Thục
Quyên (Bauxite Việt Nam)
03/12/2014
Dù
Cộng hòa Liên bang Đức là một nước giàu mạnh, dẫn
đầu trong khối Âu châu và thế lực trong thế giới, lễ
kỷ niệm 25 năm "Bức tường Ô nhục Berlin sụp đổ
"(13/08/1961-09/11/1989) đã không chú trọng biểu dương
lực lượng quân sự hay sức mạnh tài chính. Mọi
cố gắng tổ chức là để nêu cao giá trị tình người,
sự gắn bó dân tộc, sức mạnh văn hóa và chiến thắng
của tinh thần bất bạo động.
Cuộc
thăm dò ý kiến trong những năm qua tại Đức cho thấy
70% dân chúng đánh giá cuộc thống nhất đất nước họ
từ tốt tới rất tốt, và bằng lòng với tình hình
chính trị, xã hội cũng như kinh tế hiện tại . Ngay 30%
còn lại, với những chỉ trích nặng nhẹ, cũng dứt
khóat không muốn trở lại tình trạng 25 năm trước.
Câu
nói của cố Tổng thống Mỹ J.F.Kennedy ngày 26/06/1963 khi
đứng trước Bức Tường trong cuộc viếng thăm Berlin của
ông đã nói lên một sự thật đơn giản:
Tự
do có nhiều khó khăn, và dân chủ không phải là tuyệt
hảo. Nhưng chúng tôi không bao giờ phải dựng lên một
bức tường để giữ lại những người dân của chúng
tôi - để ngăn cản họ rời bỏ chúng tôi.
"Freedom
has many difficulties and democracy is not perfect. But we have never
had to put a wall up to keep our people in -- to prevent them from
leaving us".
Cùng
với dân tộc Đức, cả thế giới đã xúc động cực độ
khi sự sụp đổ "Bức tường ô nhục Berlin" đến
như với một phép lạ: Ngoạn mục. Bất thần. Nhanh
chóng. Không đổ một giọt máu.
Nhưng
không một người Đức nào cho tới ngày nay, kể cả các
chính trị gia và các nhà tranh đấu dân chủ, tuyên bố
là mình đã biết trước thời điểm hay cách thức xảy
ra. Mọi người đều đồng ý ,con đường đưa tới Tự
Do và Thống Nhất đã rất dài, khó khăn, và chỉ có thể
đạt được với chủ lực đóng góp và hy sinh của dân
chúng cả hai miền Đông và Tây trong ý nguyện rõ ràng :
Chúng
ta là nhân dân. Chúng ta là một dân tộc. (Wir
sind das Volk. Wir sind ein Volk).
Chính
phủ và nhân dân Đức cho tới nay luôn luôn khiêm nhường
và nhớ ơn sự tiếp tay của những nước bạn.
Vào
thời điểm cuối năm 1988, sự độc quyền của các đảng
cộng sản được sự hỗ trợ Liên bang Xô viết trong mấy
chục năm đang trên đường tan rã. Một nhân tố quan
trọng là vị Tổng thống Liên Xô đương nhiệm Mikkhail
Gorbachov, đứng trước những thất bại và nguy cơ tan rã
của các nước thuộc khối Xã hội Chủ nghĩa, đã sáng
suốt bác bỏ chủ thuyết Brezhnev. Theo đó Moscow có thể
dùng vũ lực can thiệp nếu bất cứ nước nào tìm cách
tách ra khỏi sự kiểm soát của Xô viết (như đã từng
xảy ra năm 1956 tại Hungary, và năm 1968 tại Tiệp Khắc).Từ
đó các diễn biến dân chủ ở Đông Âu và nhất là ở
Đông Đức tăng hẳn nhịp độ.
Phát
biểu trước đài tưởng niệm các nạn nhân của Bức
Tường Berlin sáng ngày 9/11/2014, Thủ tướng Đức Angela
Merkel tuyên bố:
"Thông
điệp của Bức Tường Berlin là chúng ta có khả năng để
xây dựng, chúng ta có thể chuyển đổi để sự việc
trở nên tốt đẹp hơn, một thông điệp cho chúng ta ở
Đức cũng như cho những người khác ở châu Âu và thế
giới. Và trong tình hình ngày hôm nay , càng đặc biệt
cho những người ở Ukraine, Syria, Iraq và trong nhiều, rất
nhiều vùng khác trên thế giới, nơi mà tự do và nhân
quyền đang bị đe dọa hoặc thậm chí chà đạp.
Wir
haben die Kraft zu gestalten. Wir können Dinge zum Guten wenden. Das
ist die Botschaft des Mauerfalls – sie richtet sich an uns in
Deutschland ebenso wie an andere in Europa und der Welt, in diesen
Tagen ganz besonders an die Menschen in der Ukraine, in Syrien, im
Irak und in vielen, vielen anderen Regionen unserer Welt, in denen
Freiheits- und Menschenrechte bedroht oder gar mit Füßen getreten
werden.
.
Bối
cảnh: quỵ ngã và điêu tàn
.
Sự
thành hình của "hai nước Đức" bắt nguồn từ
sự qụy ngã sau thế chiến thứ Hai (1939-1945) của Âu
Châu, với hơn 49 triệu người thiệt mạng, các thành phố
lớn bị tàn phá nặng nề, các khu công nghiệp hủy hại.
Hạ tầng cơ sở kinh tế điêu tàn, hàng triệu người vô
gia cư.
Riêng
nước Đức, sau khi Berlin thất thủ và Hitler tự tử, chỉ
còn lại là một mảnh đất nhỏ từ Na Uy phía Bắc cho
đến phần trên của Ý, và sau ngày 09/05/1945 khi các lực
lượng Đức cuối cùng đầu hàng vô điều kiện, đã bị
các lực lượng Mỹ, Anh, Liên Xô và Pháp chiếm đóng.
Ngoài ra Đức còn bị buộc phải phi quân sự hóa, phi
phát xít hóa, và bị tịch thu tài sản để bồi thường
chiến tranh.
Ngay
sau đó, chính liên minh Đồng Minh đã bị rạn nứt vì
xung đột ý thức hệ. Tại châu Âu, mỗi phía liên minh
với nhau trong khu vực ảnh hưởng. Về phía Tây, các nước
Mỹ, Anh và Pháp đã lập ra Liên minh Bắc Đại Tây Dương
(NATO) . Về phía đông, Liên Xô lập ra liên minh với các
nước Đông Âu khác với Hiệp ước Warsaw. Các nước phụ
thuộc Hoa Kỳ chịu ảnh hưởng chính trị thông qua viện
trợ kinh tế theo kế hoạch Marshall, trong khi các nước
kia trở thành các nước cộng sản phụ thuộc Liên Xô.
Năm
1949, với sự gia tăng căng thẳng của Chiến tranh Lạnh,
nước Đức đã tách đôi trên cơ sở các vùng kiểm soát
của Đồng Minh phương Tây và Liên Xô thành Cộng hoà
Liên bang Đức (Tây Đức) và Cộng hoà Dân chủ Đức
(Đông Đức).
Để
ngăn chận làn sóng người Đông Đức chạy sang Tây Đức
ngày càng nhiều, bắt đầu từ năm 1952, biên giới giữa
hai nước Đức được bảo vệ bằng hàng rào và có lực
lượng canh phòng. Tuy nhiên ranh giới của các khu vực
chiếm đóng giữa Tây Berlin và Đông Berlin lại vẫn còn
bỏ ngỏ, vì thế mà gần như không thể kiểm soát được
và trở thành một lỗ hổng để người dân chạy qua Tây
Berlin.
Từ
1949 đến 1961 khoảng 2,6 triệu người đã rời bỏ Đông
Đức và Đông Berlin, trong số đó vẫn còn 47.433 người
chạy trốn chỉ riêng trong hai tuần đầu của tháng 8 năm
1961. Vì những người này thường là những người trẻ
tuổi và được đào tạo tốt nên việc di dân này là
mối đe dọa cho sức mạnh kinh tế của Đông Đức và
cuối cùng là cho sự tồn tại của "quốc gia"
này.
Đêm
12 rạng sáng ngày 13/08/1961 phía Đông Đức bắt đầu cho
phong tỏa các đường bộ và đường sắt dẫn đến Tây
Berlin. Quân đội Xô Viết được đặt trong tình trạng
báo động và hiện diện tại các cửa khẩu biên giới
của Đồng Minh. Tất cả các liên kết giao thông còn tồn
tại giữa hai phần Berlin đều bị gián đoạn.
Erich
Honecker, sau này trở thành Chủ tịch Hội đồng Nhà nước,
lúc đó với cương vị là bí thư trung ương Đảng về
an ninh đã nhân danh ban lãnh đạo Đảng Cộng sản, chịu
trách nhiệm chính trị về việc lên kế hoạch và thực
hiện việc xây bức tường. Cho đến tháng 9 năm 1961,
ngay trong lực lượng canh phòng đã có 85 người đào ngũ
sang Tây Berlin.
.
Bài
học từ bạn và thù
.
Trước
mắt người dân Đức và thế giới, bức tường Berlin
xây bằng bê tông, gạch và giây kẽm gai đã cụ thể hóa
Bức Màn Sắt trừu tượng. Dân chúng thành phố Berlin đã
ngay tức khắc phản ứng mãnh liệt với bức tường được
chính phủ Cộng hòa Dân chủ Đức gọi là "Tường
thành bảo vệ chống phát xít" và ngược lại đối
với Cộng Hoà Liên Bang Đức là một "Bức tường Ô
nhục".
Suốt
ngày 13/08/1961 và những ngày nối tiếp, khắp Đông Berlin
đã có nhiều cuộc biểu tình vài trăm người tự phát.
Cảnh sát Nhân dân giải tán những người biểu tình bằng
hơi cay, vòi rồng và dùi cui. Lác đác có những cuộc
đình công nhỏ. Ngày 16/08, gần 300.000 người phía Tây
Đức cùng với thị trưởng Willy Brandt tập trung trước
tòa thị chính Schöneberg ở phía tây của thành phố, kêu
gọi phản ứng mạnh mẽ của các cường quốc phương
Tây và sự bảo đảm tự do cho Tây Bá Linh.
Nhưng
các cường quốc phương Tây phản ứng rất chậm và dè
dặt.
Bức
tường Berlin đánh dấu sự thất bại kép của chính sách
nước Đức trong thời gian đó.
Phía
Cộng hòa Dân chủ (Đông Đức) đã thất bại trong nổ
lực thiết lập một nước theo chủ nghĩa xã hội được
dân chấp thuận, để đối ngược với chủ nghĩa tư bản
Tây phương. Hàng triệu người, trong đó có nhiều lao
động trẻ và có kỹ năng, đã rời bỏ Đông Đức để
qua phía Cộng hòa Liên bang, gây một tình trạng xuất
huyết trầm trọng.
Nhưng
Bức Tường cũng cho thấy nổ lực của Chính phủ Cộng
hoà Liên bang (Tây Đức) dựa vào các cường quốc Tây
phương mong dùng chính sách "sức mạnh" để ép
Liên Xô lui, hòng đạt được thống nhất nước Đức,
cũng thất bại. Mỹ đã không can thiệp quân sự khi bức
tường Berlin được xây dưới sự bảo vệ của Liên Xô.
Họ tôn trọng những lĩnh vực mà Liên Xô đã đặt ảnh
hưởng, như đã từng không phản ứng nhân dịp cuộc nổi
dậy và bị Hồng quân đàn áp ngày 17/06/1953 tại Đông
Đức và cuộc cách mạng năm 1956 tại Hungary.
Việc
phát hiện rằng không có cách ngắn hạn nào để thống
nhất nước Đức, và ngay cả sự liên lạc tình cảm
thiêng liêng giữa người dân hai miền còn mắc nguy cơ bị
gián đọan nói chi là sự thống nhất kinh tế hay chính
trị , đã đưa tới một làn sóng xét lại cách suy nghĩ
cũng như đường lối chính trị tại Cộng hoà Liên bang
Đức.
Willy
Brandt và cú sốc thực tế
Đêm
12 rạng sáng ngày 13/08/1961 khi được tin Berlin bị chia
cắt , thị trưởng đương nhiệm Willy Brandt đã tức tốc
bỏ dở cuộc vận động đang tới cao điểm tranh cử
chức thủ tướng Cộng hoà Liên bang Đức để trở về
Berlin dầu sôi lửa bỏng, chung vai sát cánh với người
dân của mình. Vừa tới nơi, ông đã dứt khóat tuyên bố
đường hướng đấu tranh tại buổi họp đặc biệt của
Quốc hội:
Một
phe đảng tự gọi là chính phủ mà ra sức để bỏ tù
người dân của mình: Trụ bê tông, dây thép gai, vùng đất
chết, tháp canh và súng máy, đó là những đặc thù của
một trại tập trung.
Nhưng
chúng sẽ không tồn tại.
Trong
tương lai, chúng ta sẽ đưa thêm nhiều người từ khắp
thế giới đến Berlin, nhiều hơn chúng ta đã làm trong
qúa khứ, để họ có thể nhìn thấy thực tế trần
truồng, lạnh lùng và tàn bạo của cái hệ thống đã
hứa hẹn một thiên đường trên trái đất. […]
Eine
Clique, die sich Regierung nennt, muß versuchen, ihre eigene
Bevölkerung einzusperren. Die Betonpfeiler, der Stacheldraht, die
Todesstreifen, die Wachtürme und die Maschinenpistolen, das sind die
Kennzeichen eines Konzentrationslagers. Es wird keinen Bestand haben.
Wir werden in Zukunft noch sehr viel mehr Menschen als früher nach
Berlin bringen, aus allen Teilen der Welt, damit sie die kalte, die
nackte, die brutale Wirklichkeit eines Systems sehen können, das den
Menschen das Paradies auf Erden versprochen hat. […]
Trong
suốt tháng 8/1961, tương ứng với những cảm xúc của
người dân Berlin, Willy Brandt đã bước ra khỏi thế đứng
chính trị đảng phái của mình để mang một vai trò phi
đảng phái và hoàn toàn có tính cách dân tộc. Ông trực
tiếp nhắc nhở các cường quốc phương Tây giữ vững
lời cam kết bảo vệ nền Tự do của Tây Bá Linh, kêu
gọi Mỹ có phản ứng mạnh mẽ với Liên Xô, đồng thời
tìm cách hướng dẫn người dân Berlin giữ bình tĩnh,
tránh tạo dịp cho Đông Đức và Liên Xô gây ra một cuộc
tàn sát đẫm máu.
Tuy
nhiên, những cố gắng của ông lúc đó đã không thành
công hoàn toàn như ý muốn: Chính phủ Mỹ đã từ chối
lời đề nghị và yêu cầu trợ giúp của ông; Tổng
thống J.F.Kennedy sau nhiều ngày tránh né không lên tiếng,
đã viết thư khuyên Brandt từ bỏ hy vọng về một đất
nước được thống nhất nhanh chóng, và phải chấp nhận
thực tế.
Với
Bức tường Berlin, sự tách đôi Đông và Tây Đức đã
được "bê tông hóa" theo đúng nghĩa đen. Hy vọng
cuối cùng của Willy Brandt dựa vào Berlin để ngăn chận
sự phân chia nước Đức đã một sớm một chiều chỉ
là ảo tưởng. Trong tức tưởi ông phải đối diện với
một bên là tấn công vũ bão của kẻ thù, bên kia là sự
tháo lui của đồng minh, chung quanh là sự nghi ngờ thù
hằn của những nước láng giềng đã một thời bị đàn
áp xâm chiếm bởi Đức Quốc Xã, và ngặt nghèo hơn cả
là sự mâu thuẫn thế hệ trong toàn quốc: thế hệ sau
thế chiến lên tiếng buộc tội gắt gao thế hệ cha ông
mình đã vì lý do này hay lý do khác tiếp tay với độc
tài gây ra cuộc thảm sát người Do Thái và thế chiến
thứ 2 nên mới đẩy dân tộc rơi vào tình trạng kiệt
quệ, chia cắt bởi các thế lực Đông-Tây: Tại sao qúi
vị có thể để những điều đó (bắt bớ và tàn sát)
xảy ra cho người Do Thái? Tại sao cha mẹ lại tham dự
trong đoàn thanh niên Hitler? Tại sao lại chấp nhận và tự
nguyện tham dự chiến tranh? Từ 1945, sau khi thua trận, qúi
vị có xét lại mình hay không? Đảng Quốc Xã và Lãnh tụ
của nó (Hitler) không bao giờ có thể tung tác được nếu
không có sự im lặng đồng ý và sự vô tâm bất động
của đại đa số công dân Đức. Mọi người đều có
trách nhiệm!
Willy
Brandt: "Cách tốt nhất để dự đoán tương lai là
tạo ra nó"
Nhưng
chính hoàn cảnh khắc nghiệt cũng là dịp để người
anh hùng nổi trội khỏi đám đông.
Bị
dồn vào thế bí, Willy Brandt đã chứng tỏ khả năng vượt
khỏi khuôn khổ những lối suy nghĩ và hành động thông
thường, lội ngược dòng những xu hướng chính trị để
tìm cách xoay chuyển thời thế.
.
Cái
chết thảm thương của một thanh niên 18 tuổi bị lính
canh Đông Đức bắn và bỏ mặc nằm vướng trong dây kẽm
gai chảy máu cho tới chết ở chân bức tường Berlin ngày
17/08/1962 là tác động khơi mào cho "Chính sách phương
Đông" của Brandt, đưa tới ký kết những hiệp ước
rất quan trọng giữa Cộng Hoà Liên bang Đức với các
nước Đông Âu láng giềng và Liên Xô, để giảm bớt sự
căng thẳng của Chiến tranh Lạnh với thế giới cộng
sản, khiến Đông Đức không thể đơn độc cưỡng lại
việc ngồi vào bàn hội nghị. Vì mục tiêu cuối cùng
của "Chính sách phương Đông" chính là để tạo
lợi thế đưa đến vô hiệu hóa cái Brandt gọi là "bức
tường vô nhân đạo" chia đôi dân tộc Đức.
Biết
không thể phá bỏ bức tường này bằng những lời tuyên
bố vĩ đại, bằng nguyền rủa hay bằng bom đạn, Willy
Brandt đã sáng chế một giải pháp cực kỳ tinh tế là
đi từng bước nhỏ, tạo sự liên hệ và tiếp xúc văn
hóa cũng như kinh tế cho dân chúng hai bên để chính sức
mạnh đoàn kết của họ đục thủng dần bức tường
ngăn cách kiên cố. Tháng 12/1972 một hiệp ước ký kết
giữa Tây và Đông Đức chấp nhận Đông Đức là một
lãnh thổ độc lập và có chủ quyền (nhưng chỉ có một
quốc tịch Đức duy nhất). Đổi lại, người dân Tây
Đức được thăm viếng, xum họp với gia đình bên Đông
Đức. Chính sự gặp gỡ, trao đổi tin tức và những
giúp đỡ tài chính họ mang cho thân nhân đã đánh thức
sự so sánh giữa cuộc sống tại hai phần đất nước và
gây ý thức về Tự do Dân chủ nơi người dân Đông Đức.
.
Cùng
với Egon Bahr , Willy Brandt gọi ý tưởng cách mạng của
mình là "Đổi thay bằng cách xích lại gần",
dùng sự cảm thông và liên hệ giữa con người với con
người để phá vỡ ngục tù ý thức hệ. Tuy được giới
trẻ và số đông ủng hộ nhưng cũng không thiếu những
chông gai đến với ông từ không những nhà cầm quyền
CS Đông Đức mà Willy Brandt còn chịu sự chống phá quyết
liệt của những thành phần bảo thủ Tây Đức, ngay cả
trong đảng Xã hội (SPD) của ông, buộc tội ông "cấu
kết với cộng sản". Sự chống phá đôi khi gồm cả
những thủ thuật ty tiện như vu cáo, bôi nhọ thanh danh,
cuối cùng cũng đã đẩy ông đến bước phải từ chức
Thủ tướng năm 1974 nhưng trong lòng người dân ông đã
mãi mãi giữ chỗ đứng của một "Thủ tướng của
trái tim" (Kanzler der Herzen).
.
Lấy
can đảm "dứt khoát nhận lãnh trách nhiệm tội ác
chiến tranh" làm nền tảng xây dựng tương lai
.
Mặc
dù nước Đức đã phải trả một cái giá rất đắt sau
chiến tranh nhưng đối với thế giới điều này không
chứng tỏ dân tộc Đức đã thực tình nhìn nhận lỗi
lầm liên đới với Đức Quốc Xã mà có thể chỉ vì bị
thua trận. Phải tới khi vị thủ tướng Đức Willy Brand
qùy xuống trước đài tưởng niệm người Do Thái ở
Warsaw ngày 7/12/1970 trong chuyến thăm Ba Lan của ông, những
vết thương của các nạn nhân chiến tranh mới được
phần nào xoa dịu. Một cử chỉ can đảm cho thấy tầm
vóc lớn của con người Willy Brandt, làm cả thế giới
khâm phục. Đó cũng là dấu hiệu chân thành thiết yếu
để thế giới khôi phục lại lòng tin tưởng vào dân
tộc Đức. Tháng 12 năm 1971 Willy Brandt nhận giải Nobel
Hoà Bình.
.
Lời
cuối cho Việt Nam
.
Trong
bài phát biểu nhận giải thưởng Nobel Willy Brandt nhấn
mạnh: "nói chuyện Hoà Bình không đủ, chúng ta phải
xây dựng Hoà Bình bằng hành động". Và ông đã chấm
dứt bài, nhắc đến dân tộc Việt Nam và những nước
nhược tiểu khác:
.
Tôi
không thể ngưng nhắc nhở qúi vị và chính bản thân tôi
cần phải nhớ đến những con người còn đang sống lầm
than trong chiến tranh ngay trong giờ phút này, đặc biệt
là trong tiểu lục địa Ấn Độ và Việt Nam. Cũng như ở
Trung Đông và các khu vực khủng hoảng khác. Tôi không
muốn ồn ào kêu gọi, vì đòi hỏi người khác phải giữ
chừng mực, biết điều và khiêm tốn thì rất dễ. Tôi
chỉ gởi lời cầu mong từ trái tim tôi tới tất cả
những người đang có thế lực trong tay để gây chiến
tranh, hãy nhường bước cho lẽ phải và gìn giữ Hoà
Bình.
.
Aber
ich kann nicht aufhören, ohne Sie und mich an die zu erinnern, die
in diesem Augenblick im Krieg leben und leiden, vor allem auf dem
indischen Subkontinent und in Vietnam. Ich beziehe die Menschen im
Nahen Osten und in anderen Krisengebieten mit ein. Mir ist nicht nach
dem lauten Appell zumute. Es ist leicht, von anderen Maß, Vernunft,
Bescheidung zu fordern. Aber diese Bitte kommt mir aus dem Herzen:
Alle, die Macht haben, Krieg zu führen, möchten der Vernunft
mächtig sein und Frieden halten.
.
Dân
tộc Việt Nam đã được gì sau gần 40 năm thống nhất
và không chiến tranh?
.
Nhìn
sức mạnh xã hội, kinh tế của nước Đức, xuất phát
từ một nền tảng chính trị TỰ DO DÂN CHỦ nhân bản
và đứng đắn, người Việt chúng ta thay vì chỉ sôi sục
niềm ao ước có lẽ nên nhập tâm khẩu hiệu "Can
đảm đòi Dân chủ" của Willy Brandt làm ngọn lửa
soi sáng cho mọi hoạt động của mình. Và xây dựng sự
cảm thông, liên hệ giữa con người với con người để
phá vỡ ngục tù ý thức hệ bằng cách mỗi người trong
chúng ta tự quỳ xuống trước tổ tiên và dân tộc,
thẳng thắn can đảm nhận lãnh trách nhiệm đã nhầm lẫn
trong qúa khứ của chính bản thân mình.
.
T.Q.
Tác
giả gửi BVN
.
Được
đăng bởi bauxitevn vào lúc 05:54
.
.
.
No comments:
Post a Comment