Monday, August 29, 2011

VIỆT NAM TRONG CHIẾN TRANH TƯ HỮU - Nguyễn Cao Quyền




Tác giả: Nguyễn Cao Quyền
Tủ Sách Tiếng Quê Hương ấn hành năm 2010

Ðoàn Thanh Liêm
Wednesday, August 24, 2011 1:53:21 PM

Với sự bền bỉ miệt mài, trong mấy năm gần đây Tủ Sách Tiếng Quê Hương ở Virginia đã liên tiếp cho ấn hành nhiều tác phẩm có giá trị về nội dung cô đọng gọn gàng, cũng như với hình thức trình bày trang nhã bằng khổ chữ sắc nét in trên loại giấy được chọn lọc rất kỹ lưỡng, nên các tác phẩm của tủ sách này lại càng có sức lôi cuốn đối với người đọc, đặc biệt là lớp người đứng tuổi.

Hình bìa quyển Việt Nam Trong Chiến Tranh Tư Hữu của Nguyễn Cao Quyền. (Hình: danchimviet.info)


Trong mấy cuốn sách được cho trình làng vào năm 2010 vừa qua, tôi đặc biệt chú ý đến cuốn sách biên khảo của tác giả Nguyễn Cao Quyền vốn là một thẩm phán phục vụ lâu năm trong ngành Quân Pháp của Việt Nam Cộng Hòa hồi trước năm 1975. Ðó là cuốn sách nhan đề: “Việt Nam Trong Chiến Tranh Tư Hữu,” dầy tổng cộng 472 trang với bìa cứng, khổ chữ 12 in trên loại giấy trắng ngà. Người viết rất vui mừng được giới thiệu với quý bạn đọc như dưới đây:

I. Sơ lược về thân thế của tác giả

Ông Nguyễn Cao Quyền năm nay đã ở vào tuổi 80. Từ trên 20 năm nay, ông là một khuôn mặt quen thuộc và được nhiều người nể trọng trong cộng đồng người Việt tại khu vực Washington DC, Maryland, Virginia qua các chức vụ Chủ Tịch Cộng Ðồng và Chủ Tịch Khu Hội Cựu Tù Nhân Chính Trị VN tại địa phương.
Ông đã từng tốt nghiệp các văn bằng Cử Nhân Luật Khoa và Cao Học Kinh Tế tại Ðại Học Luật Khoa Saigon. Và đã phục vụ nhiều năm trong hàng ngũ quân đội Việt Nam Cộng Hòa, với chức vụ cao nhất là Chánh Án Tòa Án Quân Sự Ðặc Biệt. Rồi sau khi giải ngũ, ông đã giữ nhiệm vụ Cố Vấn Ngoại Giao tại nhiệm sở Paris, Pháp.

Sau năm 1975, ông Quyền phải đi tù cải tạo 10 năm từ 1975 tới 1985. Ông tới định cư tại Hoa kỳ năm 1990 và hiện sống với gia đình tại Maryland.

Năm 2010, ông đã tiếp xúc với độc giả rất đông trong buổi Ra Mắt Sách để giới thiệu tác phẩm “Việt Nam Trong Chiến Tranh Tư Hữu” tại khu vực thủ đô Washington DC. Nhưng vì sức khỏe yếu kém, ông đã không thể di chuyển đi xa đến các nơi khác để tiếp xúc với các độc giả mến mộ được.

II. Mấy nét chính yếu của tác phẩm

Ðây là một cuốn sách được biên soạn khá công phu, gọn gàng súc tích, mà lại sáng sủa dễ đọc. Tác giả là một luật gia, quen thuộc với chuyện lập luận vững vàng, dựa trên những dữ kiện, số liệu thống kê và chứng từ khả tín để có thể cống hiến cho công chúng độc giả một tác phẩm thật có giá trị và bổ ích.

Sách được phân bố trong ba phần, mỗi phần gồm có một số chương, tổng cộng là 25 chương, chưa kể phần Dẫn Nhập và chương Tổng Kết. Ba phần có tiểu đề chính thật rõ ràng như sau:
Phần một: Ý Niệm Tư Hữu (trang 35-99)
Phần hai: Chiến Tranh Tư Hữu Toàn Cầu (trang 103-288)
Phần ba: Việt Nam Trong Chiến Tranh Tư Hữu ( trang 289-421)

Nói chung, cuốn sách cung cấp cho người đọc rất nhiều thông tin và kiến thức mới mẻ do tác giả đã dày công tham khảo từ nhiều nguồn sách báo và tài liệu đáng tin cậy. Tác giả đã vận dụng khôn khéo nguồn vốn kiến thức của mình để hoàn thành được công trình biên khảo về một đề tài quan trọng, mà cho đến nay chưa mấy ai đã để tâm nghiên cứu khai thác một cách thấu đáo tường tận, để trình bày trong các sách báo viết bằng Việt ngữ chúng ta.

Về hình thức diễn đạt, tác giả đã sử dụng những câu văn thật ngắn gọn, mà dứt khoát xuất phát từ niềm xác tín của mình. Có thể nói cuốn sách này là một bước khai phá độc đáo cho sự tìm hiểu sâu sắc hơn về hiện tình đất nước Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu vào đầu thế kỷ XXI hiện nay, để rồi từ đó người dân có thể tìm ra được một con đường tái thiết và xây dựng thích hợp. Xin ghi ra mấy điểm chi tiết đáng chú ý như sau:

1. Ý niệm Tư hữu qua thời gian
Sau khi lược qua sự biến chuyển về quyền sở hữu trong lịch sử nhân loại, tác giả đã xác quyết rằng: “Từ cổ chí kim, nhân chủng học không phát hiện một xã hội con người nào (mà) không biết đến quyền sở hữu. Sở hữu và Người là hai thành phần cấu tạo căn bản của xã hội. Ðặc tính của cả hai là xuất phát từ tự nhiên.” (trang 52)
a) Nghiên cứu trường hợp nước Anh, tác giả viết: “ Tấm gương chính trị ở Anh chứng minh một nguyên tắc dân chủ hàng đầu: tư hữu có tác dụng hạn chế và kiểm soát quyền lực của nhà nước” (trang 58).
b) Trong khi đó, thì tại nước Nga rất lâu dưới các triều đại phong kiến Sa hoàng: “Vì không có tư hữu, nên dân Nga không có phương cách gì chống lại sự độc tài của vua chúa.” (trang 74)

2. Chiến tranh Tư hữu Toàn cầu
Phần này dài trên 180 trang được dàn trải từ chương 5 đến chương 17, trong đó tác giả dành 7 chương viết về Liên Xô và 3 chương viết về Trung Quốc.
a) Số liệu về sự tàn sát dưới các chế độ cộng sản được ghi lại thật rõ ràng, dựa theo những thống kê chính xác và cập nhật mới đây nhất. Tác giả ghi rõ như sau: “Stephane Courtois, trong tác phẩm ‘sách đen về chủ nghĩa cộng sản’ đã tính có từ 85 đến 100 triệu người thiệt mạng, nghĩa là gấp 1.5 lần số người chết trong cả hai cuộc thế chiến” (trang 104).
b) Trong chương viết về sự sụp đổ của Liên Xô, có đoạn rất đáng chú ý là mục viết về “Tiến trình Helsinki” (từ trang 217 đến 220). Tác giả ghi lại nguyên ủy của tiến trình này là do “Hiệp ước Helsinki” do 35 quốc gia ở Âu Châu cùng với Mỹ và Canada ký kết vào năm 1975,” khẳng định sự tôn trọng nhân quyền và các quyền tự do khác như tự do tư tưởng và tự do tín ngưỡng.” Và từ đó mà các tổ chức NGO tranh đấu cho nhân quyền khắp nơi, đặc biệt là tại Nga và Ðông Âu đã nhất tề đứng lên đòi hỏi tự do, dân chủ, nhân phẩm và nhân quyền cho người dân nước mình. Ðó là một đóng góp quyết định vào sự tan rã của chế độ cộng sản ở Ðông Âu và ở Nga.
c) Trong chương “Trung Quốc và Viễn cảnh Dân chủ,” tác giả ghi rõ về “Lộ trình Hồ Cẩm Ðào” được phác họa trong dịp Ðại Hội 17 của Ðảng Cộng Sản Trung Quốc vào tháng 10 năm 2007. Tác giả viết: “Theo báo cáo của Hồ Cẩm Ðào, Trung Quốc đang đi vào một thời kỳ phát triển mới. Mục tiêu của thời kỳ này là xây dựng một ‘xã hội hài hòa’ và phương tiện để đạt tới mục tiêu đó là chủ nghĩa ‘Dân Chủ Xã Hội’ (Social Democracy)” (trang 281). Tác giả còn ghi thêm về những kiến nghị của Tân Tử Lăng đã viết trong cuốn sách được nhiều người chú ý, đó là cuốn “Mao Trạch Ðông, ngàn năm công tội,” điển hình như câu: “Phải xây dựng hình thái ý thức hài hòa với trào lưu dân chủ thế giới...” (trang 282)

3. Việt Nam trong Chiến tranh Tư hữu Toàn cầu
Phần này gồm 8 chương, dài trên 130 trang. Ðáng chú ý nhất là ở chương 25 chủ yếu trình bày về sự kiện chính Hồ Chí Minh là nhân vật cốt cán đã du nhập chủ nghĩa cộng sản vào Việt Nam. Tác giả viết rất đanh thép rõ ràng: “Vì là nhân viên thừa hành của QTCS (Quốc tế Cộng sản = Comintern), nên giữa chủ nghĩa dân tộc và chủ nghĩa cộng sản quốc tế, Hồ Chí Minh đã chọn con đường thứ hai. Con đường thứ hai này đã được thực tiễn kiểm nghiệm và chứng nghiệm như là một thảm họa cho nhân loại. Ðem thảm họa về cho dân tộc, Hồ Chí Minh và những người trong đảng của ông đã có tội rất lớn đối với tổ quốc.” (trang 408)
Trong đoạn chót với tiêu đề “Trả lại sự thật cho lịch sử,” tác giả đã trưng ra 5 luận điểm của cộng sản Hà Nội được đăng trên báo Quân Ðội Nhân Dân số ra ngày 20 tháng 9, 2009, kèm liền theo các phản biện rất chi tiết và xác đáng của chính tác giả nêu ra để trả lời cho từng luận điểm của giới lãnh đạo cộng sản vẫn còn ngoan cố ngụy biện nhằm tiếp tục phỉnh gạt, mê hoặc quần chúng (trang 411-419).

4. Những trải nghiệm cần rút tỉa
Trong chương kết thúc này, tác giả bày tỏ sự lạc quan với con đường Dân Chủ Xã Hội mà nhiều quốc gia tiến bộ ở Âu Châu, điển hình là Thụy Ðiển đã thực hiện từ nhiều năm nay với sự thịnh vượng kinh tế và ổn định xã hội. Ông khẳng định: “Chủ nghĩa DCXH đang trở thành con đường loài người cùng chấp thuận và đang đưa loài người vào một thời kỳ hòa bình và phát triển.” (trang 431)

Tiếp theo, tác giả còn nêu ra sự kiện rất quan trọng mới đây tại Trung Quốc, đó là vào “Tháng Ba năm 2004, kỳ họp thứ 2 Quốc Hội Khóa 10 đã đưa tư tưởng quan trọng ‘Ba đại diện’ và điều khoản ‘bảo hộ chế độ tư hữu’ vào Hiến Pháp. Ðây là cải cách chính trị quan trọng nhất kể từ thời ‘mở cửa.’” (trang 432)

Cũng cần ghi thêm hai mục cuối cùng trong chương này là: “Việt Nam và Trật Tự Trung Hoa” (Pax Sinica) và “Tầm Nhìn Thế Kỷ.” Tác giả đã chỉ dẫn cho chúng ta con đường phải noi theo để đối phó với sức ép nặng nề của Trung Quốc, đó là tăng cường “Sức mạnh mềm.” Ông viết thật ngắn gọn: “Sức mạnh mềm duy nhất Việt Nam có trong tay là lòng yêu nước và niềm tin của người dân sẽ được sống trong một xã hội tự do dân chủ. Việt Nam có thể chuyển sức mạnh mềm này thành sức mạnh cứng để bảo vệ đất nước, nếu biết bắt chước có chọn lọc và cũng đừng để sự bắt chước xẩy ra quá chậm. Nếu không, cơ hội sẽ tuột khỏi tầm tay như đã nhiều lần xảy ra trong dĩ vãng.” (trang 436)

III. Ðể tóm gọn lại
Cuốn sách này soi sáng cho chúng ta về nhiều vấn đề liên hệ trực tiếp đến sự sống còn và hưng thịnh của đất nước. Tác giả đã đem hết tâm hồn và trí tuệ của mình vào trong công việc tham khảo nghiên cứu để hoàn thành được một tập biên khảo thật sự có giá trị này.

Người viết xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với tác giả Nguyễn Cao Quyền và các bạn hữu thân thiết - mà điển hình là nhà văn Trần Nhật Kim - đã hết lòng cổ võ và hỗ trợ cho tác giả suốt thời gian dài chuẩn bị cho công trình này.

Và xin trân trọng giới thiệu với bạn đọc cuốn sách có thể sử dụng đặc biệt làm tài liệu tham khảo cho các khóa huấn luyện trang bị cho thế hệ trẻ thấu triệt được những đường hướng chính yếu cho công cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước, trong giai đoạn cực kỳ nguy nan của toàn thể dân tộc Việt Nam trước đe dọa xâm lược rất hung hãn thâm độc của tập đoàn hiếu chiến và bành trướng bá quyền phương Bắc vậy.
.
.
.
Tác giả: Nguyễn Cao Quyền
NXB : Tủ Sách Tiếng Quê Hương ấn hành năm 2010


Việt Nam Trong Chiến Tranh Tư Hữu (*) là tựa của một tác phẩm mới do Tiếng Quê Hương xuất bản, vào cuối năm 2010. Đây là một cuốn sách hơi quá khổ, hiểu theo nghĩa bóng, nếu so với nhiều tác phẩm khác (cùng loại) đã xuất hiện trong năm. Tác giả, ông Nguyễn Cao Quyền – một cựu tù nhân chính trị, định cư tại Hoa Kỳ từ năm 1990 – người được mô tả là “một khuôn mặt quen thuộc và tích cực, trong những sinh hoạt tranh đấu cho dân chủ và nhân quyền, ở vùng Hoa Thịnh Đốn.”

Trong quãng đời lưu lạc, gần hai mươi năm qua – chắc chắn – ông Nguyễn Cao Quyền đã dành không ít thời gian để ấp ủ cho tác phẩm nặng ký (gần 500 trang giấy) này. Có thể là hơi quá lời khi mô tả Việt Nam Trong Chiến Tranh Tư Hữu là “một công trình nghiên cứu” nhưng khó mà phủ nhận được rằng tác phẩm đã được thành hình trong tinh thần cầu học, hết sức khách quan và nghiêm túc, của tác giả – chỉ với chủ ý được (trân trọng) ghi nơi trang đầu tiên là: “Xin trả lại sự thật cho lịch sử.”

Và sự thật quan trọng nhất, được Nguyễn Cao Quyền nhấn mạnh, là cần nhận định lại cho đúng bản chất của cuộc chiến tranh Việt Nam. Đó không phải là một cuộc nội chiến, chiến tranh ý thức hệ, chiến tranh ủy nhiệm … gì ráo trọi mà đây (thực chất) chỉ là một cuộc chiến tranh tư hữu – theo nguyên văn lời của tác giả:
“Khi đám mây mù ý thức hệ đã bị phá tan, cuộc chiến chống cộng sản trong thế kỷ qua đã hiện nguyên hình là một cuộc chiến quyết liệt nhất trong lịch sử loài người để bảo vệ quyền tư hữu…” và “quyền tư hữu là một yếu tố cần thiết không những cho sự phát triển kinh tế mà còn cho sự bảo đảm tự do của con người và nền pháp trị của một quốc gia.”

Cũng ở thời điểm này, nhiều nhà trí thức tăm tiếng ở trong nước cũng đã đưa ra những khẳng định tương tự (về sự “thiêng liêng” của quyền tư hữu) với cách diễn tả “tế nhị” hơn – chút xíu:
“Nền quan chế nước ta phải minh định rạch ròi tài sản công và những gì có thể được xem là quyền tài sản tư và ra sức bảo vệ cho những quyền định đoạt của chủ tài sản. Bởi thế, có thể nói hai thập kỉ cải cách dường như mới chỉ là sự bắt đầu, còn ngổn ngang chông gai trên con đường đi tới. Thay đổi cách nhìn nhận về sở hữu, gia tăng bảo hộ quyền tài sản tư nhân của người dân có lẽ nên là một định hướng mà người hoạch định chính sách nước ta quan tâm.”

Cách duy nhất để thay đổi cách nhìn nhận về quyền tư hữu, theo như đề nghị (thượng dẫn) của tiến sĩ Phạm Xuân Nghĩa – nếu nói trắng phớ ra – là giải thể chủ nghĩa cộng sản. Đây là chuyện xẩy đã ra ở Liên Xô, và các nước Đông Âu. Việt Nam, tất nhiên, sớm muộn gì cũng sẽ cùng chung số phận!

Câu hỏi đặt ra là “rồi sao nữa?”
What’s next?

Ông Nguyễn Cao Quyền đã dùng nhiều trang trong chương kết (“Những Trải Nghiệm Cần Rút Tỉa”) của cuốn sách để đề cập đến Chủ Nghĩa Dân Chủ Xã Hội như là một con đường thoát, giữa hiện cảnh bế tắc, cho Việt Nam:
“Sau khi phong trào chủ nghĩa xã hội bạo lực tiêu tan, phong trào ‘chủ nghĩa dân chủ xã hội’ bước ra vũ đài lịch sử với bộ mặt mới, với thành tựu mới, thưc tiễn mới, và lý luận mới…Đây là con đường hoà bình, đầy lý tính, không áp đặt, không tuyên truyền quảng cáo, chỉ có sức hấp dẫn nêu gương. Con đường này không làm hại lợi ích của bất cứ giai cấp nào, tầng lớp nào, không đe doạ an ninh của bất cứ quốc gia, khu vực nào, nên đang được thế gưới quan tâm. Lịch sử đang phát triển như vậy…”

Những lời lẽ xiển dương Chủ Nghĩa Dân Chủ Xã Hội thượng dẫn dễ khiến người đọc liên tưởng đến nhiều khuôn mặt trí thức khác, trong cũng như ngoài nước, cùng có cái nhìn tích cực và lạc quan (tương tự) về chủ nghĩa này: Phan Ðình Diệu, Lữ Phương, Lê Ðăng Doanh, Nguyễn Xuân Nghĩa, Lê Bảo Sơn, Phan Trọng Hùng, Hà Sĩ Phu, Mai Thái Lĩnh ….

Sự dị biệt chỉ ở điểm ông Nguyễn Cao Quyền in rằng: ”Mẫu hình dân chủ xã hội được Hồ Cẩm Đào tuyên bố la con đường tương lai của Trung Quốc. Nói là tương lai nhưng trên thực tế mẫu hình này đang được Bắc Kinh âm thầm áp dụng để tránh phản ứng của nhóm cực tả bảo thủ… Như vậy Việt Nam đã có mẫu hình để sao chép. Thực tế này sẽ xẩy ra. Vấn đề chưa tiên đoán được là nhanh hay chậm. Nếu làm nhanh thì sẽ tránh được thiệt thòi về nhiều phương diện cho cả hiện tại lẫn mai sau.Việt Nam có điều kiện thuận lợi hơn Trung Quốc để ra khỏi ngõ bí hiện nay.”

Trong khi ông Mai Thái Lĩnh, một trong những nhân vật chủ trương Chủ Nghĩa Dân Chủ Xã Hội mạnh mẽ nhất hiện nay tại quốc nội, lại nhìn vấn đề một cách dè dặt và cẩn trọng hơn:
“Hiện nay, sau sự sụp đổ của hệ thống ‘cộng sản’ quốc tế, trên thế giới chỉ còn lại bốn quốc gia còn theo con đường cộng sản. Trong số đó, Trung Quốc và Việt Nam lại đổi hướng bằng cách chuyển qua kinh tế thị trường. Quan sát sự diễn biến ở hai quốc gia này, chúng ta thấy họ từng bước áp dụng những biện pháp giống hệt như những biện pháp mà các đảng dân chủ – xã hội đã từng áp dụng trước đây hơn nửa thế kỷ. Chính vì thế, có sự ngộ nhận cho rằng các đảng cộng sản ở Trung Quốc và Việt Nam đang dần dần lột xác để trở thành các đảng dân chủ -xã hội. Một số nhà ‘cải cách’ trong hai đảng này cũng đang vô tình hay cố ý tạo ra sự ngộ nhận ấy. Nhưng như trên đã nói, sự khác biệt căn bản giữa một đảng dân chủ -xã hội và một đảng cộng sản là ở chỗ: đảng đó có coi dân chủ là mục tiêu ưu tiên hàng đầu hay không? Bao lâu đảng cộng sản còn giữ độc quyền chính trị, không chấp nhận nền dân chủ đa nguyên, coi những ai đấu tranh cho dân chủ là kẻ thù thì cho dù đảng ấy có đổi tên là ‘đảng Lao động’, ‘đảng Nhân dân’, thậm chí ‘đảng Dân chủ – Xã hội’ v.v. và v.v, đảng ấy vẫn chưa lột xác và trong thực chất vẫn là ‘đảng Cộng sản.’ Lenin đã từng coi “chuyên chính vô sản” là viên đá thử vàng để xác định ai là người mác-xít chân chính nhất. Ngày nay, chúng ta cũng phải dùng “dân chủ” như viên đá thử vàng để xác định ai là người dân chủ – xã hội thật và ai là người cộng sản đội lốt dân chủ – xã hội.”

Sự dị biệt nêu trên, vào thời điểm này, chưa phải là vấn đề cần phải bận tâm ngay. Điều thực sự quan trọng, và rất đáng mừng – trong tầm nhìn của kẻ viết những dòng chữ này, một thường dân – là quí vị thức giả (trong cũng như ngoài nước) đã có sự đồng thuận lớn về những vấn đề sinh tử hiện nay của cả dân tộc: quyền tư hữu và sinh lộ để thoát khỏi vũng bùn cộng sản hiện nay: Chủ Nghĩa Dân Chủ Xã Hội.

Trong một buổi toạ đàm, có tên gọi là “Trí thức và Dân chủ” , tổ chức tại Moskva vào ngày 4 tháng 3 năm 2009, ông Adam Mikhnik (Tổng Biên tập báo Gazeta Wyborcza) đã kể lại kinh nghiệm về tiến trình dân chủ hoá ở Ba Lan như sau:
“Trí thức trở thành đối lập với chính quyền. Chính quyền không thể dùng họ như những cái loa tuyên truyền được nữa. Nhiều người trí thức chuyển sang đối lập với hệ thống có nghĩa là về mặt lịch sử số phận của hệ thống đã được quyết định. Nhà nước không thể tồn tại lâu nếu nó không được những người có học ủng hộ. Sự ủng hộ đã trở thành dĩ vãng. Nếu trong những năm 1940 các nhà văn và các nhà khoa học nổi tiếng đã ủng hộ chính quyền vì lí tưởng thì cuối những năm 1960 điều đó đã không còn. Một phần vì lí tưởng đã lụi tàn, một phần vì ủng hộ thì sẽ bị xã hội lên án. Xã hội cho phép cộng tác với hệ thống với điều kiện là khi nằm trong hệ thống người đó phải thực hiện nhiệm vụ của chính quyền sao cho nó không giúp mà còn phản lại chính quyền (ND, Phạm Minh Ngọc, nhấn mạnh)… Chính quyền không biết phải xử trí với trí thức như thế nào. Họ đã bỏ gậy rồi, còn củ cà rốt của họ thì lại chẳng mua chuộc được ai.” (**)

Có thể nói mà không sợ mang tiếng cường điệu “ là về mặt lịch sử số phận của hệ thống cầm quyền ở Việt Nam đã được quyết định.” Vấn đề còn lại là cả dân tộc này có đồng lòng lựa chọn con đường Dân Chủ Xã Hội như một lối ra – như cụ Phan chu Trinh đã đề xướng hồi đầu thế kỷ trước – hay không?

Với cái di sản của Xã Hội Chủ Nghĩa vẫn còn đè nặng trên nửa phần đất nước, và những “kỷ niệm buồn” với Chủ Nghĩa Tư Bản vẫn còn vương vấn nơi nửa phần đất nước còn lại, con đường Dân Chủ Xã Hội – với sự hấp dẫn tự thân của nó, có thể kiểm nghiệm được khi nhìn sang những quốc gia Tây Âu và Bắc Âu – có lẽ là đề xuất thuyết phục (nhất) cho hiện cảnh của Việt Nam.

Chế độ Dân Chủ Xã Hội, nếu học theo cách nói của Winson Churchill, có thể vẫn chỉ là một hình thức chính quyền tồi, nhưng các hình thức khác mà nhân loại đã từng thử nghiệm còn tồi hơn thế.

© Tưởng Năng Tiến
©Đàn Chim Việt Online

(*) Tác phẩm Việt Nam Trong Chiến Tranh Tư Hữu của tác giả Nguyễn Cao Quyền mới được ra mắt ngày 16/10/2010 tại Virginia USA. Độc giả có thể đặt mua tại Tủ Sách Tiếng Quê Hương : Trần Phong Vũ, 14924 Dillow Street Westminster CA 92683, ĐT (949) 232- 8660; hoặc Uyên Thao, PO Box 4653, Falls Church, VA 22044, USA.

(**) Đường link của bài viết này (“Trí thức và quá trình dân chủ hoá – Kinh nghiệm Ba Lan”) cũng như đường link của nhiều bài viết khác trên diễn đàn talawas không thể truy cập được nữa từ hai ngày nay – 01/01/2011 và 02/01/2011. Đây là dấu hiệu cho thấy là CAM sẽ không để yên cho trang web này tồn tại, dù nó đã ngưng hoạt động từ ngày 03 tháng 11 năm 2010

.
.
.

No comments: