.
.
Hãy
ôn lại các cột mốc và những điểm trọng yếu của vụ
kiện da cam ở Hoa Kỳ trong thập niên thứ nhất của thế
kỷ 21 để hiểu hơn ngọn ngành của chuyện ngày nay (sẽ
viết tiếp trong phần
khác).
.
1)
Năm 2003, một nhóm bác sĩ và khoa học gia người Việt,
những người đã làm việc với các nạn nhân "da
cam" hình thành một hiệp hội có tên là Hiệp Hội
Các Nạn Nhân Da Cam Việt Nam (Vietnam Association of Victims of
Agent Orange) vào tháng 12 năm 2003. Họ cùng một số
người Mỹ khởi kiện về vụ "da cam".
.
2)
Ngày 30 tháng 1 năm 2004, Hiệp Hội Các Nạn Nhân Da Cam
Việt Nam chính thức khởi kiện [1] các công ty hoá
chất Dow, Monsanto, Hercules, Diamond Shamrock và một số
công ty hoá chất khác, bao gồm các chi nhánh của những
công ty ấy có liên quan đến việc sản xuất hoá chất
dùng để diệt cỏ và khai hoang trong chiến tranh Việt Nam
giai đoạn 1961 - 1971. Trong đơn khởi kiện này, có những
điểm quan trọng mà phía Hiệp Hội Các Nạn Nhân Da Cam
Việt Nam đưa ra dẫn đến sự thất bại của vụ án [2]
.
3)
Ngày 18 tháng 3 năm 2004, phiên toà đầu tiên của vụ kiện
này diễn ra tại toà án địa phương đông New York, ở
Brooklyn và chánh án là ông Jack Weinstein, người đã
dự vụ toà cựu chiến binh Mỹ kiện và thắng kiện 180
triệu đô la vào năm 1985. Chánh án cho phía khởi kiện 6
tháng để chuẩn bị hồ sơ. Nội dung phiên toà đầu
tiên được lưu trữ ở đây [3].
.
4)
Ngày 3 tháng 11 năm 2004, phía bị cáo (các công ty hoá chất
nêu trên) đệ trình hồ sơ đề nghị bãi toà [4], phản
bác tất cả các điểm phía Hiệp Hội Các Nạn Nhân Da
Cam Việt Nam đưa ra trong đơn kiện, Hầu hết các điểm
bị bác bỏ dựa trên điều luật "Giới hạn 10
năm" ("The Ten-Year Statute of Limitations").
Nếu Hiệp Hội Các Nạn Nhân Da Cam Việt Nam khởi kiện
vụ việc trong vòng 10 năm sau khi các trường hợp được
đưa ra thì có thể hiệp hội ấy có "case" (vụ
xử). Luật sư đoàn phía bị cáo (các công ty hoá chất
Mỹ) còn đệ trình đề nghị chính thức huỷ bỏ vụ án
dựa trên căn bản "vụ việc đã xảy ra nhiều
thập niên trước ở một đất nước xa xôi cách Hoa Kỳ
ngàn dặm" [5].
.
5)
Ngày 18 tháng 1 năm 2005, luật sư đoàn phía khởi tố đệ
trình hồ sơ 173 trang [6] phản biện những gì phía
bào chữa đưa ra nhằm yêu cầu toà án không huỷ bỏ vụ
án. Trong hồ sơ này, phía khởi tố đưa ra rất nhiều
phân tích tính độc hại của "da cam" và duy trì
quan điểm phía bị cáo vi phạm luật quốc tế và đòi
hỏi phía bị cáo phải trả giá cho những gì họ làm.
.
6)
Ngày 28 tháng 2 năm 2005, cả hai phía đối diện nhau tại
toà để đối chất [7]. Đây là tài liệu dài 238 trang,
lưu lại nội dung đối chất cả hai phía [8].
.
7)
Ngày 10 tháng 3 năm 2005, chánh án Weinstein bãi bỏ vụ án.
Trong 233 trang ghi nhận quyết định của ông [9], ông nói
rõ rằng, cho dù "da cam" được ghi nhận có
dioxin, là một thứ hoá chất độc hại nhưng nó không
nằm trong khuôn khổ "chiến tranh hoá chất"
(chemical warfare) và bởi thế không vi phạm luật quốc tế.
Chánh an Weinstein còn cho biết toà án liên bang cũng có
thẩm quyền trong vụ án này như một gợi ý cho phía khởi
tố xúc tiến phúc thẩm hoặc đưa vụ việc lên toà án
tối cao.
.
8)
Phía khởi tố tiếp tục đệ trình thỉnh cầu phúc thẩm.
Ngày 6 tháng 2 năm 2006, phía bị cáo đệ trình hồ sơ
phản hồi đề nghị phúc thẩm của phía khởi tố [10].
Trong hồ sơ này, phía bị cáo đưa ra những điểm kỹ
thuật về giới hạn tố tụng và trách nhiệm của các
công ty được chính phủ Hoa Kỳ sử dụng. Phía khởi tố
đệ trình phản hồi [11] và sau đó, vào ngày 17 tháng 4
năm 2006, phía khởi tố lần nữa đệ trình phản hồi đã
được điều chỉnh [12], lấy lý do rằng "quốc tế
đã có luật cấm sử dụng hoá chất trong chiến tranh từ
lâu" và đề nghị toà án cho phép xúc tiến phúc
thẩm.
.
9)
Ngày 18 tháng 6 năm 2007, toà phúc thẩm diễn ra với hai
với sự chứng kiến của ba chánh án [13]. Đây là tài
liệu 247 trang, lưu lại nội dung đối chất của hai phía
tố và bào chữa. [14]
.
10)
Ngày 22 tháng 2 năm 2008, toà án phúc thẩm liên bang bác bỏ
đơn kiện của Hiệp Hội Các Nạn Nhân Da Cam Việt Nam.
Các chánh án tuyên bố phía khởi tố đã không thể chứng
minh được chất diệt cỏ và khai hoang sử dụng trong
chiến tranh Việt Nam nằm trong khuôn khổ "chiến tranh
hoá chất" và vi phạm luật quốc tế. Các chánh án
cũng bác bỏ các khiếu nại của những cựu chiến binh
Hoa Kỳ đã không tham gia trong vụ án 1984 và đề nghị
tất cả các chánh án và luật sư bãi bỏ mở rộng vụ
án.
.
11)
Tháng 10 năm 2008, luật sư đoàn của Hiệp Hội Các Nạn
Nhân Da Cam Việt Nam gởi một thỉnh nguyện cứu xét (writ
of certiorari) [15] đến toà án thượng thẩm Hoa Kỳ. Luật
sư đoàn của nhóm cựu chiến binh Hoa Kỳ cũng gởi một
thỉnh nguyện cứu xét của riêng họ [16].
.
12)
Ngày 27 tháng 2 năm 2009, toà án thượng thẩm Hoa Kỳ đã
có một cuộc hội luận và họ quyết định bác bỏ cả
hai thỉnh nguyện. Vụ án này khép lại.
.
–.-------------
.
Tài
liệu tham khảo:
.
[1]
Hồ sơ khởi kiện nguyên thuỷ
ở: http://www.agentorangerecord.com/images/uploads/AO%20Lawsuit(2).pdf
.
[2]
Những điểm quan trọng của hồ sơ khởi tố mà Hiệp
Hội Các Nạn Nhân Da Cam Việt Nam đưa ra:
-
"da cam" không những dùng để khai hoang mà còn để
tàn phá hoa màu.
-
dựa trên tường trình sơ khởi năm 1966 của Bionetics
Research Laboratory cho biết 2,4,5-T and 2,4-D, hai thành phần
chính của "da cam" có thể tạo ra tình trạng quái
thai và chết yểu của chuột con.
-
dựa trên phỏng đoán có khoảng 4 triệu người Việt Nam
đã tiếp xúc với "da cam" trong khoảng thời gian
1961 - 1971.
-
dựa trên cách gọi của phía Việt Nam: "cuộc chiến
tranh hoá chất lớn nhất trong lịch sử" (“largest
chemical warfare operation in history").
-
dựa trên thông tin bác sĩ Phi Phi ăn rau quả dọc theo khu
vực bị khai hoang trong khoảng 1966 - 1971 và kết quả là
bị 3 lần hư thai và phía khởi tố kết luận là do "da
cam".
-
dựa trên thông tin người lính tên Nguyễn Văn Quý đã đi
trên đường mòn Hồ Chí Minh năm 1972 - 1973, ăn rau cỏ
khu vực này và năm 1984, anh ta lấy vợ ở Vũng Tàu và vợ
anh bị sẩy thai, họ ly dị. Năm 1987 anh Quý lấy vợ lần
thứ hai ở Hải Dương và cháu trai Nguyễn Quang Trung được
sinh ra với tay chân và xương sống bị dị tật. Sau đó
cháu gái Nguyễn Thị Thuý Nga ra đời bị thiểu năng và
điếc. Chính anh Nguyễn Văn Quý sau này bị ung thư.
-
dựa trên thông tin bác sĩ Dương Quỳnh Hoa thường xuyên
lui tới Sông Bé và Biên Hoà năm 1964, nơi có "da cam"
rất nhiều. Sau này, bà sinh ra cháu trai Huỳnh Trung Sơn
vào năm 1970 bị dị tật và bị kinh phong. Cháu Sơn chết
vào lúc 8 tháng tuổi do lên cơn động kinh. Năm 1972, bà
Hoa có thai một lần nữa nhưng bị hư thai. Năm 1998, bà
Hoa được chẩn đoán có khối u ung thư trong vú và năm
1999, khám nghiệm cho thấy mức dioxin trong máu bà tương
đối cao. Phía bà Hoa kết luận rằng con của bà và ung
thư vú của bà là do "da cam".
-
dựa trên những thông tin ở trên, phía khởi tố kết
luận rằng phía sản xuất ra "da cam" vi phạm nhân
quyền, là tội phạm chiến tranh và luật quốc tế.
.
[3]
Nội dung phiên toà thứ nhất vào ngày 18/3/2004:
http://www.agentorangerecord.com/images/uploads/hearing(2).pdf
.
[4]
Hồ sơ phía bị cáo (các công ty hoá chất Mỹ) bác bỏ
những kết tội Hiệp Hội Các Nạn Nhân Da Cam Việt Nam
đưa
ra: http://www.agentorangerecord.com/images/uploads/Memo%20of%20Law%20SOL.pdf
.
[5]
Đề nghị chính thức của luật sư đoàn phía bị cáo
huỷ bỏ vụ án:
http://www.agentorangerecord.com/images/uploads/InjunctiveRelief(2).pdf
.
[6]
Phản hồi chính thức của luật sư đoàn phía khởi kiện
đưa ra:
http://www.agentorangerecord.com/images/uploads/International%20Law%20Brief.pdf
.
[7]
Nội dung đối chất ngày 28 tháng 2 năm 2005 tại phiên toà
thứ nhì:
http://www.agentorangerecord.com/images/uploads/Feb28hearing.pdf
.
[8]
Cuộc đối chất có thể tóm gọn như sau:
.
-
Cuộc đối chất đi đến chỗ tranh luận về nghị quyết
4 của Geneva về tội hình "tội ác diệt chủng"
có thể áp dụng trong vụ án này hay không.
.
-
Phía khởi kiện lý giải nhằm bảo vệ quan điểm rằng
"da cam" dùng ở Việt Nam trong chiến tranh là để
"diệt chủng".
.
-
Phía bị cáo phản biện rằng thuốc diệt cỏ không
được xếp loại trong các loại hoá chất để "diệt
chủng" và cho dù thuốc diệt cỏ có nằm trong danh
sách các loại hoá chất ở cấp độ diệt chủng, vấn
đề này đã không được đưa ra quốc tế mãi cho đến
hội nghị vũ khí hoá học năm 1993, có nghĩa là hơn hai
thập niên sau khi vụ việc đã xảy ra ở Việt Nam. Cho
đến nay (thời điểm vụ án đang diễn ra), vẫn chưa có
một quốc gia nào trên thế giới công nhận thuốc diệt
cỏ và khai hoang là hoá chất để diệt chủng. Phía bị
cáo phản bác rằng phía khởi kiện đánh tráo khái niệm
và đánh đồng "da cam" được rải ở Việt Nam
với những vụ tàn sát bằng hoá chất trực tiếp đã xử
ở Nuremberg.
.
-
Ngoài ra, chuyên gia hoá chất phía bị cáo chứng minh rằng
"da cam" không phải là dioxin mà "da cam"
chứa một phần rất nhỏ dioxin và đã được pha
loãng ra với dầu hôi. Hỗn hợp này bị phân huỷ trong
thời gian ngắn dưới ánh nắng và nếu có thấm xuống
đất, sau một thời gian chúng bị phân huỷ. Đối với
những vùng đã được rải "da cam", số lượng
trải đều ra, nếu thấm xuống đất cũng không đủ tồn
tại quá lâu (như vài thập niên mà phía khởi tố đã
đưa ra. Chỉ có những khu vực lưu trữ những thùng chứa
hoá chất "da cam" bị rò rỉ thì khả năng kéo
dài mới có nhưng không thấy có trường hợp nạn nhân
nào được đưa ra ở vài khu vực lưu trữ "da cam"
ở Việt Nam.
.
[9]
Quyết định bãi toà của chánh án Weinstein
http://www.agentorangerecord.com/images/uploads/Dismiss(2).pdf
.
[10]
Hồ sơ phản hồi thỉnh cầu phúc thẩm của phía bị cáo
ngày 6 tháng 2 năm
2006: http://www.agentorangerecord.com/images/uploads/Brief_for_Appellee(2).pdf
.
[11]
Phản hồi của phía khởi kiện cho phiên toà phúc
thẩm: http://www.agentorangerecord.com/images/uploads/FinalReply.pdf
.
[12]
Phản hồi đã được điều chỉnh của phía khởi kiện
cho phiên toà phúc
thẩm: http://www.agentorangerecord.com/images/uploads/AmendedReplyBrief.pdf
.
[13]
Đối chất toà án phúc thẩm
18/6/2007: http://www.agentorangerecord.com/images/uploads/TranscriptJun18.pdf
.
[14]
Cuộc đối chất của toà phúc thẩm có thể tóm gọn như
sau:
.
-
Xác định chính phủ Hoa Kỳ biết rõ thành phần và tính
độc hại của "da cam" hay không.
-
Xác định các công ty hoá chất biết rõ thành phần và
tính độc hại của "da cam" hay không.
-
Xác định chính phủ Hoa Kỳ cần "da cam" để
khai hoang và không phải cần "dioxin" để gây hại
cho con người.
-
Xác định thời điểm "da cam" được công bố là
độc hại.
-
Làm rõ những ngộ nhận về "chất độc" xảy ra
trong thập niên 50' đã được báo cáo những trường hợp
bệnh tật nhưng bị đánh đồng là "da cam".
-
Phía khởi kiện cố gắng chứng minh phía bị cáo (các
công ty sản xuất hoá chất của Mỹ) đã biết và cố
tình thêm dioxin vào "da cam" nhưng họ không có
bằng chứng vững vàng. Sau đó họ lại đi đến chỗ kết
tội bị cáo tắc trách, biết có dioxin trong "da cam"
nhưng không lọc ra.
-
Phía khởi kiện cố gắng chứng minh "tội ác"
dùng hoá chất lên nhân dân và binh lính Bắc Việt nhưng
các chánh án vặn ngược lại là phải chăng chính phủ
Hoa Kỳ và công ty sản xuất hoá chất đều biết tính
độc hại nhưng họ vẫn trải "chất độc" lên
chính binh lính Hoa Kỳ và những nhân viên phục vụ của
chính phủ Hoa Kỳ thì phía khởi kiện không thể trả lời
(vì chính phủ Hoa Kỳ không thể "cuộc chiến hoá
chất' với chính binh lính và đồng minh của họ).
.
.
.
.
----------------------
No comments:
Post a Comment