Sunday, September 13, 2009
BẮC KINH SẴN SÀNG LÃNH ĐẠO THẾ GIỚI ?
Bắc Kinh sẵn sàng lãnh đạo thế giới?
Evan S. Medeiros
Nguyễn Ước dịch
13/09/2009 6:37 sáng
http://www.talawas.org/?p=10177
Lời người dịch: Bài này được dịch toàn văn từ tiểu luận “Is Beijing Ready for Global Leadership” của Evan S. Mederios, đăng trong Current History – A Journal of Contemporary World Affairs (Lịch sử Hiện thời – Tạp chí Sự vụ Thế giới Ðương đại), số đặc biệt China and East Asia (Trung Quốc và Ðông Á), tháng 9 năm 2009, xuất bản tại Hoa Kỳ.
Giới thiệu về tác giả, tạp chí ấy viết: “Tháng Tám vừa qua Evan S. Medeiros trở thành giám đốc các vụ Trung Quốc, Ðài Loan và Mông Cổ tại Hội đồng An ninh Quốc gia Hoa Kỳ. Ông hoàn thành tiểu luận này lúc còn làm chuyên viên cao cấp của RAND Corporation. Bài này phản ánh quan điểm riêng của tác giả, không phải của chính phủ Hoa Kỳ, HÐANQG hay chính quyền Obama.”
Nguyễn Ước
------------------------------
Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu là thời điểm sôi nổi đối với các nhà lãnh đạo Trung Quốc (TQ). Trong giới ưu tuyển (elite) tại TQ có không khí nhuốm mùi tự tin tất thắng. Truyền thông thế giới tràn ngập những suy đoán về sự nghiêng chiều của lịch sử từ Hoa Kỳ (HK) sang TQ. Mọi nền kinh tế chính của phương Tây đều bị chấn thương. Các định chế tài chính của họ từng có thời được xem là bạch y hiệp sĩ của chủ nghĩa tư bản toàn cầu nay ngã gục, một số chí tử. Giờ đây TQ kiêu hãnh có được ba ngân hàng lớn nhất thế giới, các vị trí từng bị những con vật to tướng của HK nắm giữ, như Citigroup và Bank of America.
Trong khi đó, nhóm G-8 trở thành lỗi thời, tựa một khái niệm bị biến đổi qua một đêm. Nhóm G-20 xuất hiện làm kẻ kế thừa của nó trong thực tế, với TQ như một thành viên lãnh đạo. Hai hội nghị thượng đỉnh đầu tiên của các nguyên thủ nhà nước G-20 tổ chức tại Washington và Luân Ðôn, Mecca và Medina của hệ thống tài chính phương Tây đầy ắp cơ hội cho TQ. Trung Quốc – giờ đây là cường quốc thương mại và kinh tế lớn thứ ba của thế giới – sắp làm gì? Liệu nó có đảm đương trách nhiệm lãnh đạo toàn cầu?
Thực tế, các hành động của Bắc Kinh rất xa với những gì từng được dự báo bởi những người có khả năng thấy trước thuộc môn học mới “địa-kinh tế” (geo-ecomnomics). Tại hội nghị thượng đỉnh G-20 ở Washington tháng Mười Một năm 2008, đáp ứng ban đầu của TQ đối với cuộc khủng hoảng tài chính là, về cơ bản, nói rằng “Chúng tôi sẽ giúp thế giới bằng cách tự giúp mình.” Ðóng góp của TQ là gói kích cầu nội địa 4.000 tỉ Nhân dân Tệ (590 tỉ Mỹ kim), trong đó một số đã ở sẵn trong tiến trình giải quyết. Tại hội nghị thượng đỉnh Luân Ðôn tháng Tư năm 2009, TQ vận động hành lang để có tiếng nói lớn hơn trong Quỹ Tiền tệ Quốc tế (QTTQT – IMF) nhưng miễn cưỡng cam kết đóng góp nguồn tài chính để tái cung cấp vốn cho quỹ đó. Thậm chí người ta còn kể là đã có sự mặc cả Mỹ-Trung tại hội nghị thượng đỉnh này. Suốt cuộc thương lượng về các bản tuyên bố song hành dành cho báo chí, đã có sự đồng thuận rộng rãi về tính chất nghiệm trọng của khủng hoảng kinh tế và nhu cầu hành động phối hợp. Tuy thế, các nhà ngoại giao TQ đã chắc chắn một từ ngữ phải bị loại ra khỏi bản tuyên bố của họ: lãnh đạo.
Thái độ của TQ tại Washington và Luân Ðôn cho thấy nhiều chỉ dẫn có ích. Trung Quốc đã thật sự thành một diễn viên toàn cầu. Có một ít vấn đề toàn cầu mà TQ không nhất thiết phải dự phần để có giải pháp. Những nhà lập chính sách của TQ và dân chúng của nó, một cách đầy thiện cảm, chấp nhận sự chú ý và sự khác biệt ấy, kết quả có được từ địa vị của TQ như một cường quốc đang lên mà thế giới ngày càng cần tới nó. Tuy thế, đối với TQ, cũng có những giới hạn. Những nhà lập chính sách của TQ thường vạch rõ, vào những thời điểm đều đặn, rằng chính sách ngoại giao của họ phục vụ các mục tiêu cải tổ và phát triển ở trong nước. Các nhà lãnh đạo TQ sợ rằng việc đảm đương quá nhiều trách nhiệm sẽ làm chệch sự chú ý của họ và làm cạn kiệt tài nguyên quốc gia.
Kết quả là xuất hiện sự căng thẳng giữa cộng đồng quốc tế và TQ: thế giới muốn TQ làm nhiều hơn trong khi đó, Bắc Kinh sôi nổi dò dẫm lối đi của mình hướng tới qui chế mới tìm được cùng ảnh hưởng, các trách nhiệm, các kỳ vọng và những đòi buộc của nó. Trong khi có thể là một diễn viên toàn cầu, TQ chưa tự xem mình như một cường quốc thế giới – lại càng không là một lãnh đạo toàn cầu. Và các nhà lãnh đạo TQ muốn giữ nó theo cách đó, ít ra trong lúc này.
Cánh cửa cơ hội
Việc am hiểu quan điểm của TQ về vai trò của nó trong thế giới bắt đầu với việc hiểu rõ các kinh nghiệm của nó trong quá khứ. Các nhà lập chính sách và các học giả của TQ nhìn thế giới qua ba thấu kính đã được quyết định về mặt lịch sử; chúng nhuộm màu và điều chỉnh độ đậm nhạt các nhận thức của họ về địa vị của TQ.
Thứ nhất, TQ đang trong quá trình đòi lại qui chế của nó như một cường quốc chính trong khu vực, và cuối cùng, như một đại cường – dù mục tiêu sau không được xác định hay phát biểu rõ ràng. Các nhà lập chính sách và các nhà phân tích của TQ đề cập tới sự trỗi dậy của TQ như là “sự tái tiếp sinh khí” (revitalization) và “sự làm cho trẻ lại” (rejuvenation).
Thứ hai, nhiều người TQ thấy mình là nạn nhân của “100 năm hổ thẹn và bị sỉ nhục” trong bàn tay của các cường quốc phương Tây và nước ngoài khác, đặc biệt Nhật Bản. Cổ động của chính quyền TQ về sự nạn nhân hóa này được kể đi kể lại suốt hơn 60 năm qua, đã nuôi dưỡng tính nhạy cảm sâu sắc đối với tình trạng bị cưỡng bức bởi các sức mạnh ngoại quốc và đặc biệt, những xâm phạm (có thật hoặc được nhận thức) chủ quyền của nó.
Cuối cùng, TQ có quan điểm an ninh mang tính phòng thủ, nảy sinh từ những sợ hãi (dựa trên kinh nghiệm lịch sử) rằng các sức mạnh ngoại quốc sẽ khai thác những nhược điểm quốc nội của nó để kiềm chế hoặc ép buộc nó.
Các quan điểm vừa kể báo cho biết xác thực hơn những nhận thức của TQ về môi trường quốc ngoại hiện thời. Lúc này, có niềm tin được duy trì một cách rộng rãi rằng kết quả của TQ bị liên kết, một cách không thể gỡ, với phần còn lại của thế giới hơn bao giờ hết. Theo lời trong bạch thư quốc phòng của TQ năm 2008 thì: tương lai và vận mệnh của TQ ngày càng nối kết gần gũi hơn với cộng đồng quốc tế. Trung Quốc không thể phát biểu cô lập với phần còn lại của thế giới, và thế giới cũng không thể vui hưởng thịnh vượng cùng ổn định mà không có TQ. Cùng lúc đó, trong giới ưu tuyển vẫn lan tỏa dai dẳng một sự bất định về phạm vi và tính chất nghiêm trọng của những đe dọa các lợi ích an ninh và kinh tế của TQ. Ðối với một số người, TQ chưa bao giờ rất an ninh, đối với những người khác, số lượng và kiểu mẫu những hăm dọa ấy đang gia tăng, kích động sự bất ổn sâu xa trong tương lai gần.
Sau khi cân nhắc kỹ, các lãnh đạo chóp bu của TQ kết luận rằng môi trường quốc ngoại của họ thuận lợi và rằng khoảng thời gian từ 15 tới 20 năm tới biểu hiện một “cánh cửa cơ hội mang tính chiến lược” (zhanlue jiyuqi: chiến lược cơ hội kỳ) cho TQ để đạt mục tiêu tối hậu của nó là tái tiếp sinh khí cho quốc gia qua sự phát triển tiếp tục quân sự, xã hội và kinh tế. Các nhà lập chính sách của TQ tìm kiếm, tới mức khả thi, mở rộng cánh cửa cơ hội ấy thông qua ngoại giao.
Chiến lược nhất quán
Nhận thức của TQ về các lợi ích và điạ vị của nó trong thế giới đã sản sinh một chuỗi riêng biệt và rõ rệt các chính sách và mục tiêu ngoại giao có tính sách lược. Những cái đó bao gồm, một cách tập thể, một chiến lược quốc tế tương đối nhất quán (nhưng không luôn luôn chặt chẽ).
Trước hết, các nhà lập chính sách của TQ từng nói rõ trong nhiều thập niên rằng TQ tìm cách duy trì một môi trường quốc tế ổn định để tạo thuận lợi cho công cuộc cải tổ và phát triển tại quốc nội. Trọng tâm quốc nội ấy đưa tới sự đa dạng ngày càng tăng các yêu cầu quốc ngoại. Trung Quốc sử dụng linh hoạt ngành ngoại giao của mình để mở rộng việc tiếp cận các thị trường, vốn, kỹ thuật và tài nguyên thiên nhiên.
Thứ hai, TQ tìm cách làm cho cộng đồng quốc tế yên tâm rằng khả năng đang gia tăng của TQ sẽ không gây phương hại tới các lợi ích an ninh và kinh tế của các nước khác, cách riêng các lân bang châu Á của nó và những nước được nó xem là “các cường quốc chính”.
Thứ ba, chính sách ngoại giao của TQ, đặc biệt tại châu Á, là tìm cách giảm thiểu, một cách cá thể hoặc tập thể, năng lực hoặc ý nguyện của các nước khác muốn kiềm chế, cưỡng ép TQ hoặc ngược lại, gây trở ngại cho việc tái tiếp sinh khí của TQ.
Thứ tư, TQ đang phấn đấu để đa dạng hóa tiếp cận của nó vào năng lượng và các tài nguyên thiên nhiên khác, với việc đặt trọng tâm vào châu Phi, Trung Ðông và châu Mỹ La-tinh. An toàn năng lượng bao gồm việc đa dạng hóa nguồn cung cấp cùng lộ trình vận chuyển các cung cấp.
Thứ năm, TQ tìm cách giảm thiểu không gian quốc tế của Ðài Loan và giới hạn khả năng cung cấp tính chính thống cho Ðài Loan của các quốc gia khác. Những biểu thị của mục tiêu này đã dịu bớt trong năm vừa qua, theo sau các cải thiện trong quan hệ đôi bờ, nhưng nó vẫn là một mục tiêu cốt lõi.
Trung Quốc đã và đang phát triển một số các phương cách hiệu nghiệm mới để theo đuổi năm mục tiêu vừa kể. Bắc Kinh đã thiết lập “các quan hệ đối tác chiến lược” (strategic partnerships) với nhiều nước phát triển cũng như đang phát triển và khởi xướng “những cuộc đối thoại chiến lược” (strategic dialogues) cấp cao với nhiều cường quốc chính. Nó bao gồm các định chế đa phương, trong từng khu vực, và về một số chủ đề mang tính chức năng. Việc TQ mở rộng vai trò của nó trong các tổ chức hiện hành và việc TQ thành lập các tổ chức mới đã trở thành yếu tố chủ yếu trong hoạt động ngoại giao khu vực của nó.
Việc TQ sử dụng ngoại giao kinh tế thì cường mãnh và mang nhiều bộ mặt; nó không chỉ bao gồm thương mại song phương mà còn đầu tư trực tiếp ra bên ngoài, những sắp xếp tài chính, viện trợ phát triển, các hiệp ước tự do thương mại, để tiến tới những mục tiêu chính trị và kinh tế. Giờ đây, ngoại giao quân sự của TQ bao gồm sự tham dự bao quát các chiến dịch gìn giữ hoà bình của Liên hiệp quốc (LHQ), trao đổi quốc phòng ở cấp cao, phối hợp tập trận, huấn luyện và đào tạo phối hợp; mục tiêu chính của các nỗ lực nâng cao đó là làm yên tâm.
Liệu tất cả những điều vừa kể có ý nghĩa gì đối với vai trò của TQ trên thế giới?
Trung Quốc đã và đang hoạt động trên qui mô lớn bên trong – quả thật, ảnh hưởng có tính đòn bẩy một cách khéo léo – hệ thống quốc tế hiện thời để tiến tới các mục tiêu ngoại giao có tính sách lược của nó. Trung Quốc thấy trong việc sử dụng hệ thống hiện thời có nhiều cơ hội hơn là những bó buộc đối với việc tăng tiến các lợi ích của mình. Thái độ quốc tế của TQ không bị lèo lái một cách ý thức hệ. Bắc Kinh không theo đuổi một chính sách ngoại giao mang tính cách mạng vốn ưu tiên tìm cách sở đắc lãnh thổ mới, giả mạo các liên minh cân bằng, hoặc tiến tới các kiểu mẫu chọn lựa này nọ của phát triển kinh tế hay an ninh toàn cầu.
Tóm lại, TQ đang không ra sức để giật sập hoặc xét lại tận gốc những tập hợp hiện hành của các qui tắc, chuẩn mực và các định chế toàn cầu trong các sự vụ an ninh và kinh tế. Ðúng hơn, nó đang tìm cách làm chủ chúng để tăng tiến lợi ích của mình – một lối tiếp cận cho tới thời điểm này, đã chứng tỏ hoàn toàn sinh lợi cho Bắc Kinh.
Chắc chắn TQ không mãn nguyện với những thuộc tính nhất định của nguyên trạng hiện thời, thí dụ qui chế chưa được xác định của Ðài Loan và ưu thế toàn cầu của HK trong an ninh, và gần đây hơn, trong các sự vụ kinh tế. Phản ứng của Bắc Kinh là tìm cách ảnh hưởng mạnh mẽ lên hệ thống ấy để nói lên những quan tâm của mình. Chiến lược này bao gồm các nỗ lực nhằm giảm thiểu sức mạnh và ảnh hưởng tương đối của HK, thí dụ đặt vấn đề vai trò của đồng Mỹ kim như là tiền tệ dự trữ của thế giới. Nhưng hiện thời, TQ không tìm cách đối đầu với HK để thiết lập một trật tự thế giới mới, và nó cũng chẳng có năng lực để làm điều đó.
Lối tiếp cận tổng thể của TQ được điều chỉnh hơn, hướng tới việc lôi cuốn và ràng buộc những nước khác vào với nó. Nó mang tính thu hút hơn là đối đầu. Nó tìm cách tạo ra một môi trường tại châu Á, và một cách toàn cầu, trong đó các quốc gia bị lôi kéo, trở nên nương dựa và nhờ cậy vào TQ, và qua đó, tỏ ra tôn trọng đối với Bắc Kinh. Nó thấy đó như một cách làm giảm bớt những tổn thương có thể có, tối thiểu hóa những gò ép và như thế tối đa hóa tự do hành động.
Miễn cưỡng dẫn đầu
Thế giới quan và chiến lược quốc tế của TQ làm phát sinh một sự miễn cưỡng độc đáo đối với việc làm lãnh đạo toàn cầu. Trung Quốc muốn qui chế và ảnh hưởng ấy đi liền với các hoạt động tích cực toàn cầu của nó, nhưng nó lại e sợ những gánh nặng của vai trò lãnh đạo. Các nhà lãnh đạo TQ vẫn tiếp cận thái độ quốc tế của họ từ lập trường dành ưu thế cho các sự vụ quốc nội: dùng chính sách quốc ngoại để hỗ trợ những công tác phức tạp ngày càng tăng trong công cuộc phát triển xã hội và kinh tế tại quốc nội. Như thế, các nhà lập chính sách của TQ lo ngại rằng xứ sở mình không đủ lão luyện để làm một lãnh đạo toàn cầu hữu hiệu và rằng việc cố gắng đóng vai trò ấy sẽ làm chệch hướng các tài nguyên kinh tế và chính trị khỏi công cuộc phát triển quốc gia.
Khuynh hướng ấy có cơ sở mạnh mẽ trong học thuyết của Ðảng Cộng sản – một vật cản đầy ý nghĩa dù không phải chẳng thể vượt qua, cho sự thay đổi trong hệ thống chính trị Lê-ni-nít. Hai thập niên trước, Ðặng Tiểu Bình đã cảnh giác các nhà lãnh đạo TQ là “chớ phất lá cờ của mình” (bu kang qi: bất dương kỳ), và đừng dính đầu vào tranh chấp (bu dang tou: bất đương đầu), và có lẽ nổi tiếng nhất (và bí hiểm nhất) là câu họ Ðặng khuyên họ “giấu năng lực và đợi thời gian” (tao guang yang hui: thao quang dưỡng huy). Các ý tưởng ấy tiếp tục ảnh hưởng những cuộc tranh luận nội bộ, đặc biệt về các vấn đề chính sách đối ngoại gây tranh cãi, vốn đòi hỏi một cắt quãng với thực hành thời quá khứ. Xét theo sự nổi bật của các phán quyết của họ Ðặng trong tính chính thống của Ðảng Cộng sản, các ý tưởng ấy có thể cản trở – và đã và đang cản trở – các hoạt động quốc tế dễ thấy rõ cách ứng xử.
Trước đây cũng như hiện nay, có rất nhiều biểu thị mang tính sách lược của việc TQ miễn cưỡng đối với vai trò lãnh đạo. Phải mất gần một thập niên Bắc Kinh mới tỏ ý muốn ủng hộ hành động của Hội đồng Bảo an LHQ chống lại chương trình vũ khí hạt nhân của Bắc Hàn và Iran, chọn lựa sự ủng hộ các nước anh em đang phát triển cùng sự hoài nghi của họ liên quan tới vấn đề hạn chế số lượng và phổ biến đặc biệt vũ khí hạt nhân với vũ khí hóa học. Suốt mấy năm qua, TQ lẳng lặng từ khước lời khẩn thiết yêu cầu tham gia nhóm G-8, bằng cách lập luận phần nào rằng mình không đạt tới trình độ phát triển đó. Trong khi đó, Chủ tịch Hồ Cẩm Ðào, bằng thái độ hết sức hòa nhã, đã đặc biệt đặt tên cho chiến lược quốc gia của ông là “phát triển hòa bình” (peaceful development). Ông làm như thế để gởi đi tín hiệu rõ ràng và đầy đủ khát vọng tránh những kinh nghiệm của các cường quốc đang lên trong quá khứ (thí dụ Ðức Quốc xã và Vương quốc Nhật Bản) từng yêu sách lộ liễu quyền lãnh đạo toàn cầu bằng cách thách đố các cường quốc thống trị vào thời điểm đó.
Gần đây hơn, các nhà ngoại giao chóp bu của TQ nhanh chóng bác bỏ khái niệm về lưỡng quốc công quản có tính chiến lược Mỹ-Trung “G-2” (a US-China “G-2” strategic condominium) vì họ sợ nó sẽ đẩy, một cách đột ngột và không cần thiết, TQ vào điểm rọi sáng trên sân khấu thế giới ngay lúc nó đang cần phải giải quyết hoặc khắc phục một công tác chẳng khiêm tốn chút nào, đó là sắp xếp lại chiến lược tăng trưởng quốc gia. (Trong chỗ riêng tư, giới ưu tuyển TQ thú vị ý tưởng rằng HK và TQ sẽ được đối xử như hai xứ sở hùng cường nhất thế giới).
Còn một chỉ dẫn nữa cho thấy sự miễn cưỡng của TQ đối với vai trò lãnh đạo là nó tiếp tục thành thạo việc lạng lách tiến trình của các nhà nước khác và các định chế. Thí dụ, các nhà lãnh đạo TQ lặp lại rằng họ muốn tham dự đầy đủ vào những cuộc thương thảo quốc tế về biến đổi khí hậu và kiểm soát vũ khí, nhưng chỉ sau khi các cường quốc chính, vốn chịu trách nhiệm việc gây nên căn nguyên của vấn đề ấy, tạo được sự ràng buộc và những cam kết về phí tổn.
Những bó buộc về năng lực
Vai trò của TQ như một lãnh đạo toàn cầu bị giới hạn không chỉ do bởi thái độ miễn cưỡng của xứ sở ấy đối với việc đảm đương trách nhiệm mà còn do những bó buộc về năng lực. Thí dụ, guồng máy thư lại (bureaucracy) viện trợ quốc ngoại của Bắc Kinh đang chịu các vấn đề nghiêm trọng về truyền đạt và phối hợp. Không một cơ quan riêng rẽ nào đặt ra chính sách hỗ trợ ngoại giao và điều hợp sự cung cấp viện trợ nhân đạo và phát triển với phạm vi rộng lớn hơn nhiều của đầu tư hải ngoại được chính quyền ủng hộ. Thật thế, Bắc Kinh thậm chí còn không cho công bố con số riêng rẽ có bao nhiêu viện trợ phát triển chính thức và đầu tư được nhà nước yễm trợ mà TQ phân phối hằng năm. Lý do chính khiến TQ dài ngày chống lại việc tiến hành cuộc đối thoại đều đặn với các cơ quan HK về chính sách viện trợ quốc ngoại, đó là, một cách chính xác, Bắc Kinh không thể quyết định ai sẽ lãnh đạo phái đoàn TQ.
Về mặt ứng xử, sự thiếu phối hợp ấy đưa tới kết quả làm hại hình ảnh TQ cùng những lợi ích chính trị và kinh tế của nó, đặc biệt tại châu Phi. Thậm chí còn đặt TQ vào tình cảnh hiểu lầm với các định chế tài chính quốc tế, thí dụ QTTQT (IMF). Ðóng góp vào vấn đề ấy là sự kiện tại Bộ Ngoại giao của TQ không có một bộ phận kinh tế hữu hiệu nào để có thể phối hợp các mục tiêu đầu tư, thương mại và ngoại giao của nước đó. Một số cơ quan kinh tế chính của TQ, thí dụ Bộ Tài chính, là những định chế yếu ớt về mặt chính trị và ít có quyền lập chính sách kinh tế quốc tế. Những giới hạn ấy sẽ chỉ trở nên hiển nhiên hơn khi các hoạt động của TQ trong các định chế kinh tế toàn cầu ngày càng phức tạp và nổi bật hơn.
Trung Quốc đã hai lần cố thử và thất bại trong việc thành lập Bộ Năng lượng để phối hợp các cơ quan năng lượng quốc nội và những biểu thị quốc ngoại của chúng. Như Erica Downs thuộc Viện Nghiên cứu Brookings (Brookings Institution) lập luận, guồng máy thư lại về năng lượng cấp quốc gia của TQ thiếu nhân viên, thiếu ngân khoản và thiếu thẩm quyền chính trị so với các công ty năng lượng quốc doanh rất có ảnh hưởng, có nhiều nhân viên, nhiều ngân khoản và sở hữu quyền lực chính trị đáng kể.
Những mất cân đối ấy gây ra các hệ quả lớn lao trong chính sách ngoại giao của TQ. Những đầu tư vốn cổ phần (equity investments) của các công ty năng lượng TQ có ảnh hưởng thái quá trong việc uốn nắn các chính sách của TQ đối với Sudan, Trung Ðông, Nga và Trung Á. Trong những năm gần đây, nơi nào các lợi ích của công ty trệch hướng với các lợi ích của quốc gia thì cái đầu có khuynh hướng khống chế. Chủ tịch Hồ Cẩm Ðào và Thủ tướng Ôn Gia Bảo đã nỗ lực đáng chú ý để xử lý vấn đề này.
Các nhược điểm thuộc loại ấy sẽ ngày càng trở thành vấn đề hơn cho những quan hệ ngoại giao của TQ khi quân đội cải tiến các năng lực sức mạnh dự phóng của họ và tiến hành những thao tác ở ngoài chu vi gần nhất của TQ. Một số hoạt động quân sự, thí dụ tuần tiễu bằng tàu ngầm, đã làm dậy lên những quan tâm trong các lân bang của TQ.
Những kỳ vọng lớn lao hơn
Ðang gia tăng các sức ép bên trong và bên ngoài để TQ đóng vai trò nổi bật hơn, nếu không là lãnh đạo, trong các sự vụ quốc tế. Các yêu cầu bên ngoài nhằm bảo đảm sự phát triển tiếp tục xã hội và kinh tế tại quốc nội đang tăng mạnh và đảm đương các chiều kích mới. Ðối với TQ, hành động một cách bản địa lúc này đòi hỏi phải nó phải tư duy một cách toàn cầu.
Như thế, các sức ép bên trong, thí dụ đô thị hóa và gia tăng tiêu thụ năng lượng, đã dẫn TQ trong thập niên vừa qua tới việc mở rộng, một cách đầy ý nghĩa, thương mại và đầu tư của nó với châu Mỹ La-tinh và Trung Ðông, những khu vực từng có thời thuộc mối quan tâm có tính bản lề, không đáng kể. Giờ đây thương mại với các khu vực đó là khía cạnh tăng nhanh nhất của thương mại TQ và sẽ mang tính quyết định để chịu đựng cấp độ xuất khẩu khiêm tốn trong cuộc suy trầm kinh tế toàn cầu. Một cách quan trọng, những yêu cầu tăng trưởng của TQ đẩy an toàn năng lượng vào nghị trình chính sách ngoại giao của nó, và trong khi làm như thế, đã đem tới ảnh hưởng đáng kể cho các công ty dầu khí quốc doanh trong sự đề ra và thực thi chính sách ngoại giao của TQ.
Một trong những sức ép bên trong mới mẻ nhất và có ảnh hưởng nhất cho vai trò lớn lao hơn trên thế giới của TQ là dân chúng TQ. Họ làm căng thêm các chính sách và thực hành của TQ về các sự vụ toàn cầu và họ nói lên quan điểm của mình. Vào mùa Xuân năm 2003, các “công dân mạng” (netizens) TQ này đã phát động một kiến nghị qua mạng lưới internet để làm “trật đường rầy” nỗ lực vận động của Nhật Bản muốn được đề cử làm thành viên thường trực của HÐBA/LHQ, và đã kích động mấy ngày biểu tình chống đối bạo động bài Nhật tại Thượng Hải. Tình cảm bài Nhật trong công chúng ngăn chặn một cách kiên định khả năng làm lãnh đạo, và đặt các quan hệ Trung – Nhật trên một cơ sở ổn định.
Công dân TQ ngày nay đi du lịch và sống ở nước ngoài nhiều hơn trước đây, và sự kiện ấy còn có ý nghĩa lớn lao hơn. Theo dữ liệu của TQ, năm 2006 có 32 triệu công dân TQ du hành xứ người; 7.000 công dân TQ hoạt động và đầu tư ở quốc ngoại; 670.000 công dân du học và làm việc ở nước ngoài. Khi dấu chân quốc tế của TQ trải rộng, dân chúng TQ kỳ vọng chính phủ của họ hành động nhiều hơn để bảo vệ những đầu tư lẫn an ninh thể lý của họ. Từ năm 2004 tới năm 2007, theo dữ liệu của TQ, có 27 công dân TQ bị giết ở nước ngoài (tại Ethiopia, Pakistan và Afghanistan), có 45 bị bắt cóc (tại Pakistan, Nigeria và Iraq), và khoảng 911 được di tản khỏi các cuộc khủng hoảng ở Li-băng, Ðông Timor, Tonga và Quần đảo Solomon.
Cộng đồng quốc tế cũng kỳ vọng nhiều nơi TQ. Ngày nay, nhiều quốc gia muốn TQ, như một kẻ đang sản xuất nhiều nhất khí thải hiệu ứng nhà kính, chấp nhận những giới hạn ràng buộc số lượng áp dụng cho những kẻ gây nên ô nhiễm ấy; ở cấp bậc tối thiểu, cộng đồng quốc tế đồng thuận rằng, để có bất cứ giải pháp nào có ý nghĩa cho vấn đề biến đổi khí hậu, phải có sự tham gia của TQ.
Hầu hết những nhà hoạch định chính sách về châu Á đều nhìn TQ như một tác nhân then chốt trong việc ép buộc Bắc Hàn từ bỏ chương trình vũ khí hạt nhân, cho dù điều này gây nên một bất ổn định nào đó trên biên giới đông bắc của TQ. Năm 2004 và 2005, trong thảm họa sóng thần (tsunami) tại Ðông Nam Á, xuất hiện một động cơ quốc ngoại quan trọng thúc đẩy TQ mở rộng tầm với quốc tế của nó. Vào thời điểm ấy, TQ bối rối và nản lòng về việc nó không thể cung cấp viện trợ nhân đạo nhiều hơn vì khả năng không vận và hải vận có hạn của quân đội, và nó thiếu kinh nghiệm cung cấp sự yểm trợ khi có khủng hoảng.
Trong cuộc suy trầm kinh tế toàn cầu hiện nay, thế giới trông mong TQ như một trong những nền kinh tế lớn duy nhất tiếp tục tăng trưởng. Dù kích thước của nền kinh tế TQ chỉ bằng 1/3 của kinh tế HK hoặc Liên hiệp Âu châu (xét theo tỉ lệ trao đổi thị trường – market exchange rates), tầm quan trọng của TQ đối với tăng trưởng toàn cầu đang tăng thêm. Quỹ Tiền tệ Quốc tế ước tính rằng TQ sẽ cung cấp con số 60% tăng trưởng toàn cầu trong thời kỳ suy thoái kinh tế này, và tới khoảng năm 2014, tổng sản phẩm nội địa (GDP) của TQ có thể lên bằng 50% của HK. Khi TQ đi tới một kiểu mẫu tăng trưởng có định hướng tiêu thụ hơn, thị trường nội địa của nó có thể đóng vai trò lớn hơn trong tăng trưởng kinh tế của các lân bang châu Á (với giả sử họ điều chỉnh các kiểu mẫu phát triển của mình sao cho phù hợp). Năm 2008, trên thực tế, TQ đã qua mặt Nhật Bản liên tiếp hai năm liền, như là thị trường bán lẻ lớn nhất châu Á.
Một khu vực thoải mái lớn hơn
Các sức ép bên trong và bên ngoài gây nên một trạng thái đa dạng các thái độ mới, phản ánh việc TQ thừa nhận rằng nó có thể làm hơn nữa. Bắc Kinh ngày càng thấy có thêm nhu cầu và cơ hội để năng động hơn, thậm chí quyết đoán hơn, trên phương diện toàn cầu. Thí dụ, TQ đã rút khỏi sự miễn cưỡng nguyên thủy của mình để can dự sâu xa hơn vào cuộc khủng hoảng hạt nhân Bắc Hàn và Iran. Ở cả hai trường hợp đó, trong năm năm qua, TQ đã ủng hộ nhiều nghị quyết của HÐBA/LHQ, bao gồm áp đặt cấm vận kinh tế theo Chương 7, và đó là những hình phạt TQ đã dài ngày bác bỏ. Là người triệu tập những cuộc đàm phán sáu bên về chương trình hạt nhân của Bắc Hàn, TQ trên thực tế đảm đương vai trò lãnh đạo trong việc xoay xở giải quyết cuộc khủng hoảng đó.
Trung Quốc đang từ bỏ sự thông giải nghiêm ngặt và sự áp dụng nguyên tắc bất can thiệp vào các sự vụ nội bộ của các quốc gia, vốn là lập trường từng hạn chế dài ngày chính sách ngoại giao của nó. Can dự của TQ, dù hạn chế, trong việc tìm cách giải quyết các cuộc khủng hoảng chính trị tại Sudan và Miến Ðiện cung cấp một số bằng chứng cho nhận xét này. Khi những đầu tư kinh tế và chính trị của TQ trong các xứ ấy gia tăng và TQ trở nên thoải mái hơn trong việc dùng ảnh hưởng của mình để tác động làm thay đổi, Bắc Kinh đã đi tới sự thừa nhận giá trị thật sự của việc cổ vũ sự ổn định chính trị và giảm thiểu bạo động trong các khu vực đó.
Một trong những chuyển dịch đáng quan tâm nhất, dù có lẽ là điềm xấu, nằm trong lý thuyết và các thao tác quân sự của TQ. Các nhà chiến lược quân sự của TQ giờ đây tuyên bố rằng Quân đội Giải phóng Nhân dân (QÐGPND) đang chuyển từ trọng tâm có tính độc chiếm vào sự phòng thủ “lãnh thổ Trung Quốc” tới một trọng tâm thêm vào và mới mẻ, đó là bảo vệ “các lợi ích của Trung Quốc”. Bạch thư quốc phòng mới nhất của TQ nhấn mạnh rằng ngày nay, QÐGPND xem “các chiến dịch quân sự khác với chiến tranh” (military operations other than war – MOOTW) như một sứ mệnh mới – một khái niệm mà, đối với các nhà chiến lược của HK, bao gồm sự cấm chỉ trên biển, các chiến dịch hòa bình, bảo vệ các đường biển, đi tản người không chiến đấu, và nhiều công tác khác.
Những đột kích gần đây vào thế giới mới này của MOOTW gồm việc bố trí các tàu hải quân TQ tới Vịnh Aden ngoài khơi bờ biển Somalia để tham gia cuộc hành quân của LHQ trừng phạt và chống hải tặc. Ðây là thao tác đầu tiên của QÐGPND. Quân đội cũng vừa phái tàu bệnh viện đầu tiên của nó [the “Peace Ark” – Thái bình thuyền(?)] và các tàu hải quân khác lớn hơn sẽ được phép tham gia những chiến dịch cứu trợ nhân đạo ở xa biên giới TQ.
Các sứ mệnh cùng năng lực mới mẻ này phản ánh khát vọng của TQ muốn được nhìn như một cách đóng góp vào “lợi ích chung” toàn cầu, theo tác phong phù hợp với chính sách đã được TQ tuyên bố về hành động như một “cường quốc chính có trách nhiệm”. Nó cũng có thể là một báo hiệu cho các khả năng sức mạnh được cải tiến theo dự phóng, để có thể sử dụng hầu bắt phải tôn trọng những yêu sách về lãnh thổ hoặc bảo đảm việc tiếp cận các tài nguyên.
Một chỗ ngồi vào bàn
Thế nhưng một lực quan trọng khác đang thúc đẩy TQ đóng vai trò hàng đầu trong các sự vụ quốc tế: các nhà lập chính sách của TQ muốn tham gia vào việc uốn nắn các qui tắc, chuẩn mực và các định chế toàn cầu. Phần vì lý do mang tính qui chế và phần vì ảnh hưởng hiển nhiên trên các quá trình ấy, TQ muốn có “các cơ hội đóng góp tiếng nói” hơn. Bằng chứng hiển nhiên nhất cho điều này nằm trong chính sách ngoại giao đa phương của Bắc Kinh: TQ đã tạo ra những tổ chức mới (thí dụ Tổ chức Hợp tác Thượng Hải – The Sanghai Cooperation Organization, và Diễn đàn Hợp tác Trung-Phi – China-Africa Cooperation Forum), và mở rộng sự tham dự của nó vào các tổ chức hiện hành (thí dụ Diễn đàn Khu vực Hiệp hội Các Nước Ðông Nam Á – Association of Southeast Asian Regional Forum).
Vai trò của TQ như một kẻ đề ra qui tắc và nghị trình sẽ không chỉ trở thành một đặc điểm ngày càng nổi bật trong chính sách ngoại giao của nó trong tương lai. Kinh nghiệm trong các lãnh vực ấy cũng sẽ thúc đẩy TQ nghĩ tới những tỉ lệ trong tương quan giữa giá vốn của việc lãnh đạo với số lãi thu được.
Tuy thế, cho tới thời điểm này, thành tích thật sự được ghi nhận của TQ về việc uốn nắn các qui tắc và các định chế quốc tế thì hữu hạn và rời rạc thất thường. Có các thí dụ minh họa cho nhận xét ấy nằm trong việc TQ dần dần chấp nhận các qui tắc quốc tế hơn là phản đối cùng tìm cách duyệt lại chúng (và TQ đang thành công). Về mặt toàn cầu, TQ chấp nhận và thực thi rất nhiều cam kết về thương mại phức tạp và về việc không phổ biến vũ khí hạt nhân cùng vũ khí hóa học, dù với thành tích chấp hành khi thế này khi thế nọ. Thậm chí tại Ðông Á, sân sau chiến lược của TQ, Bắc Kinh thoái lui sau khi đã nhúng tay quá sâu vào nỗ lực gây ảnh hưởng lên các thành viên và nghị trình của Hội nghi Thượng đỉnh Ðông Á. Dù phụ trách tiến trình hội nghị sáu bên về Bắc Hàn, TQ chỉ làm điều đó sau khi bắt đầu e ngại rằng tình thế sẽ leo thang vượt quá tầm kiểm soát của mình; kế đó, Bắc Kinh tìm cách xác định tầm mức vai trò của mình để không phải chịu hoàn toàn trách nhiệm nếu tiến trình ấy thất bại.
Tại Ðông Nam Á, cho tới nay, Bắc Kinh dường như chấp nhận những chuẩn mực khu vực trong việc giải quyết xung đột và đã lặp lời cam kết về việc giải quyết trong hòa bình những tranh chấp lãnh hải tại Biển Nam Trung Hoa[1]. Dù bản chất của thái độ tối hậu của TQ trong những tranh chấp lãnh thổ này vẫn đang được quyết định (và thái độ ấy bao gồm một số hoạt động khiêu khích), những cam kết ban đầu của Bắc Kinh chỉ dấu cho thấy, một cách quan trọng, một cấp độ tự ràng buộc để làm yên lòng.
Tiềm năng của TQ trong việc ấn định qui tắc quốc tế có những giới hạn rõ rệt, đặc biệt trong đề nghị mới đây của TQ nhằm thách đố đồng Mỹ kim như tiền tệ dự trữ của thế giới. Người đứng đầu ngân hàng của TQ, Chu Tiểu Xuyên (Zhou Xiao-chuan), vào mùa Xuân 2009, kêu gọi gia tăng việc sử dụng khí cụ tiền tệ đặc biệt của QTTQT (IMF), được gọi là quyền rút tiền đặc biệt và quyền vay đặc biệt của các nước hội viên đối với nguồn tiền hoạt động của QTTQT (special drawing rights), nhằm làm giảm bớt mức độ lan khắp toàn cầu của Mỹ kim. Ðề nghị này phản ánh mối lo ngại của TQ về tình trạng có thể bị tổn thương sâu xa đối với giá trị đồng đô-la và đối với sức khỏe tổng thể của kinh tế HK. Nó cũng phản ánh sự bất lực của Nhân dân Tệ (vì tài khoản tư bản đã kết toán của TQ – China’s closed capital account) để đưa ra bất cứ loại chọn lựa nào.
Thế nhưng có ít thành viên khác của QTTQT tán trợ đề nghị ấy của TQ. Thật ra một số quan chức cao cấp của TQ cũng công khai quay lưng lại với nó, bằng việc lưu ý rằng nó có ý nghĩa xoa dịu những phê phán quốc nội về những đầu tư lờ đờ của TQ vào cổ phiếu Hoa Kỳ. Tóm lại, sáng kiến về tiền tệ dự trữ của TQ – theo dự kiến – có tính tượng trưng hơn thực chất. Nó cho phép chính phủ TQ có vẻ như sẵn sàng đáp ứng những thất vọng trong nước, nhưng xét theo tính thiếu khả thi của đề nghị ấy cùng sự chống đối ở trong nước lẫn ngoài nước, thì TQ không có dự tính theo đuổi nó tới cùng.
Theo với các định chế, sự thành công của TQ trong việc uốn nắn các chính sách và các ưu đãi của nước khác cũng bị giới hạn. Bất chấp sự có mặt ngày càng tăng của TQ trên trường quốc tế và những tương tác của nó với các nước khác cùng các định chế trên khắp thế giới, có rất ít thí dụ về việc TQ sử dụng ngoại giao của nó nhằm biến đổi động thái ngoại giao của các nước khác.
Trung Quốc có chút thành công trong việc uốn nắn chính sách của các nước khác và các vấn đề đặc biệt bén nhạy đối với Bắc Kinh, thí dụ Ðài Loan và Tây Tạng. Trong những thí dụ minh họa sự thành công ấy, các quốc gia đối tượng của việc điều tiết cho thích nghi với TQ thường chịu ít phí tổn mà thu được nhiều lợi ích. Trung Quốc đạt hiệu quả nhất trong việc nâng cao hình bóng của mình tại các xứ sở châu Á, châu Phi và châu Mỹ La-tinh. Các nhà nước tại những khu vực đó giờ đây nhận biết hơn quan điểm và lợi ích của TQ, đưa tới kết quả có sự điều tiết nào đó phù hợp với quan điểm của Bắc Kinh, tuy thế, vẫn có một sự từ khước nào đó.
Nghịch lý người giữ tiền cược
Vậy TQ đã sẵn sàng cho vai trò lãnh đạo thế giới chưa? Câu trả lời ngắn gọn là: sắp tới thì hoàn toàn chưa (is not any time soon). Nhưng kết luận này phải được tái đánh giá liên tục.
Các lực phức tạp lôi kéo TQ về những hướng khác nhau. Lập trường cố hữu của nó, bị ăn thâm căn cố đế trong thế hệ hiện thời của những nhà lập chính sách của TQ là tránh vai trò lãnh đạo quốc tế trong khi đặt trọng tâm vào phát triển tại quốc nội. Khuynh hướng này sẽ vẫn còn dai dẳng trong một tương lai có thể thấy trước. Các lực đối nghịch, vốn đang đẩy TQ can dự vào thế giới hơn, cũng sẽ bị biến dị và ngày càng mạnh hơn. Kết quả là TQ sẽ nổi bật và hiệu quả hơn trong việc dùng ngoại giao của mình để đáp ứng thỏa đáng các yêu cầu quốc nội, và nó sẽ tìm kiếm các cơ hội để góp phần duy trì những cái chung mang tính toàn cầu.
Trong khi theo đuổi cả hai mục tiêu ấy, TQ sẽ tìm kiếm tiếng nói lớn lao hơn trong việc lập định các qui tắc quốc tế. Những đòi buộc này dẫn TQ tới việc trở thành một diễn viên chính mang tầm quan trọng chính và đôi khi đảm trách vai trò lãnh đạo – thỉnh thoảng một cách miễn cưỡng – với các cường quốc chính khác trong việc tìm cách giải quyết các vấn đề khu vực và toàn cầu.
Nhưng những hoạt động ấy không phải là lãnh đạo toàn cầu. Chúng liên quan tới thao tác theo sự đồng thuận hiện hành hơn là làm phát sinh một sự đồng thuận mới và rồi dẫn tới trách nhiệm lãnh đạo. Thêm nữa, bằng chứng gợi cho thấy rằng có rất ít quốc gia muốn đi theo sự dẫn đạo của TQ trong các vấn đề quốc tế. Như thế, trong khi TQ muốn thỉnh thoảng đảm trách vai trò lãnh đạo trong hợp tác với các nhà nước khác, nó vẫn còn rất xa với việc làm một lãnh đạo toàn cầu trong tâm trí hoặc bằng những năng lực của mình.
Việc phân tích tiềm năng lãnh đạo của TQ rọi ánh sáng lên sự căng thẳng tại tâm điểm của chính sách HK đối với TQ, và tôi gọi đây là nghịch lý của người giữ tiền cược (the stakeholder paradox).
Mặt này, HK đang khích lệ TQ xác định rộng rãi các lợi ích quốc gia của nó; HK cố gắng làm cho Bắc Kinh có khả năng đóng góp vào việc giải quyết các vấn đề toàn cầu, và tối hậu, vào việc duy trì hệ thống quốc tế hiện thời. Ðây là sự thúc đẩy trong chính sách của nguyên Thứ trưởng Ngoại giao HK Robert Zoellick, bằng cách thách thức TQ làm một “người giữ tiền cược có trách nhiệm”, một lô-gic cốt tủy mà vẫn dai dẳng cho tới hôm nay.
Mặt khác, nhiều nhà chiến luợc HK và quốc tế lo lắng rằng chính sách ấy có thể mở rộng các tham vọng toàn cầu của TQ trong khi cải tiến các khả năng của nó để theo đuổi chúng – bao gồm những phương cách có thể không hỗ trợ các qui tắc, chuẩn mực và các định chế toàn cầu.
Khả năng của các nhà làm chính sách HK tạo cân bằng cho những quan tâm ấy sẽ cực kỳ quan trọng cho sự thành công của chính sách TQ của HK. Các luận cứ trong bài tiểu luận này gợi ý rằng trong tương lai có thể thấy trước, có thể xoay xở để có được sự cân bằng đó, một cách quyết định. Khi năng lực của TQ gia tăng, những ràng buộc quốc nội và những kiềm chế quốc ngoại trên chỗ ngoặt xét lại trong chính sách quốc phòng và ngoại giao của TQ sẽ vẫn còn đáng kể và một số của chúng sẽ gia tăng.
Các thế hệ lãnh đạo hiện thời và sắp tới của TQ chống lại việc đảm trách quá nhiều trách nhiệm và cam kết. Họ nhận biết sắc bén rằng TQ có vô số thách đố bên trong, trong đó nhiều cái sẽ gia tăng. Họ vẫn còn lưu tâm tới những tính toán sai lầm của các cường quốc đang lên thuở trước.
Về mặt bên ngoài, TQ sống trong một khu vực ương ngạnh, phần lớn không giống như HK lúc bắt đầu thế kỷ 20. Trung Quốc có chung biên giới với 14 quốc gia trong đó một số từng lâm chiến với nó. Các lân bang của TQ, đặc biệt Nga, Nhật Bản, Ấn Ðộ, đang giám sát thái độ của TQ và sẽ ghìm những tiến bộ của nó. Khi những tương tác toàn cầu của TQ gia tăng, những phí tổn của việc trở thành một nhà nước xét lại sẽ tăng lên theo hàm mũ, nếu không theo cấp số nhân.
Một thành tố quan trọng trong chính sách của HK đáp ứng với sự chỗi dậy của TQ là duy trì sức mạnh vật chất và đạo đức trong khi bảo đảm sự khả tín của các cam kết của HK. Những mục tiêu ấy bắt đầu với việc phục hồi sức khoẻ kinh tế và phúc lợi của HK, cả hai cái ấy bảo đảm những nền tảng của sức mạnh HK và như một dấu hiệu cho kỷ luật tự giác của HK.
Về mặt quốc tế, Washington cần có quan điểm rộng rãi về những trách nhiệm toàn cầu và sự tham gia của mình vào các định chế quốc tế, bao gồm việc chấp nhận rằng sự kiềm chế có thể là một nguồn sức mạnh trong khuôn khổ hợp pháp và ảnh hưởng – đặc biệt đối với một siêu cường. Những hành động ấy sẽ giúp bảo đảm rằng Hiệp chúng quốc Hoa Kỳ có vị trí tốt để ứng xử với một TQ sẽ có thêm nhiều sinh lực và nhiều ảnh hưởng địa lý chính trị trong những năm sắp tới.
Bản tiếng Việt © 2009 Nguyễn Ước
Bản tiếng Việt © 2009 talawas blog
------------------------------------------------
[1] Biển Ðông Việt Nam (người dịch)
Subscribe to:
Post Comments (Atom)
No comments:
Post a Comment