là việc BP cuốn gói.

Nhưng quả thật là ExxonMobil không rút lui hay họ tuyên bố làm cứng để giữ thể diện? Thực tế hôm nay là họ đã không còn bất kỳ hoạt động nào tại Tu Chính - Vũng Mây. BP trước khi hủy bỏ hợp đồng trong tuần qua cũng ngưng khảo cứu như thế hồi tháng 6 năm 2007. Ông PQ Tuấn viết như để phản công, nhưng thâm tâm là tự an ủi mình, dầu sao cũng còn một tia hy vọng. Nhưng hy vọng khi nào sẽ trở thành hiện thực? Ngồi chờ nhà nước CSVN? Chờ họ là chờ ngày ExxonMobil tuyên bố hủy bỏ hợp đồng.

*

5.3. Về vấn đề vùng nước giữa quần đảo, ông Phạm Quang Tuấn viết:

«Trương Nhân Tuấn còn viết rằng ‘nước nào có chủ quyền ở [Trường Sa] (và Hoàng Sa) đương nhiên chiếm lĩnh cả Biển Đông, vì biển giữa quần đảo được coi là nội hải’. Hoàn toàn sai, 100%! Thực ra, điều khoản ‘nội hải’ này của UNCLOS chỉ áp dụng cho các quốc gia quần đảo (archipelagic states) như Philippines, Indonesia, chứ không áp dụng cho những quần đảo không phải là quốc gia, như Trường Sa. Tôi cho rằng đây là một sự cố ý ngụy biện chứ không phải là không biết, vì ngay sau đó thì Trương Nhân Tuấn đã viết nguyên si thành ngữ ‘quốc gia quần đảo’ trong UNCLOS: ‘Theo Luật Biển 1982: Quốc gia quần đảo có chủ quyền với vùng nước, vùng trời và vùng đáy và lòng đất tương ứng cũng như tài nguyên ở đó’. Trương Nhân Tuấn đã đưa ra những lý lẽ ngụy biện, ‘luật rừng’ mà Trung Quốc dùng để bảo vệ lưỡi bò của mình, và bảo đó là luật biển quốc tế!»

Thực ra ông Phạm Quang Tuấn phê phán như thế mới là sai 100%, vì ông không nắm vững các điều cơ bản của Luật Biển.

Theo định nghĩa của Luật Biển 1982, vùng nước quần đảo được xác định như sau: Vùng nước quần đảo là vùng nước nằm phía bên trong của đường cơ sở quần đảo. Vùng nước này không phải là nội thủy nhưng quốc gia quần đảo có chủ quyền với vùng nước, vùng trời và vùng đáy và lòng đất tương ứng cũng như tài nguyên ở đó.

(Xem http://tuanvietnam.net/vn/nghexemdoc/sachhaynendoc/6399/index.aspx)

Như vậy, vùng nước quần đảo có quy chế pháp lý gần giống với nội thủy, chỉ trừ quy chế qua lại không gây hại.

Như thế khi tôi nói nước nào làm chủ HS và TS là làm chủ cả Biển Đông sai hay sao?

Mặt khác, tôi viết nguyên văn như sau: «vì biển giữa quần đảo được xem gần như là nội hải». Tôi viết «gần» như nội hải chứ không hề viết là «nội hải» như ông Phạm Quang Tuấn gán vào cho tôi.

Tôi thấy ở đây ông Phạm Quang Tuấn đã phạm một điều rất cấm kỵ của học thuật, là phê bình đến mức phỉ báng người khác trên những bằng chứng do mình bịa ra.

*

5.4 Về các Atlas, ông Phạm Quang Tuấn viết: «Còn nhiều chi tiết sai bậy hay thổi phồng khác, như: ‘Hầu hết các Atlas nước ngoài đều ghi nhận công hàm năm 1958 của ông Phạm Văn Đồng đã công nhận HS và TS thuộc chủ quyền của Tàu’. Atlas thường đâu có ghi nhận những công hàm như vậy?»

Ông Phạm Quang Tuấn cho tôi viết «sai bậy». Ông viết: «Atlas thường đâu có ghi nhận những công hàm như vậy».

Theo tôi đây mới là cái sai bậy của người nghiên cứu khoa học. Ông Phạm Quang Tuấn đã không đi kiểm chứng, tìm và đưa một vài trường hợp các Atlas năm 2008 của các nước lớn không có ghi nhận như vậy để phản biện, sau đó lên tiếng phê bình.

Đây là một lối làm việc nguy hiểm, trước hết không kiểm chứng dữ kiện, sau là phản đối trên cảm tính chứ không dựa trên các nguồn dữ kiện khác, phản khoa học.

Tôi thì nhờ kiểm chứng tôi mới biết ông Huy đã đưa bằng chứng sai trong bài «Chủ quyền Tu Chính -Vũng Mây».

Cá nhân tôi thỉnh thoảng đi các thư viện, các văn khố nước Pháp để làm nghiên cứu. Tôi đọc và ghi nhớ, sau đó ghi lại một vài dữ kiện, khi có dịp thì nói ra.

Ông Tuấn không tin là quyền của ông nhưng ông không được quyền phỉ báng người khác là sai, bậy. Ở đây tôi không có nhu cầu phải làm photo những trang Atlas có ghi nhận công hàm của ông Đồng để chứng minh mình đúng hay sai. Tôi chỉ đưa tên Atlas quan trọng, nên ghi nhớ, trang số mấy, năm nào, nhà xuất bản là đủ.

6. Cuối cùng, tôi chỉ muốn khẳng định lại ý kiến của tôi là: Phải giải quyết vấn đề tranh chấp bằng các phương tiện hòa bình, dựa trên pháp lý và ngoại giao.

Nhưng không thể giải quyết vấn đề Biển Đông theo lối để qua một bên tranh chấp chủ quyền HS và TS như ý kiến của ông Mark Valencia mà ông Huy có «mượn» lại. Giải quyết theo lối này Việt Nam hoàn toàn bất lợi.

Về việc đối xử giữa tôi và các học giả nghiên cứu Việt Nam, tôi chưa hề có một thái độ khiếm nhã nào đối với các vị đó. Tất cả hành vi của bất kỳ người nào đem lại ích lợi cho đất nước tôi đều mang ơn. Tuy nhiên, lối phê bình của tôi trong bài vừa qua, thực ra có một mục đích khác, hy vọng sẽ khai thông một vấn đề của Việt Nam mà từ lâu nay bế tắc.

Trường hợp với ông Dương Danh Huy là một ngoại lệ. Tôi thấy ông này thiếu sự trong sáng cần có về học thuật của một nhà nghiên cứu chân chính. Về chủ trương, quan điểm, mỗi người có thể khác nhau. Tôi không chia sẻ chủ trương của ông Huy về Biển Đông, nhưng không hề có thù ghét cá nhân do việc này.

Về thái độ phi khoa học và phỉ báng người khác một cách hồ đồ của ông Phạm Quang Tuấn trong bài này, tôi cũng cho là ông viết bài trong một trạng thái không bình tĩnh, tôi không chấp.

© 2009 Trương Nhân Tuấn

© 2009 talawas blog

CHUYỆN BÔ-XÍT

Chuyện Bauxite: Đừng Lo - Mỹ Đầu Tư 40%, Trung Quốc 20% hay là Hoả Mù?

Đàn Chim Việt

Đăng ngày 31-3-2009

http://danchimviet.com/articles/996/1/Chuyn-Bauxite-ng-Lo---M-u-T-40-Trung-Quc-20-hay-la-Ho-Mu/Page1.html

LTS. Gần đây chuyện nhà nước Việt Nam đang tiến hành cho Trung quốc vào Trung nguyên (Tân Rai, Lâm Đồng, ĐắcNông...) khai thác quặng mỏ Bô-xít, khích động dân tộc thiểu số Tây nguyên (FULRO, Front Unifié De Lutte des Races Opprimeés/United Front for the Struggle of the Oppressed Races) giành lấy chủ quyền, đang là một vấn đề gây nhiều âu lo xóc nổi với nhiều người Việt trong và ngoài nước. Là những người không quên cội nguồn cũng như đất nước và dân tộc Việt của mình, chúng tôi cũng nhiều khi trằn trọc mất ngủ không hiểu tại sao lãnh đạo Cộng sản Việt Nam, từ tổng bí thư đến chủ tịch nước cũng như phe phái, bộ hạ của mình lại có thể ngu xuẩn đánh một nước cờ thí, bán đứng tương lai và sinh mạng của đất nước cùng bao nhiêu thế hệ của người dân để đổi lấy lợi tức cho tập đoàn kinh tế của họ? Cho dù dân tình Việt Nam sẽ chấp nhận và chịu đựng một kiếp nô lệ cho Bắc triều thêm một phen nữa, hiểm họa bệnh tật do ô nhiễm độc hại Bauxite mang lại cho kiếp sống mình và con cháu mình sẽ chẳng có thú vị gì trong cuộc sống đồng hóa, gả bán tài nguyên quốc gia để được làm chư hầu của Trung quốc.

Sau đây để rộng đường dư luận, Đàn Chim Việt xin đơn cử bài của blogger Hà Hiền ở Hải Phòng (đăng trên BBC), một người mà theo thiển ý, cố tình gây hỏa mù, bao che cho ý đồ bán nước của lãnh đạo. Cũng trong ý niệm đó, độc giả sẽ đọc được nhận định rất xác đáng của Nguyễn QuốcTuấn về những lời bào chữa hay thông cáo vô căn cứ trong blog đó cũng như một lá thơ thống thiết khác của nhà báo Lê Phú Khải từ thành phố Sài Gòn.

------------------------------------------------------------------------

Trung Quốc, Mỹ và bauxite ở Tây Nguyên
Hà Hiền
Blogger, Hải Phòng

Truyền thông nhà nước Việt Nam đã loan tin chính phủ Việt Nam cho phép Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam, gọi tắt là TKV, lập công ty cổ phần và giữ 51%, bán ra công chúng 9%, còn lại thì cho nước ngoài tham gia với tỉ lệ không quá 40%.
Dựa vào đó, TKV có thể mời tập đoàn ALCOA của Mỹ góp đến 40% vốn vào dự án Nhân Cơ ở Đắk Nông, và mời tập đoàn luyện kim Vân Nam của Trung Quốc tham gia dự án Tân Rai, Lâm Đồng, với tỉ lệ vốn không quá 20%.
Đã có người để ý hóa ra trong vấn đề khai thác bauxite, không chỉ có công ty Trung Quốc mà cũng có "tư bản" Mỹ nhúng tay vào - trong khi hầu hết ý kiến phản đối đều chỉ nhắm vào đối tượng láng giềng phương Bắc.
Nếu như vậy thì đa số ý kiến, ít nhất là trong cộng đồng mạng, đã "thành kiến" với Trung Quốc rồi.

Thành kiến xác đáng


Nhưng sự thành kiến này có nguyên nhân khách quan và xác đáng của nó.
Đó là đa số người ta không nhìn thấy nguy cơ đe dọa chủ quyền lãnh thổ đến từ Mỹ trong khi nguy cơ này lại luôn lù lù hiển hiện từ ông bạn láng giềng "núi liền núi sông liền sông".
Tất nhiên cũng có một bộ phận người Việt rất ghét Mỹ, nhưng số người Việt vừa ngại vừa không ưa Trung Quốc chắc chắn lớn hơn rất nhiều
Lịch sử quan hệ Việt-Trung từ ngàn đời là lịch sử xâm lược Việt Nam của Trung Quốc và lịch sử chống xâm lược Trung Quốc của Việt Nam, tạo nên vết hằn có tính di truyền trong não bộ của các thế hệ người Việt, làm cho người VN luôn nhìn người Trung Quốc với mối e ngại và thiếu thiện cảm.
Tất nhiên cũng có một bộ phận người Việt rất ghét Mỹ, nhưng số người Việt vừa ngại vừa không ưa Trung Quốc chắc chắn lớn hơn rất nhiều.
Trong lịch sử của quan hệ Việt - Mỹ cũng có chiến tranh, nhưng khách quan mà nói thì đó là cuộc chiến tranh giữa một bộ phận người VN với Mỹ. Và nhiều người cho rằng Mỹ chỉ có tham vọng áp đặt ảnh hưởng chứ chưa bao giờ thể hiện tham vọng chiếm đất, chiếm biển của VN.

Dân trí?

Còn trong các cuộc chiến tranh Việt - Trung, người ta có thể thấy tinh thần chống trả của tất cả mọi người VN, và khối đoàn kết dân tộc trong những trường hợp như vậy luôn luôn tỏ ra mạnh mẽ hơn bao giờ hết.
Phải thừa nhận một sự thật khách quan rằng tham vọng về ảnh hưởng của Mỹ, cụ thể hơn là những chuyện "nhạy cảm" có dính dáng đến những cụm từ "dân chủ" hay "nhân quyền" đang được một bộ phận người Việt Nam coi là nguy cơ sát sườn, nguy cơ số một.
Nhưng cũng phải thừa nhận một sự thật khách quan khác là rất nhiều người, nếu không nói là chiếm số đông hơn so với bộ phận kia, coi tham vọng về lãnh thổ của Trung Quốc mới là nguy cơ hàng đầu.
Liệu đấy có phải là do dân trí của đa số dân VN vẫn còn thấp, hoặc đã đủ cao, để không biết sợ con ngáo ộp có tên là "dân chủ" hay "nhân quyền"?
Hay là do người VN thành kiến với Trung Quốc quá mà quên đi những nguy cơ đến từ nước Mỹ?
Riêng những câu hỏi này thì có lẽ nên dành phần trả lời cho người Trung Quốc hay những người làm công tác "văn hóa tư tưởng" ở VN.

Nguồn: bbc.co.uk Forum

------------------------------------------------------------------------------

Phân tích của Nguyễn Q. Tuấn

"Dựa vào đó, TKV có thể mời tập đoàn ALCOA của Mỹ góp đến 40% vốn vào dự án Nhân Cơ ở Đắk Nông, và mời tập đoàn luyện kim Vân Nam của Trung Quốc tham gia dự án Tân Rai, Lâm Đồng, với tỉ lệ vốn không quá 20%.
Đã có người để ý, hóa ra trong vấn đề khai thác bauxite, không chỉ có công ty Trung Quốc mà cũng có "tư bản" Mỹ nhúng tay vào - trong khi hầu hết ý kiến phản đối đều chỉ nhắm vào đối tượng láng giềng phương Bắc." Trước khi vào vấn đề, tôi muốn nêu lên một chi tiết rất buồn cười là truyền thông nhà nước loan tin trước khi có thông cáo báo chí chính thức - (Press Release) thì làm gì có việc các đài TV/radio thong tin bậy bạ kiểu này. Quả là Đảng Cộng Sản Việt Nam lúc nào cũng là đội ngũ tiền phong trong chuyện tin vịt này (chữ nghiêng Đàn Chim Việt).

1. Bây giờ, xin trở lại vấn đề chính. Xin mời đọc giả đọc lại đoạn đầu tiên của blogger Hà Hiền:

"Truyền thông nhà nước Việt Nam đã loan tin chính phủ Việt Nam cho phép Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam, gọi tắt là TKV, lập công ty cổ phần và giữ 51%, bán ra công chúng 9%, còn lại thì cho nước ngoài tham gia với tỉ lệ không quá 40%.
Dựa vào đó, TKV có thể mời tập đoàn ALCOA của Mỹ góp đến 40% vốn vào dự án Nhân Cơ ở Đắk Nông, và mời tập đoàn luyện kim Vân Nam của Trung Quốc tham gia dự án Tân Rai, Lâm Đồng, với tỉ lệ vốn không quá 20%."
"Dựa vào đó, TKV có thể mời ..." Đặt vấn đề như vậy thì hơi thiếu thực tế, nghe giống như là Công An Cộng Sản Việt Nam "mời" là phải lên trình diện tại sở công an địa phương vậy...
Lúc nào TKV cũng "có quyền" mời, tuy nhiên cứ làm như mời là tập đoàn tư bản Mỹ phải đầu tư đến 40% lập tức. Và tất cả mọi sự việc là do TKV (hay đúng hơn là Đảng Cộng Sản Việt Nam) đứng ra sắp đặt là anh Mỹ phải nghe lời DCVN phải đầu tư 40% vào dự án Nhân Cơ ở Dak Nông và anh Trung Quốc cũng phải nghe lời DCSVN đầu tư 20% vào dự án Tân Rai, Lâm Đồng.
Nếu chẳng may, anh Mỹ thấy cơ hội làm ăn ở Việt Nam rủi ro nhiều (high risk) nên không muốn đầu tư thì Trung quốc vì giá lao động (labor rate) rẻ hơn nên đầu tư luôn vào 2 công trình thì sao? Có phải là dâng toàn bộ 2 dự án vào tay Trung Quốc hay không?
Ngoài ra, bài viết này dùng số phần trăm (%) một cách thiếu dữ kiện định lượng (quantitative inputs). Chỉ nói chung chung 40% và 20% làm cho một số đọc giả không chú ý, đọc lướt qua cứ tưởng Trung Quốc chỉ có 1/2 vốn đầu tư so với Mỹ (như đã trình bày ở trên đây chỉ là bài viết có tính cách hoàn toàn giả thuyết - hypothetically). Muốn so sánh một cách chính xác thì phải nói là dự án nhân Cơ có giá trị đến 400 triệu USD và dự án Tân Rai có giá đi đến 700 triệu USD (thí dụ). Từ đó, người đọc có thể qui ra là số vốn đầu tư đến từ công ty nước ngoài là bao nhiêu - khng nất thiết chỉ có Trung quốc và Mỹ như là tác giả (Hà Hiền) đã lập luận.
Tóm lại, bắt nguồn từ 1 cụm từ "có thể mời", tác giả đã coi như sự việc "đã rồi" (DCSVN mời thì Mỹ và Trung Quốc phải nghe theo) và từ đó đặt luận cứ trên giả thuyết khó có thể xảy ra đó và tiếp tục lý luận chung chung thiếu chỉ số chuần xác.
Ở đoạn cuối tác giả có đưa ra những câu hỏi có chiều hướng so sánh hiểm họa xâm lăng của Trung Quốc và hiểm họa áp đặt ảnh hưởng của Mỹ. Điều này thì thật xác đáng, vấn đề là nhân dân Việt Nam quyết định hay la DCSVN quyết định.

Kết luận: Tôi không dám võ đoán dụng ý của tác giả khi viết bài này. Đáng giá trên nội dung và chất lượng của bài viết, tôi có nhận xét cá nhân như sau. Bài viết này có khả năng đưa đến một hậu quả mà CSVN rất mong muốn, đó là "ĐỪNG LÀM LỚN CHUYỆN BAUXITE TÂY NGUYÊN, ĐỪNG ĐỂ ĐẠI ĐA SỐ QUẦN CHÚNG ĐỨNG LÊN PHẢN KHÁNG DCSVN KHI TẬP ĐOÀN BÁN NƯỚC NÀY LÀM NGƠ ĐẾN HIỂM HỌA XÂM LĂNG CỦA TRUNG CỘNG."

a. Những gì gọi là truyền thông của nhà nước Cộng Sản Việt Nam có đáng tin cậy hay không? Suốt mấy chục năm qua chúng ta đã "nhẹ dạ" tin CSVN bao nhiêu lần? Và chúng ta đã phải trả giá bằng những gì? Nên nhớ đây là thông tin của nhà nước CSVN chứ không phải là của tập đoàn TKV. Lấy một thí dụ điển hình: Tại đất nước Mỹ này, đài CNN, FOX, NBC, v.v.. có thể đăng tin Microsoft sẽ đầu tư 20 tỉ USD (dollars) vào Việt Nam. Nhưng nguồn tin đó có thể không chính xác cho đến khi nào cong ty Microsoft ra thông cáo chính thức (official Press Release). Vì vậy cái gọi là truyền thông của nhà nước Cộng Sản Việt Nam có thể gửi lời cải chính là đã "đưa tin nhầm" không có gì lạ. Qua vụ cướp đất Thái Hà và những việc đàn áp dân oan từ hai năm nay thì chúng ta biết công cụ truyền thông tại Việt Nam đang phục vụ cho quyền lợi DCSVN chứ không phải cho nhân dân hay tổ quốc Việt Nam.

b. "Dựa vào đó.."
Không hiểu câu này nên hiểu thế nào mới đúng. TKV dựa vào thông tin của nhà nước CSVN (CSVN cho phép 40% vốn đầu tư nước ngoài vào TKV) hay là blogger Hà Hiền muốn chúng ta dựa vào bản tin của nhà nước CSVN để tiếp tục đặt vấn đề. Rất tiếc, tôi chưa được đọc bản thông tin của nhà nước CSVN về việc cho phép TKV nhận vốn đầu tư 40%. Thôi thì ai đưa vào cũng được, nội dung chính là 40% đầu tư vào TKV có thể cho nước ngoài vào đầu tư. Blogger Hà Hiền tiếp tục TKV có thể mời... hay là "Chuyện này rất đúng và hoàn toàn chính xác.." và buồn cười. TKV muốn mời tập đoàn đầu tư ngoại quốc nào mà lại không được? Có thể là tư bản Hàn Quốc hay là mấy ông vua dầu hỏa Ả Rập, hay Iran, một nước đang thiếu nhiên liệu trầm trọng. Tại sao lại phải Mỹ? Không hiểu trong bản tin của nhà nước Cộng Sản Việt Nam có viết rõ ràng là mời tập đoàn ALCOA của Mỹ hay không?

c. Cứ cho là CSVN muốn ôm chân Mỹ nên mời tập đoàn ALCOA đi...Nhưng quý vị nào từng đi mời thầu đều biết là mình "mời" nhưng chưa chắc ALCOA đã muốn bỏ vốn đầu tư vì thấy mức dự đoán lợi nhuận không được khả quan cho lắm thì họ vẫn không muốn đầu tư. Bởi vậy việc nói rằng cho Mỹ đầu tư đến 40% không có nghĩa là Mỹ sẽ đầu tư. Ngoài ra việc tập đoàn ALCOA đầu tư vào Việt Nam thì khác hẳn với một công ty luyện kim của Trung Quốc. ALCOA là một hãng độc lập với chính phủ Hoa Kỳ. Trong khi những ngành kỹ nghệ quan trọng của các nước Cộng sản nói chung đều có "đường dây ăn rễ" tới tận chính phủ trung ương. Đây là chỗ khác nhau cần phân biệt.

d. "Trung quốc tham gia dự án Tân Rai, Lâm Đồng, với tỉ lệ vốn không quá 20%". Đến đây thì tôi thật muốn hỏi là blogger Hà Hiền có hiểu một chút căn bản về việc đầu tư và các quy trình của dự án đầu tư ra sao không?

Vì liên hệ trực tiếp đến việc làm, nên tôi đã cơ hội tham gia chuẩn bị trên dước 50 hồ sơ đấu thầu (bids) cho các công ty tại Đông Nam Á (trong đó có 5 công ty Việt Nam). Không bao giờ có chuyện mời vốn đầu tư mà lại có thể giới hạn là Trung Quốc chỉ được quyền đầu tư tối đa 20%, trong khi Mỹ (hay các nhà đầu tư nào khác) được quyền đầu tư đến 40%.

Về mặt thương mại, đây là chuyện không thể có vì thiếu cạnh tranh công bằng. Về mặt chính trị, tôi không tin rằng CSVN dám đặt ra một điều kiện đầu tư như thế với "thiên triều". Đây là cái tát tai 'nẩy lửa' với bất cứ một chính phủ nào chứ đừng nói chuyện là Thiên Triều Trung Quốc.

Tất cả các giả thuyết khác - tuy rất khó xảy ra mà blogger Hà Hiền đề cập đến - tôi nghĩ có thể bỏ qua, nhưng luận cứ sau cùng về phần trăm của vốn đầu tư cho thấy đây là một bài viết "rất là tay mơ" (về chuyện đầu tư quốc tế nhưng lại đánh đủ đòn tâm lý về hiểm họa Trung Quốc so với Hoa Kỳ, do đó đủ tác dụng lợi hại trong việc trấn an và thuyết phục người Việt, (hàng chữ tô đậm là của Đàn Chim Việt). Tuy tôi không dám võ đoán mục đích của tác giả, nhưng tôi dám khẳng định rằng bài viết này có thể đem lại một hiệu quả mà CSVN rất mong muốn là: "Đừng làm lớn chuyện Bauxite ở Tây Nguyên và đừng lo sợ thái quá đến âm mưu bành trướng của Trung Cộng."

Nguyễn Q. Tuấn

----------------------------------------------------------------------------

Thư ngỏ của một công dân ngoài Đảng
Tổng bí thư Nông Đức Mạnh

Hãy xét lại việc khai thác bauxite


Nhà báo Lê Phú Khải viết từ thành phố HCM


Thưa Ông Tổng Bí thư,

Tôi là Lê Phú Khải, một công dân ngoài Đảng. Tôi chưa bao giờ nghĩ rằng có một ngày cầm bút viết thư cho Ông Tổng Bí thư Đảng độc tôn cầm quyền. Song, những gì diễn ra trên đất nước của chúng ta những ngày qua khiến tôi ăn không ngon, ngủ không yên, suy nghĩ đến thức trắng nhiều đêm.

Đó là cơn bão ô nhiễm môi trường do công ty Vedan gây ra còn nóng bỏng dư luận cả nước thì một tin kinh hoàng lại ập đến là khai thác bauxite ở Tây Nguyên trên diện rộng và thời gian lâu dài. Tôi càng đau đớn hơn khi được đọc các bài viết của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, nhà văn Nguyên Ngọc, tiến sĩ Nguyễn Thanh Sơn và đặc biệt gần đây là bài của nhà văn Phạm Đình Trọng (gây tiếng vang lớn) về thảm họa khai thác bauxite ở Tây Nguyên.

Tôi được biết, từ xưa đến nay Đảng cầm quyền vẫn nêu khẩu hiệu: "Ý Đảng lòng Dân". Nay những người được tuyệt đại đa số nhân dân rất yêu qúy, kính trọng như Đại tướng Võ Nguyên Giáp, nhà văn Nguyên Ngọc cả cuộc đời gắn bó với Tây Nguyên... đều phản đối mạnh mẽ việc khai thác bauxite ở Tây Nguyên.

Rõ ràng trong việc này, ý Đảng không hợp với lòng Dân. Từ trước đến nay Đảng Cộng sản Việt Nam làm được điều gì đều là do được sự đồng lòng ủng hộ của nhân dân. Nay một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước là vấn đề khai thác bauxite ở Tây Nguyên có liên quan đến sinh mạng của đất nước, đến sự tồn vong của giống nòi, của dân tộc lại không được sự đồng thuận của nhân dân thì hậu quả sẽ rất nghiêm trọng đối với cả Đảng cầm quyền và đất nước.

Tôi nghĩ rằng trong quá khứ, lịch sử đã lựa chọn Đảng Cộng sản là chính đảng lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Nhưng với hiện tại và tương lai thì sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản không phải là một định mệnh. Nếu một đường lối, chủ trương lớn của Đảng mà từ Đại tướng đại công thần của chế độ như Võ Nguyên Giáp đến người dân bình thường lại không đồng thuận thì dù có một ngàn lần đưa sự lãnh đạo của Đảng vào điều 4 Hiến pháp cũng vô nghĩa!

Chính vì lẽ đó, với tư cách một công dân, một nhà báo lâu năm, tôi kiến nghị lên Ông Tổng Bí thư, người có trách nhiệm cao nhất của Đảng cầm quyền: Hãy đưa vấn đề khai thác bauxite ở Tây Nguyên ra bàn ở cấp lãnh đạo cao nhất của Đảng, Quốc hội và Nhà nước để dừng lại dự án này khi chưa quá muộn.

Trước đây, cải cách ruộng đất là một chủ trương lớn của Đảng nhưng khi thấy sai, Đảng đã sửa sai, được nhân dân tha thứ và đồng tình. Nay theo tôi, vấn đề bauxite còn nguy hại gấp trăm ngàn lần cải cách ruộng đất, vì nó hủy diệt cả dân tộc ta như các nhà khoa học đã dự báo.

Mười năm nữa sông Đồng Nai và những con sông khởi nguồn từ Tây Nguyên bị nhiễm bùn đỏ thì cả miền Trung, Đông Nam Bộ và TP.HCM lấy gì mà uống, những bà mẹ sẽ đẻ ra tòan quái thai. Vì sự tàn khốc đó mà Trung Quốc đã đóng cửa các mỏ bauxite của họ trên tòan quốc vào năm 2008. Vì nhân đạo mà Liên Xô trước đây đã khuyên ta không nên khai thác bauxite ở Tây Nguyên. Vậy mà...

Thưa Ông Tổng Bí thư, trong cuộc cách mạng Pháp năm 1789 có một câu nói nổi tiếng của Marat được truyền tụng khắp châu Âu: Người ta lớn bởi vì anh quỳ xuống (On est grand, parce - que vous vous mettez à genoux) Dân tộc chúng ta từ khi lập nước chưa bao giờ tự cho mình là bé nhỏ. Chính vì thế nước ta xưa kia mới có tên là nước Đại Việt và giữ được nước đến hôm nay. Khi thực dân Pháp cai trị nước ta, với dã tâm làm yếu hèn ý chí tự cường của thanh thiếu niên, chúng đã sọan sách giáo khoa dạy rằng: "Nước ta hình cong như chữ S, nằm khiêm tốn bên bờ biển Thái Bình Dương!" Nhưng trận Điện Biên Phủ năm 1954 đã chôn vùi thói tham tàn của thực dân Pháp xuống bùn đen vạn kiếp.

Tổ quốc Việt Nam vĩ đại của chúng ta đời đời bất diệt. Lịch sử đã chứng minh điều đó. Không kẻ nào có thể bắt Việt Nam phải "khiêm tốn" làm bãi thải rác cho họ!

Tôi có bấy nhiêu lời gan ruột của một công dân nước Việt gửi đến Ông Tổng Bí thư. Kính chúc Ông sức khỏe.

Về tác giả: Sinh năm 1942 tại Hà Nội, ông Lê Phú Khải được độc giả trong nước biết đến qua những trang viết về đồng bằng sông Cửu Long. Tác phẩm chính: Đồng Tháp Mười hôm nay, Viết từ đồng bằng Sông Cửu Long, Rắn độc trong tay người, Hồ sơ đồng bằng sông Cửu Long. Lá thư này viết ngày 18.3.2009.

Nguồn: bbc.co.uk