Linh Vũ
8.6.2007
Trích chương IX, Quyền lực của Không Quyền lực của Václav Havel, bản dịch của Khải Minh trên talawas.
“Sự khủng hoảng nghiêm trọng của con người xuất hiện do sống trong dối trá, một cuộc khủng hoảng mà đến lượt nó lại làm cho một cuộc sống như vậy trở nên khả thi, chắc chắn phải mang một chiều kích đạo đức nữa: nó bộc lộ, bên cạnh những đặc điểm khác, như là một cuộc khủng hoảng đạo đức sâu sắc trong xã hội. Một người đã từng bị hấp dẫn bởi hệ thống giá trị tiêu thụ, người mà bản sắc đã bị hoà tan trong những trang phục hỗn tạp của nền văn minh đại chúng, người không có gốc rễ trong trật tự của tồn tại, không có cảm nhận trách nhiệm về bất kì cái gì ngoài sự sinh tồn của bản thân, là một người bị vô đạo đức hoá. Hệ thống dựa vào sự vô đạo đức hoá này, khoét sâu nó, và trên thực tế hệ thống ấy chính là sự phóng chiếu sự vô đạo đức lên xã hội.
Ngược lại, sống trong sự thật, như là sự nổi dậy của con người chống lại sự sắp đặt cưỡng bức, là một cố gắng giành lại quyền kiểm soát cảm nhận của cá nhân về trách nhiệm. Nói cách khác, nó hiển nhiên là một hành vi đạo đức, không chỉ vì người ta phải trả giá đắt cho nó, mà cơ bản là vì nó vô tư lợi: rủi ro có thể được đền đáp dưới hình thức chữa lành bệnh cho hiện trạng, mà cũng có thể không. Về mặt này, như tôi đã trình bày trước đây, nó là một canh bạc được tất hoặc mất tất, và thật khó mà tưởng tượng được một con người duy lý lại bước lên con đường chông gai ấy chỉ vì anh ta tin rằng hi sinh hôm nay sẽ đem lại lợi ích ngày mai - dưới hình thức sự cảm kích của công chúng. (Nhân tiện, những người đại diện cho quyền lực luôn vu khống những người sống trong sự thật bằng cách không ngừng quy kết những động cơ vị lợi cho họ - sự thèm muốn quyền lực, danh vọng, hay tiền tài - và do đó chúng đã thử, ít nhất là tìm cách dính líu những người sống trong sự thật này vào thế giới của chúng, thế giới của sự phi đạo đức tổng thể).” [1]
Như vậy theo Havel, trái với lý thuyết về một nền đạo đức khắc khổ mang tính Thanh giáo như là phẩm chất của “con người mới xã hội chủ nghĩa” sống trong hệ thống hậu toàn trị (dùng từ của Havel), trên thực tế, hệ thống này khuyến khích việc tôn thờ chủ nghĩa tiêu thụ và sự vô trách nhiệm với bất cứ cái gì ngoài sinh tồn cá nhân. Bởi lẽ, đó là các yếu tố đảm bảo cho cá nhân trong xã hội sẽ tiếp tục yên ổn “sống trong dối trá”, chấp nhận tính hợp lý trong sự tồn tại của hệ thống. Điều tưởng như nghịch lý đó lại hoá ra là hợp lý, cần thiết cho sự vận hành của hệ thống. Chứ hoàn toàn không phải là sự tha hoá, vô trách nhiệm, chạy theo chủ nghĩa tiêu dùng ấy là do “tác động tiêu cực của cơ chế thị trường, của lối sống phương Tây chạy theo giá trị vật chất tầm thường” hoặc do sự “thoái hoá biến chất của một bộ phận cán bộ đảng viên” nào đó. Hệ thống hậu toàn trị có khả năng dung hợp được những chủ nghĩa tiêu thụ và hưởng thụ một cách rất dễ dàng, thậm chí còn ngầm khuyến khích nó. Nói cách khác, hệ thống khuyến khích sự vô đạo đức hoá xã hội. Như Havel nói, “Hệ thống dựa vào sự vô đạo đức hoá này, khoét sâu nó, và trên thực tế hệ thống ấy chính là sự phóng chiếu sự vô đạo đức lên xã hội.”
Hãy liên tưởng tới bộ phim Đức của đạo diễn Donnersmarck mới đoạt giải Oscar năm 2007 cho phim nước ngoài xuất sắc nhất, Cuộc sống của những người khác. [2] Liệu có trùng hợp không, mà một tác phẩm khác về cuộc sống dưới một chế độ hậu toàn trị cũng có tên là Cuộc sống không ở đây. [3] Đó hẳn là bi kịch của những cá nhân bị sự vô đạo đức hoá của hệ thống tìm cách làm tha hoá, sống trong một hệ thống mà giá trị đạo đức được chấp nhận, khuyến khích và tán dương nhiều nhất là sự tuân thủ với các lẽ dối trá (và với các mỹ từ che đậy cho cơn khủng hoảng đạo đức: thức thời, nhẫn...). Bi kịch cuộc đời của con người trong các chế độ hậu toàn trị chính là ở chỗ họ phải “sống trong giả dối” (mượn từ của Havel) và do thế, cuộc sống của họ “ở một nơi nào đó” hay “của những người khác”.
Bộ phim Cuộc sống của những người khác lấy bối cảnh Đông Đức trước khi thống nhất. Nhân vật chính trong phim là Wiesler, một sĩ quan an ninh của cơ quan tình báo Đông Đức Stasi, được giao nhiệm vụ theo dõi nhà viết kịch Dreyman. Đạo diễn Donnersmarck đã mô tả sự biến chuyển tâm lý của Wiesler từ nghi ngờ và hằn học với Dreyman chuyển sang đồng cảm và giúp đỡ cho người này. Trong khi đó, người tình của Dreyman là Christa-Maria, một diễn viên nổi tiếng, cũng phải bán thân mình cho một viên bộ trưởng trong chính quyền Đông Đức để đổi lấy an toàn và sự nghiệp cho bản thân mình và cho Dreyman. Sau cái chết do tự tử vì bị chế độ truy bức của bạn Dreyman là đạo diễn sân khấu Jerska, Dreyman dần dần chuyển từ vị trí ủng hộ sang phản đối chế độ. Dreyman viết một bài báo về tình trạng tự tử rất phổ biến ở Đông Đức nhưng bị chính quyền che đậy và ngầm gửi sang cho báo chí Tây Đức. Nghi ngờ Dreyman là tác giả bài báo, an ninh Đông Đức tìm cách ép Christa-Maria phản bội Dreyman. Một số phận bi kịch, có lẽ không khác gì như của Jerska, lẽ ra đã chờ đợi Dreyman, nếu không có sự giúp đỡ vô danh của Wiesler. Từ một viên sĩ quan an ninh một mực trung thành với chế độ, Wiesler đã dám chấp nhận mạo hiểm, hy sinh cả sự nghiệp để cứu Dreyman thoát khỏi tù đày và truy bức.
Lý giải thế nào về hành động đó của Wiesler? Tất nhiên, có thể hiểu đó là chiến thắng của lương tâm con người và cái thiện. Những cuộc đấu tranh giữa cái thiện và cái ác như thế sẽ xảy ra ở bất kỳ thời nào, chế độ nào. Nhưng hiểu theo một góc độ cụ thể hơn, gắn với bối cảnh của bộ phim thì đó chính là hành động tìm lại đạo đức như Havel nói, là cố gắng sống trong sự thực, giành lại quyền kiểm soát cá nhân về trách nhiệm.
Wiesler là một nhân vật rất đẹp, vì anh ta đi từ chỗ bị vô đạo đức hoá triệt để bởi hệ thống, sống cuộc đời của một cái máy, một mắt xích vận hành hoàn hảo đúng như hệ thống mong muốn, chấp nhận tất cả những gì hệ thống mong đợi, tới việc anh ta giành lại cảm nhận về trách nhiệm bản thân. Đó là sự chuyển biến từ sự mất ý thức về cá nhân và trách nhiệm cá nhân tới sự tự do (người ta chỉ có thể tự do khi người ta có thể lựa chọn và cảm thấy trách nhiệm cá nhân cho các lựa chọn của mình).
Cảnh cuối của phim là một cảnh rất cảm động và nhiều chất thơ. Sau ngày thống nhất, khi Wiesler biết được có một nhân viên Stasi có bí danh HGW XX/7 (bí danh của Wiesler) đã cứu mình, ông viết một cuốn sách lấy tên “Bản sonata dành cho một người tốt” và đề tặng HGW XX/7. Wiesler, lúc này làm nghề đưa thư, nhìn thấy cuốn sách và mua nó. Khi người bán hàng hỏi có phải ông mua cuốn sách này để làm quà tặng không, Wiesler trả lời với một nụ cười nhẹ nhàng “Không. Là cho tôi”. Câu nói này của Wiesler không chỉ thể hiện niềm tự hào với việc tốt trong đời mà ông làm được, mà nó còn là ý thức về sự tự do và trách nhiệm cá nhân, và sự tự giải phóng bản thân mình khỏi vai trò một công cụ vô cảm và chính xác của hệ thống. Ông đã tìm được sự bình an và thanh thản trong việc tốt mình đã làm.
Lý giải thế nào về hành động đó của Wiesler? Tất nhiên, có thể hiểu đó là chiến thắng của lương tâm con người và cái thiện. Những cuộc đấu tranh giữa cái thiện và cái ác như thế sẽ xảy ra ở bất kỳ thời nào, chế độ nào. Nhưng hiểu theo một góc độ cụ thể hơn, gắn với bối cảnh của bộ phim thì đó chính là hành động tìm lại đạo đức như Havel nói, là cố gắng sống trong sự thực, giành lại quyền kiểm soát cá nhân về trách nhiệm.
Wiesler là một nhân vật rất đẹp, vì anh ta đi từ chỗ bị vô đạo đức hoá triệt để bởi hệ thống, sống cuộc đời của một cái máy, một mắt xích vận hành hoàn hảo đúng như hệ thống mong muốn, chấp nhận tất cả những gì hệ thống mong đợi, tới việc anh ta giành lại cảm nhận về trách nhiệm bản thân. Đó là sự chuyển biến từ sự mất ý thức về cá nhân và trách nhiệm cá nhân tới sự tự do (người ta chỉ có thể tự do khi người ta có thể lựa chọn và cảm thấy trách nhiệm cá nhân cho các lựa chọn của mình).
Cảnh cuối của phim là một cảnh rất cảm động và nhiều chất thơ. Sau ngày thống nhất, khi Wiesler biết được có một nhân viên Stasi có bí danh HGW XX/7 (bí danh của Wiesler) đã cứu mình, ông viết một cuốn sách lấy tên “Bản sonata dành cho một người tốt” và đề tặng HGW XX/7. Wiesler, lúc này làm nghề đưa thư, nhìn thấy cuốn sách và mua nó. Khi người bán hàng hỏi có phải ông mua cuốn sách này để làm quà tặng không, Wiesler trả lời với một nụ cười nhẹ nhàng “Không. Là cho tôi”. Câu nói này của Wiesler không chỉ thể hiện niềm tự hào với việc tốt trong đời mà ông làm được, mà nó còn là ý thức về sự tự do và trách nhiệm cá nhân, và sự tự giải phóng bản thân mình khỏi vai trò một công cụ vô cảm và chính xác của hệ thống. Ông đã tìm được sự bình an và thanh thản trong việc tốt mình đã làm.
Đối ngược với Wiesler, hành động của Christa-Maria trong phim lại là một bi kịch hiển hiện của sự vô đạo đức hoá do hệ thống khuyến khích. Buồn thay, đó lại là một bi kịch rất phổ biến trong các xã hội hậu toàn trị, dù trong hầu hết các trường hợp, nó có hình thức êm ả và khó nhận thấy hơn nhiều so với trường hợp của Christa-Maria. Cách khai thác, nô dịch hoá con người của hệ thống với Christa-Maria rất tinh vi. Mồi lợi và sự đe doạ của nó là những quyền lợi và ưu đãi về nghề nghiệp, vị trí, tiền bạc. Và hệ thống đó cũng tìm cách làm đối tượng mất ý thức trách nhiệm cá nhân bằng cách chỉ ra rằng xung quanh ai cũng làm thế. Nó nói với bạn rằng làm như thế là bạn đã thực hiện nghĩa vụ công dân tốt, và là một hành vi đạo đức, hay là một sự hy sinh vì lợi ích chung. Quá trình tha hoá của Christa-Maria cũng được thực hiện từng bước. Ban đầu là làm tình với viên bộ trưởng để giữ vị trí và việc làm cho cô và người tình. Dần dần, hệ thống dẫn dắt, ép buộc cô phải phản bội người tình, trở thành một công cụ của hệ thống. Ngược lại chiều vận động của Wiesler, Christa-Maria từ một nghệ sĩ (mà nghệ sĩ thì thường được coi là người khá tự do trong xã hội) trở thành kẻ bị nô dịch cả về tinh thần lẫn thể xác.
Ngay cả cái chết của cô cũng giống như một tai nạn hơn là một vụ tử tự, khác với một hành vi có tính toán, thể hiện trách nhiệm cá nhân như cái chết của Jerska. Đó là vì Jerska là người tự do tinh thần còn Christina-Maria thì không. Jerska là nạn nhân của hệ thống, còn Christa-Maria vừa là nạn nhân vừa là công cụ của hệ thống. Cái chết của Jerska là bằng chứng về sự đàn áp của hệ thống, còn cái chết của Christa-Maria tố cáo sự vô đạo đức hoá, phi cá nhân hoá của hệ thống với con người.
Nhưng tôi vẫn nghĩ, hơn mọi yếu tố khác, chính sự chứng kiến việc Christa-Maria bị hệ thống “vô đạo đức hoá” là nguyên nhân chủ yếu khiến những người như Wiesler thức tỉnh trong quá trình hướng tới việc tìm lại trách nhiệm cá nhân. Cũng như những người vô danh nào đó có thể sẽ thức tỉnh phần nào khi đọc bài báo của Dreyman về những cái chết do tự tử của rất nhiều người Đông Đức - những bi kịch cuộc đời của những người có “cuộc sống không ở đây” từng bị hệ thống đàn áp, khinh miệt và rồi dửng dưng, cố tình lãng quên như thể họ chưa từng tồn tại trong cõi đời. Chắc hẳn đó cũng là lý do tại sao bức tường Berlin cuối cùng sụp đổ sau hơn 40 năm. Người ta không thể nào tiếp tục sống mãi bằng “cuộc sống của những người khác”. Rồi cũng có lúc họ phải nói Goodbye Lenin. [4]
© 2007 talawas
Ngay cả cái chết của cô cũng giống như một tai nạn hơn là một vụ tử tự, khác với một hành vi có tính toán, thể hiện trách nhiệm cá nhân như cái chết của Jerska. Đó là vì Jerska là người tự do tinh thần còn Christina-Maria thì không. Jerska là nạn nhân của hệ thống, còn Christa-Maria vừa là nạn nhân vừa là công cụ của hệ thống. Cái chết của Jerska là bằng chứng về sự đàn áp của hệ thống, còn cái chết của Christa-Maria tố cáo sự vô đạo đức hoá, phi cá nhân hoá của hệ thống với con người.
Nhưng tôi vẫn nghĩ, hơn mọi yếu tố khác, chính sự chứng kiến việc Christa-Maria bị hệ thống “vô đạo đức hoá” là nguyên nhân chủ yếu khiến những người như Wiesler thức tỉnh trong quá trình hướng tới việc tìm lại trách nhiệm cá nhân. Cũng như những người vô danh nào đó có thể sẽ thức tỉnh phần nào khi đọc bài báo của Dreyman về những cái chết do tự tử của rất nhiều người Đông Đức - những bi kịch cuộc đời của những người có “cuộc sống không ở đây” từng bị hệ thống đàn áp, khinh miệt và rồi dửng dưng, cố tình lãng quên như thể họ chưa từng tồn tại trong cõi đời. Chắc hẳn đó cũng là lý do tại sao bức tường Berlin cuối cùng sụp đổ sau hơn 40 năm. Người ta không thể nào tiếp tục sống mãi bằng “cuộc sống của những người khác”. Rồi cũng có lúc họ phải nói Goodbye Lenin. [4]
© 2007 talawas
[1]Các chữ nghiêng là nhấn mạnh của tác giả bài viết này.
[2]Tên tiếng Đức Das Leben der Anderen. Bộ phim này đã được trình chiếu ở Viện Goethe Hà Nội trong tuần lễ phim Đức.
[3]Tên tiếng Anh Life is Elsewhere, tiểu thuyết của Kundera. Bản dịch tiếng Việt lấy tên Cuộc sống không ở đây của Cao Việt Dũng.
[4]Tên một phim khác của Đức về thời kỳ trước và sau khi bức tường Berlin sụp đổ
[2]Tên tiếng Đức Das Leben der Anderen. Bộ phim này đã được trình chiếu ở Viện Goethe Hà Nội trong tuần lễ phim Đức.
[3]Tên tiếng Anh Life is Elsewhere, tiểu thuyết của Kundera. Bản dịch tiếng Việt lấy tên Cuộc sống không ở đây của Cao Việt Dũng.
[4]Tên một phim khác của Đức về thời kỳ trước và sau khi bức tường Berlin sụp đổ
---------------------------------------------
The lives of others ( Das Leben der Anderen ) beginning
.
.
.
No comments:
Post a Comment