Thursday, August 13, 2009

TÂY NGUYÊN - CON NGƯỜI và SỐ PHẬN


Cao Nguyên Trung Phần, con người và số phận
Trần Thị Hồng Sương
Đăng ngày 11/08/2009 lúc 17:32:27 EDT
http://www.thongluan.org/vn/modules.php?name=News&file=article&sid=4030

I.
Từ một lời phê phán


Những biến động ở Tây Nguyên năm 2001, 2004 khiến tôi muốn viết lại ký ức và nhận định về vùng Cao Nguyên Trung Phần này nhưng nay lần mai lữa.
Đề tài thành bức xúc cần viết ngay khi đọc lời trách cứ của nhà văn Tưởng Năng Tiến trong bài viết “Chút tình riêng về miền sơn cước” (talawas blog, ngày 25/07/2009). Ông Tiến viết: “Bà Trần Thị Hồng Sương, một trong những nhà bình luận thời sự rất được dư luận trong và ngoài nước quan tâm (kể cả độc giả từ miền núi, như kẻ đang viết những dòng chữ này) trong bài “Ứng xử sai lầm với lịch sử” đã có những lời lẽ nặng nề, không căn cớ, về một sắc dân ở miền sơn cước - như sau:
“Kể ra hết thì giống chuyện tiếu lâm rơi nước mắt... khi người bị CS Bắc Việt biến cả nước thành Mán rừng! “Mán rừng vào Thành phố”! Người miền Nam ủng hộ buông súng và nhìn các Mán ngơ ngáo thấy cảm thương bởi cùng máu đỏ màu da vàng phải biết chia sẻ áo cơm, nhưng cấp chỉ huy của Mán dạy phải cướp và thù...”
Rồi ông kết luận: “Tự thâm tâm, có lẽ, những người thuộc dân tộc Kinh ở Việt Nam chưa bao giờ coi đồng bào Thượng là đồng bào (thiệt)”.
Lời trách cứ nhẹ nhàng pha chút buồn bả khiến tôi bồn chồn dù không hề nghĩ mình có lỗi cũng không do tôi bất cẩn. Nhưng đó là sự hiểu lầm tất yếu sẽ xảy ra do khác biệt vùng miền cũng có, mà do khác biệt từ chính việc sử dụng ngôn ngữ của chúng ta cũng có. Đó là chưa tính đến sự kiện cách hiểu dân gian không thấu đáo về cổ sử! Dù sao tôi cũng tán thành ông Tưởng Năng Tiến có ý kiến phản hồi. Nếu ông Tiến để trong lòng giận thì tôi vô phương có dịp bày tỏ, mất đi một độc giả có mối quan tâm về đất nước mà với tôi là rất quý giá! Tôi vẫn ủng hộ tranh luận phản biện vì đó là cách giúp hiểu nhau, là cách chọn lựa được điều tốt nhất, gần chân lý nhất.

Trước tiên, xin nói ngay là ở cả hai miền Nam Bắc hiện không có dân tộc nào là dân tộc Mán. Theo thư tịch cổ vào thế kỷ 16 -17 người sống theo bộ lạc Cao nguyên Trung phần gọi là Mọi gồm Mọi Đá Vách (Hré), Mọi Hời (Hroi, Kor, Bru, Ktu và Pacoh), Mọi Đá Hàm (Djarai), Mọi Bồ Nông (Mnong) và Mọi Bồ Van (Rhadé Epan), Mọi Vị (Raglai) và Mọi Bà Rịa (Mạ). Đa số có tục cà răng và căng tai. Cà sáu răng cửa là chỉ dấu người đã trưởng thành. Cho nên xin lưu ý trong Fulro sau này chỉ có Djarai, Rhadé, Mnong... kể trên là người bản địa cố cựu, còn người Chăm và nhất là Khmer Krom là sự tụ hội thế lực chính trị phát sinh do ý đồ chính trị của ông Hoàng Sihanouk.
Người Campuchia có đặt vấn đề vì sao khi Pháp vẽ bản đồ VN, ông Hoàng Sihanouk không có ý kiến gì, nhất là về Phú Quốc nằm giữa đường biên phân chia có hơi lệch về phía Campuchia. Đó là sự thật nhưng nếu ông Hoàng Sihanouk biết giải thích rõ là Phú Quốc còn có thêm yếu tố lịch sử là chưa hề có bóng dáng người Campuchia nên Pháp phải làm đúng theo nguyên tắc phân chia chung là để Phú Quốc thuộc Việt Nam. Ông Hoàng Sihanouk lại bày ra Khmer Krom để chứng tỏ mình có quan tâm mà thành rối ren thêm! Điều này cũng minh chứng cho Chuẩn Tướng Vĩnh Lộc trong sách nghiên cứu về Fulro cho là người Thượng Cao nguyên Trung phần bị người Chăm và Campuchia -phe của ông Hoàng Sihanouk thân Cộng sản- lợi dụng là hoàn toàn chính xác.

Lịch sử phong kiến và việc các dòng tộc cướp ngôi, vua mới luôn truy lùng phe nhóm vua quan cũ khiến có những người Việt trốn vào rừng sâu tránh nạn, cũng có khi do lánh nạn tru di tam tộc, hay phạm tội... họ dừng phát triển sống cách biệt nền văn minh đô thị. Các nhà nghiên cứu Miền Bắc viết sai khi gọi một tộc người là Mán và ghi chú đó là người Dao hay người H’Mông...! Một chi của người Việt cổ ở núi cao miền Bắc ít chịu sự biến đổi xã hội được miền Bắc thống kê sai là người dân tộc Mường thật ra cũng là nhóm người VN cổ sống tách biệt không biến đổi, dần thành khác người VN thành thị phải gọi chính xác là người Việt miền núi!
Qua sự kiện đó có thể hiểu rằng nhóm người mà trước đây thường ghi là nhóm người Mán, người Mường chính là người Việt cổ. Họ rút vào rừng sâu ở riết mà thành Mán Mường; còn một thành phần người VN không chịu tiếp cận văn minh nữa, lúc giao thông khó khăn con người còn đói nghèo, ở miết trong ruộng đồng thành mênh mông trời nước bất tận là thành người “nhà quê”! Pháp gọi “Les Nhaques” sống sau lũy tre làng như Montagnard hay Degar trên rừng.

Năm 1945 gia đình tôi có người bà con trong quê ra, sáng thức dậy sớm không tìm được diêm quẹt cứ dí lá dừa khô sát vào bóng đèn điện để mồi lửa. Người Việt Nam “nhà quê” ở ruộng không khác gì Mán Việt ở rừng thế đấy, quá giống cảnh bộ đội miền Bắc vào Sài Gòn ngửa cổ xem nhà cao tầng đến rớt nón cối hay bỏ cá vào bồn cầu rồi xả nước cá trôi mất hết tìm hoài, không biết tại sao!
Còn theo truyền thuyết Tiên Rồng một bọc trăm trứng, 50 con theo cha xuống biển 50 con theo mẹ ở núi rừng. Ước vọng của truyền thuyết là còn là Mường Mán sống hoà thuận với các sắc tộc khác vì thuở xa xưa người Kinh và Thượng đều là truyền nhân của Lạc Long Quân và Âu Cơ từ một bọc 100 trứng đó mà ra.
“Mán” ở Miền Nam là tính từ dùng làm danh từ đồng nghĩa với “Ngố” và bà con miền Nam gọi bộ đội cụ Hồ là “Mán rừng” và gọi cán bộ CS Bắc Việt là “Cán Ngố“. Gọi là “Cán Ngố” hay “Mán rừng” là vừa cảm thương cho thanh niên miền Bắc chân thật nhưng bất hạnh bị lừa đi “giải phóng” đến độ người ngợm ngơ ngáo. Chẳng ai cần giải phóng, nghe Cộng Sản không thực hiện Hiệp định Paris mà giải phóng nhuộm đỏ là chạy bất kể sống chết.

Người Miền Nam biết chính xác ai là người có lỗi. Chỉ có cấp lãnh đạo chóp bu của bộ đội là có lỗi, cho nên giận CS miền Bắc vì đam mê quyền lực, bị Cộng Sản quốc tế điều khiển, lợi dụng lòng yêu nước của thanh niên, vu khống miền Nam và đã biến dân VN thành người Việt tiền sử như thời còn được gọi là bộ tộc Mán Mường, đi ngược chiều quay của kim đồng hồ văn minh!
Ngố không là ngu, ngu là bản chất kém cỏi không tiếp thu được văn minh, còn Ngố là bị ai đó không cho tiếp cận văn minh! Ở đồng bằng còn có cách chọc giận nhau là gọi ai đó là “nhà quê” do thứ nền văn hoá “giam nhốt” sau “lũy tre làng”, sống ngày hôm nay giống hệt ngày hôm qua và con người sống trăm năm như sống có một ngày! Chứng tích là bài thơ “Chân quê” của Nguyễn Bính, lời hờn trách cần phải giữ vẹn nét “chân quê” như truyền thống tốt đẹp hơn hay chỉ là nỗi sợ mất người yêu vào tay thanh niên tài hoa của phố thị?
Nói ra sợ mất lòng em.
Van em, em hãy giữ nguyên quê mùa
Như hôm em di lễ chùa.
Cứ ăn mặc thế cho vừa lòng anh!
*
Hôm qua em đi tỉnh về
Hương đồng gió nội bay đi ít nhiều!

Nhà thơ không đặt cho mình trách nhiệm phải tiến bộ mà buộc cô gái không được thay đổi, là sống theo cảm xúc không tích cực. Văn chương thi phú chưa mang tầm cao tư duy như thơ Thiền thì nhiều khi mang tính huỷ diệt như thơ Tố Hữu, hay ca ngợi hủ tục “gót sen”khiến tục bó chân của người Trung hoa kéo dài cả ngàn năm! Hủ tục là một thứ viên đạn bọc đường màu sắc vô cùng thu hút, được tôn thờ và dẫn dụ con người, nhưng làm méo mó cuộc sống con người như bị bỏ vào rọ. Cứ xem tục bó chân của người Trung Hoa khi người ta say sưa... biến đứa con gái nhỏ tội nghiệp thành tàn tật chỉ vì văn học cứ ca ngợi đó như là chỉ dấu danh gia vọng tộc! Hay hủ tục cắt âm vật và thêm bốn hủ tục khác nửa áp đặt lên phụ nữ ở nhiều nước Châu Phi Trung Đông mà LHQ đang lấy làm mục tiêu xoá bỏ, tưởng tượng đến đã thấy sợ đến rợn người! Chủ nghĩa Cộng Sản giống hủ tục chết người hay làm tàn tật như tục bó chân, nó còn tồn tại phần nào do trí thức xã hội chủ nghĩa của 600 tờ báo trong nước ca ngợi.

Có cách nói khác mới nghe qua thì có vẻ nhẹ nhàng hơn nhưng ngẫm nghĩ ý nghĩa lại chua cay hơn phù hợp hơn, đó là ví von “sao giống chú Cuội từ cung Trăng rớt xuống trần!”. Lê Dũng, phát ngôn viên VN trên diễn đàn quốc tế được ví là chú Cuội CS mà nói dối đã thành... bản sắc! Chú Cuội theo truyền thuyết vừa nói dối vừa hay quên trước quên sau (chẳng hạn như tham gia ký kết Tuyên Ngôn Nhân Quyền của LHQ rồi... quên thi hành)! Người nghe nếu không biết hết hàm ý của văn học thì khó hiểu thấu đáo. Khi nói “Chí Phèo”, ai đã đọc quyển Chí Phèo hiểu khác, còn ai chưa đọc sẽ hiểu rất lơ mơ. Nghe nói “chú Cuội”, có người sẽ thích được ví với chú Cuội ở thiên đình, còn nghe nói “rừng” thì thường liên tưởng của văn học với hàm ý nghĩa chốn lạc hậu.

Tư chất tốt của người Thượng khiến người Thượng và cả người Khmer không được vinh hạnh so sánh với Cuội được vì không có hai tật xấu tệ của người Việt là nói dối và trộm cắp, tức là “điêu ngoa” và “chôm chĩa”! Năm 1985, tôi sang Campuchia, lúc đó ở VN bỏ đôi dép khỏi chân là bị “chôm” mất, trong khi ở chợ Kongpong Chnăng (còn nghèo hơn VN) bên bờ Biển Hồ tôi chứng kiến tận mắt người Campuchia cứ dựng xe đạp và đi vào chợ mua hàng không ai lấy cả. Thật đáng phục đấy chứ! Tôi nghĩ người Việt phát triển văn minh có hơi lạc lối thành... khôn vặt! Ở Bà Rá khoảng năm 1960, tôi được ở nhà dặn mua gà, mua măng của người Thượng Bà Rá. Trên đường đến giao hàng cho tôi, dù có ai trả cao giá hơn người đem hàng cũng không bán mà nhất định thực hiện lời hứa dù không ai biết người Thượng đó ngụ ở buôn nào! Đáng quý biết mấy tính chân thật này!
Hiện nay nông thôn Việt Nam có tệ nạn trộm cắp, nuôi tôm cá bị vớt trộm, nuôi trâu bò gà vịt lợn bị lùa trộm, nông thôn trồng cây trái bị hái trộm, cho nên lâm cảnh nghèo thà cứ để nghèo chứ làm ra của mà cứ bị ăn cắp. Có người giận quá gài điện chống trộm, cẩn thận cắm bảng nguy hiểm chết người có hình “đầu lâu xương chéo”, nhưng trộm không chết mà đôi khi do quên ngắt điện vô tình giết chết người nhà! Tính cách “điêu ngoa chôm chĩa” này khi làm cán bộ đã sa vào tệ nạn viết báo cáo láo và dễ thành quan tham! Vấn nạn về tính cách người Việt “điêu ngoa, chôm chĩa” làm xáo trộn xã hội, mang tính phá hoại rất lớn!
Lo bảo vệ chức quyền nên tập trung dùng bạo lực tù đày được sơn phết bằng mỹ từ “ổn định chính trị”, thành một sự ổn định của nấm mồ, còn bên dưới là bất ổn xã hội cực kỳ lớn, tham ô gian dối trộm cắp do không nâng cao nhận thức con người khiến cuộc sống rất bất an không yên ổn làm ăn được thì... không ai lo giải quyết.
Để tiến bộ Kinh Thượng đều phải rất can đảm nhận ra khuyết điểm, nhận ra sự thật... Cũng đừng quá bi thương với quá khứ nhưng đòi phải có tương lai tốt đẹp có sự phù hợp công minh trong hiện tại. Trong khía cạnh này thì người Thượng và người Kinh ở nước ngoài chủ yếu là Mỹ tự dưng là liên minh thân thiện cùng đấu tranh cho tự do tôn giáo cho nhân quyền và dân chủ.

Rừng là Vàng, Biển là Bạc

Nhà văn nay hầu hết là công chức viết theo đơn đặt hàng của nhà nước. Nhà văn xưa sống như thể có thể ngắm trăng sao hít không khí và tắm nắng là đủ sống, không cần biết cơm áo gạo tiền từ đâu mà có! Tú Xương thì phú thác mọi chuyện nhà cho bà vợ:
Quanh năm buôn bán ở mom sông,
Nuôi đủ năm con với một chồng!
Giới nhà văn không biết đến kinh tế khó thấy sinh lực kinh tế tiềm tàng ở vùng đất vắng bóng văn minh nên hay viết về núi rừng như là chốn thâm sơn cùng cốc chỉ có phù thuỷ và ma quái. Điển hình là chuyện Tam Tạng thỉnh kinh băng qua núi rừng gặp bao nhiêu là quái thú yêu tinh! Rất nhiều người bị ngộ nhận đó ăn sâu trong tiềm thức, nhưng sự thực thì núi rừng Việt Nam đầy sức thu hút. Dân thị thành lên rừng là...thành tỷ phú. Còn người Thượng làm chủ núi rừng mà lại không biết khai thác nguồn tài nguyên chỉ muốn giử rừng nguyên trạng.
Núi rừng không là chốn man dã không ai muốn tới, dưới con người xuất thân y học như tôi thì rừng là nơi chứa dược liệu quý phải lặn lội săn tìm thuốc quý nhân sâm trăm tuổi nhọc nhằn như ngậm Ngải tìm Trầm vậy! Rừng có nguồn nước ngầm không ô nhiễm khai thác được là giống của quý trời ban...Rừng có mỏ vàng, mỏ đá quý các nhà khoa học săn lùng...Người làm kinh tế thì nhìn ra Rừng là Vàng Biển là Bạc đấy! Bảo tồn rừng là bảo tồn kho báu chưa khám phá.
Người giàu nhất nhì ở VN hiện nay có máy bay riêng là nhờ khai thác rừng đấy! Trung Quốc nay lùng sục rừng biển Việt Nam trước tiên tìm vàng tìm bạc đấy! Ngày xưa Pháp cũng tìm sự giàu sang từ rừng núi Cao nguyên. Tôi có dịp làm cô bé được tham dự một buổi tiệc chiêu đãi của chủ đồn điền người Pháp ở vùng Bà Rá mà thức ăn được chuyên chở về từ khách sạn Caravell sang trọng nhất Sài Gòn, bằng máy bay trực thăng, cách đó 150 cây số. Biết cách khai thác thì sống ở Cao nguyên như ông hoàng.
Nhiều câu chuyện về Phi Châu khi trẻ em nghèo dốt dùng đá quý chơi bắn culi ném lỗ, người da trắng tới khai thác và làm giàu. Vấn đề là chính người Thượng hay chính phủ phải giúp người Thượng có kiến thức khoa học về rừng bảo tồn đa dạng sinh học lẫn cách và khai thác rừng để làm giàu. Người Thượng phải lấy mục tiêu làm người chủ giàu có. Người Thượng không nên chỉ sống hạn chế đơn giản theo truyền thống nhọc nhằn mà ít hiệu quả. Già làng không làm được việc “làm giàu” này thì kẻ khác sẽ tới chen lấn vào làm giàu như khai thác Boxít, làm lâm tặc phá rừng, lập đồn điền trồng cây công nghiệp khai thác tài nguyên mỏ, làm du lịch sinh thái...khiến cuộc sống người Thượng khó khăn do đất bị thu hẹp.
Không có chính sách tốt như Đà Lạt thời Hoàng Triều Cương Thổ chia sẻ lợi ích phát triển với người Thượng qua việc khai thác đến đâu thì tuyển dụng người Thượng nơi đó làm công nhân, làm bảo vệ, nuôi voi, không đuổi người Thượng vào sâu trong rừng... Thời ông Diệm nhanh chóng ban hành sắc lệnh ngăn chặn người Kinh dụ dỗ mua rẻ đất rừng. Sau 1975 đất đai là sở hữu nhà nước nhà nước tự tiện chia cho di dân kinh tế mới và chục năm gần đây thì bán đất rừng giá rẻ cho người có thế lực dây mơ rễ má quan chức mà điển hình nhất là vụ bán rừng (từ 3,5 triệu hay 200 USD đến 5 triệu bằng 320 USD một hecta) cho chị ông Nguyễn Tấn Dũng. Sau đó năm bảy năm mua lại một tỷ đồng một hecta! Việc bán rừng được các Uỷ Ban, giám đốc lâm trường nhà nước bán là khác với chủ trương ông Diệm hay Bảo Đại xưa. Hậu quả thế nào cũng vấp phải sự lo sợ tội nghiệp và nghèo khó tăng cao dẫn đến phản kháng của người Thượng! Khoảng 8,9 năm trước tôi có dịp theo một tổ chức nhà nước lên Sông Bé mua rừng làm kinh tế. Cho phép người Kinh mua rẻ đất từ người Thượng khi người Thượng chưa có nhận thức đầy đủ về quyền sở hữu đất đai và không lường trước cuộc sống tương lai ra sao khi không có đất là một chủ trương sai. Người Thượng không có khái niệm rừng là tài nguyên chung của quốc gia thuộc chính quyền. Người Thượng sống chế độ cộng sản nguyên thuỷ thành vài đại gia đình bộ tộc và đất rừng là vùng thiêng liêng của Giàng (ông Trời).
Thật ra nếu làm kinh tế cách mua rừng trồng cây ăn trái như hiện nay có thể thu nhập 5 triệu /hecta nhưng chi phí nhân công và phân bón thuốc trừ sâu cũng là con số mấp mé có khi cao hơn nếu thất mùa là lỗ...Muốn làm giàu với rừng không dễ nên tự người Cao nguyên không nắm công nghệ không làm được. Phải trồng cây công nghiệp xuất khẩu Trà, Càphê, Cao su, Tiêu, Điều, nuôi cá Hồi xuất khẩu, hay làm du lịch sinh thái và khai thác tài nguyên. Muốn giàu mà không biết cách như gia đình quan chức vài năm sau thấy không có lợi nhiều nên bày ra chuyện bán lại giá cao cho nhà nước chứ gì?

Hiện nay vấn nạn là quân đội về thành làm kinh tế, bỏ Cao nguyên cho lâm tặc phá rừng lấy gỗ, đào vàng... Campuchia vẫn nhận lại và trả lương cho quân Khmer Đỏ sống trong rừng, giao giữ cho rừng không bị phá và mỏ đá quý Pailin không bị khai thác lậu. Việt Nam vì sao không đào tạo cho người Thượng làm cán bộ kiểm lâm. Người Thượng làm kiểm lâm chắc chắn không có nạn lâm tặc vì người Thượng có thói quen không làm gãy cây hay ngắt lá rừng, nói gì đến phá rừng! Hồi ở Bà Rá khi nghe người Thượng báo có VC về, tôi hỏi làm sao biết được, rừng rậm thì che khuất, mênh mông tối đen? Đó là người vì Thượng đi rừng không làm gãy nhánh cây không chặt cây bẻ cành làm lối đi mà có lối mòn đi lâu năm riêng. Người Thượng cũng không buồn tay ngắt lá cây vu vơ rồi vứt bỏ. Người Thượng khá thông minh khi biết dùng nguyên tắc đó để phòng thủ. Cho nên ai lạ vào buôn là người Thượng biết ngay!
Tôi nghĩ người Thượng vùng sơn cước mà tôi từng biết đến, nay tuy xa vẫn còn sống động trong hoài niệm của tôi, lòng tôi còn đau đáu về thân phận người cao nguyên, muốn hỏi muốn biết đã có gì khá hơn chưa, vì một thời Ba tôi lãnh nhiệm vụ với ông Diệm “cõng chữ lên rừng”! Vậy mà chỉ nghe biến loạn.

Khi nghe có biến loạn Cao nguyên 2001 và 2004 tôi biết cán bộ tham ô, chính sách bán rừng và nhiều định kiến chính trị sẽ không hy vọng có chính sách tốt như thời VNCH cho người Thượng. Người Thượng chân chất nhưng bị du vào đường cùng có khi cũng phản ứng dữ dội điên loạn cần tránh. Đất nước lại thêm những vết thương không cần thiết, giống như sự bạc đãi người Hoa một thời khi có chiến tranh Hoa Việt. Ông Tưởng Năng Tiến, người đã bỏ núi rừng nhưng chắc có cùng tâm trạng âu lo đó nên mới nghe nói loáng thoáng chưa rõ thực hư... đã thấy đau lòng!

Tôi là dân VN bình thường, làm “người Việt miền Nam, gốc Nguỵ, ngoài đảng, là làm công dân hạng hai”, luôn có nỗi buồn nhược tiểu và cũng đau đáu về thân phận da vàng. Duy nhất có tôi theo chồng ở lại VN lo cho cha mẹ già chứ toàn gia đình đông đảo tám anh em tôi thì bảy là dân nhập cư ở Mỹ gia đình bên chồng thì ở Úc. Tôi thường xuyên nghe nói đến anh em tôi trải nghiệm mặc cảm bị coi là thấp kém so với người Mỹ người Úc. Còn ở lại VN tuy ít hơn người khác nhưng vẫn là nạn nhân của những sự phân biệt đối xử và của quan tham. Tôi không có điều kiện làm người hảnh tiến, kênh kiệu khoe khoang! Tôi lại là dân ngành y trước 1975 của VNCH, tôi từng tham dự lễ tuyên thệ của ông xã tôi về lời thề Hypocrates vốn chi phối mạnh mẽ việc thực hành y đức của bác sĩ làm theo tinh thần nhân đạo quốc tế và không được có định kiến sắc tộc lẫn chính trị!
Tôi nghĩ tôi là “công dân hạng hai” khác gì người Thượng ở núi rừng nghĩ người Thượng là “công dân ngoại lệ”? Nhưng cần làm gì để cải thiện số phận mình? Tôi đã làm giống cô bé gái của xóm ăn mày, quyết không theo nghề cha mẹ và láng giềng, quyết không xách bị gậy lang thang ăn mày, cô bé nhất định đòi đi học và nói sẽ làm việc tự lực cánh sinh. Tôi tách mình vượt lên trên nỗi buồn chính sự “Nguỵ/Ta” dễ làm suy sụp tinh thần, suy thoái tương lai. Tôi vươn lên bằng học tập để gia nhập vào thế giới khoa học.
Ở trong môi trường các hội thảo hội nghị quốc tế đó hệ quả còn có bạn bè quốc tế tôi có trọn vẹn niềm vui. Ý kiến tôi nơi đó được quan tâm chia sẻ. Tôi vẫn ương ngạnh nên luôn bị “đồng nghiệp” không “đồng đẳng” làm cấp lãnh đạo tôi, lợi dụng thế lực chính trị chèn ép, tị hiềm, bị tranh chức quyền, ép mức lương nhưng không có gì làm tôi sờn lòng cả, tôi chỉ sợ mình biến chất khiến mình tự khinh mình! Còn tôi nhìn lại cấp quan quyền nghênh ngang chèn ép tôi chỉ thấy họ đáng thương và buồn cười...
Tôi ủng hộ mạnh mẽ quan điểm của bà Rice là người da đen nước Mỹ phải thay đổi lối sống không cứ có chút gì cũng đổ lỗi hết cho việc phân biệt màu da chủng tộc. Bà Condoleezee Rice bỏ hết đặc quyền dành cho người da đen khi làm hiệu phó Đại học Stanford. Muốn được kính trọng và đánh giá thì phải phấn đấu cùng một tiêu chuẩn ngang bằng. Bà rất đúng vì ở VN nay cán bộ không học mà được ban phát bằng cấp đầy mình nhưng vẫn bị coi thường vì chính các thầy dạy còn phán: “Dốt như chuyên tu, ngu như bổ túc/tại chức”. CSVN mới là chính quyền nguỵ do quá nhiều điều không thật! Người Nhật thì phải tốt nghiệp trường có đẳng cấp mới dễ xin việc làm! Sang Mỹ ngay người VN không hề có óc phân biệt chủng tộc cũng không thích sống khu da đen chỉ vì mất vệ sinh và lộn xộn. Không có phân biệt chủng tộc nhưng có phân biệt lối sống!

Có phân biệt chủng tộc không?

Tìm hiểu về Cao nguyên Trung phần sẽ giải mã mức độ phân biệt chủng tộc của người Kinh đối với người Thượng trong thực tế và cả trong tưởng tượng là có hay không? Cần hiểu rõ định nghĩa phân biệt chủng tộc là gì? Ở Mỹ thời trước nội chiến Mỹ là có phân biệt chủng tộc, có luật không cho phép người da đen học trường người da trắng, mua hàng ở cửa hàng da trắng... Trái lại ở VN thời nào cũng ca ngợi người Thượng nào theo học sống hoà nhập được như người Kinh.
Nhưng hiện nay chắc chắn do thế lực chính trị đen tối làm lịch sử người Thượng Cao Nguyên thành chia cắt và phức tạp. Nhóm Fulro ở Campuchia theo Pháp thân cộng Sản Việt Nam (theo Liên Xô) mà sau này bị Khmer Đỏ thân Trung Cộng giết chết hết chỉ còn tướng Les Kosem được cứu thoát. Nhóm Fulro Cao nguyên VN theo Mỹ chống Cộng thoả mãn với chính sách của tướng Nguyễn Khánh và hai tướng Thiệu Kỳ. Những người Thượng theo Mỹ và VNCH có số phận giống người miền Nam VNCH không được coi là thành phần tốt, quyền lợi bị tìm cách tước đoạt cũng giống như dân miền Nam cùng phải gánh chịu vậy! Vậy là có sự phân biệt chính trị dù không phân biệt Kinh Thượng.

Có quá nhiều quan tham xà xẻo hết tiền viện trợ của người Thượng miền Bắc. Đó chính là vấn nạn chung cho cả người Kinh và người Thượng trong chế độ CS mà bản chất là “quan không tham mới là lạ!”. Quan tham làm người Cao nguyên, người Chăm, Khmer Krom phẫn nộ không khác người VN cũng phẫn nộ đến tự thiêu, biểu tình triền miên vì bị mất đất. Người VN, Chăm, Khmer, Thượng đều là nạn nhân của chế độ Cộng Sản tham nhũng tràn lan về đất đai, nhất là khi... tấc đất thành tấc vàng...

Tổ chức Chamkapa có hai nhận định rất đúng: Người Chăm không đòi tự trị, không đòi ly khai nhưng “Vì không còn đất đai để canh tác, dân tộc Chăm hôm nay đang lâm vào cảnh nghèo đói và bần cùng... đòi chính quyền cộng sản trao trả lại cho dân tộc Chăm, những lô đất đai thuộc quyền sở hữu của họ, do chính bàn tay và mồ hôi nước mắt của họ khai hoang và được công nhận trên sổ địa bạ dưới thời VNCH thông qua đạo luật “Người Cày Có Ruộng” do tổng thống Nguyễn Văn Thiệu ban hành. Cuộc xuống đường của dân tộc Chăm vào ngày 23-7-2008 chận xe phái đoàn của thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tại tỉnh Ninh Thuận là nhằm phản đối nhà nước Việt Nam chiếm đoạt đất đai của người Chăm là một minh chứng cụ thể”.

Nếu nhìn lại chính sách buôn bán nô lệ ở Phi Châu, việc người thiểu số ở Úc bị tiêu diệt thì giữa Kinh Thượng Việt Nam phải khẳng định không có chính sách kỳ thị. Chính sách kỳ thị dẫn đến việc Hitler săn lùng giết sạch dân Do Thái bất kể trẻ con hay người lớn, nam hay nữ hay Anh giết thổ dân Úc, nhiều bang không còn một người thổ dân.
Xin ông Tưởng Năng Tiến an lòng, tâm thức người Việt, nhất là miền Nam mà tôi biết rõ, không hề có óc phân biệt chủng tộc từ xa xưa cho đến nay. Châu Á hơn hẳn khi không có tội buôn bán nô lệ, chỉ ghét người Trung Hoa với nhau mà nhẫn tâm khi mua bé gái con nhà nghèo về làm tì nữ làm nô lệ suốt đời. Khi có giá gả bán như kiểu bán nô lệ Phi Châu. Trung Quốc cũng quá tàn ác khi có cách đày đoạ là chẳng những giết kẻ phạm tội mà còn bán vợ con tội phạm vào thanh lâu buộc làm kỷ nữ.
Thổ dân các nước mang số phận nghiệt ngã hơn, bị chính sách đồng hoá cưỡng bách vội vã, khi đào thoát thì bị sát hại như lịch sử nước Úc và thổ dân Aborigines. Khi người Âu Châu đến định cư ở Châu Úc vào cuối thế kỷ 18 có khoảng từ 250 đến 300 ngàn thổ dân Aborigines chia thành khoảng 500 bộ tộc sống rải rác. Chính quyền Anh tập trung vào các khu vực để truyền đạo và kiểm soát nhân danh là khai hoá loại bỏ các hủ tục. Thổ dân bị cú “sốc văn minh” đột ngột quá khác thói quen tập tục ngàn đời khó thay đổi nên thổ dân bỏ trốn. Những cuộc giết người Aborigines như vụ tàn sát tập thể tại Myall Creek vào năm 1838. Một nhóm 12 mới đến vùng này của thổ dân để chăn nuôi, nghi ngờ người thổ dân bắt gia súc một người đã lùng sục gom 28 người sang bên kia đồi xa các lều thổ dân hảm hiếp đánh đập đến chết, cắt đầu và thiêu mất xác. Dù bị chính người da trắng truy tố ra toà án lúc đó nhưng toà lại phán không đủ bằng chứng “không có tội!” Người ta ghi nhận việc người da trắng giết người xong đem nấu lên như thực phẩm và đổ thừa cho thổ dân làm vì còn tục... ăn thịt người.
Tại tiểu bang Tasmania, người da trắng đã “đuổi tận giết tiệt” thổ dân Aborigines. Năm 1803 ở Tasmania có khoảng năm ngàn thổ dân, đến năm 1824 thì chỉ còn lại năm trăm người. Đến năm 1876, bà Truganini là người thổ dân cuối cùng của đảo này cũng chết. Cả trăm ngàn trẻ em Aborigines bị tách lìa khỏi gia đình, khỏi bộ tộc để đem vào những khu tập trung sống như trẻ mồ côi hoặc giao cho các gia đình người da trắng nuôi dưỡng là lý do tại sao có ngày “Sorry Day” ở Úc.

Tôi vẫn thích câu chuyện dã sử rất bình dân mà đầy tính nhân văn “Thạch Sanh chém Chằn”, chê trách và dạy người VN người Hoa (qua nhân vật Lý Thông) không được thủ đoạn gian manh cướp công Thạch Sanh người gốc Khmer chân thật, nhất là khi đã sống chung một nhà như anh em! Tính cách chân thật của người Khmer đáng cho người VN và người Hoa học tập. Văn học dân gian miền Nam không hoa mỹ nhưng nhiều óc nhân bản công bình thế đó.
Không ai thích lòng thương hại, có khi chỉ tạo thêm mặc cảm. Người ta chỉ thích lòng kính trọng, nhưng khắc nghiệt thay, sự kính trọng thật chỉ có khi một cá nhân vượt lên biến mình thành một giá trị xã hội.

Càng ngày tôi càng ngưỡng mộ tư duy chính trị của người Mỹ đa sắc tộc và biết thương lượng giải quyết mâu thuẫn. Dù hiện trạng nước Mỹ chưa hoàn toàn tốt, song rõ ràng đó là có con đường để tiến đến thiên đường hạnh phúc! Thăng tiến cho mọi người bất kể xuất thân là “Giấc mơ Mỹ” truyền cảm hứng cho mọi người hồ hởi học tập làm giàu, Hoà bình vĩnh cữu là giấc mơ nhân loại, từ bỏ chạy đua vũ trang để xây lâu đài hạnh phúc và thiên đường tại trần gian... TQ đang gây rối và bắt buộc VN, Úc, Nhật, đều phải tăng cường quân sự. Trung Quốc nếu đi ngược xu thế hoà bình sẽ làm cặn bả của nền văn minh!
Ông Obama tài ba thông minh chức trọng quyền cao không còn gì để nuôi dưỡng mặc cảm, đã là Tổng thống Mỹ với sự ủng hộ của người da trắng, vậy mà mới đây còn sinh chuyện. Ông Obama chưa hoàn toàn ra khỏi định kiến gây ra phản ứng sai lầm nói năng thiếu cẩn thận, làm rắc rối thêm sự việc. Phải có cuộc họp “Thượng đỉnh uống bia” để giảng hoà vì ông đã hiểu lầm một hành động thực thi luật pháp nghiêm khắc là phân biệt sắc tộc ngu xuẩn! Sống hoà thuận, hiểu thấu đáo và thương yêu nhau không hề dễ dàng. Không có trường lớp nào dạy điều đó nên mâu thuẫn giữa người và người còn rất lớn! Con người đánh mất nguồn hạnh phúc cũng từ việc không chịu hiểu nhau cho thấu đáo...

II.
Cao nguyên Trung phần, FULRO và bạo loạn thời VNCH

Bối cảnh chính trị Việt Nam là chính sách đô hộ của Pháp và hai khuynh hướng Quốc-Cộng. Khi VN là nạn nhân kẹt giữa tham vọng quốc tế đô hộ của Pháp và cộng sản Liên Xô Trung Quốc khiến phải trải qua chiến tranh hai miền thì người Thượng cũng không tránh được làm nạn nhân của các thế lực chính trị đen tối đó.
Pháp xoa dịu Bảo Đại nên cho Bảo Đại lập Hoàng Triều Cương Thổ. Cao nguyên Trung phần này được hưởng quy chế riêng của một vùng đất riêng của Vua. Năm 1948, khi Pháp đưa Bảo Đại trở lại nắm quyền, Bảo Đại lập Hoàng Triều Cương Thổ, lấy Đà Lạt làm thủ đô, có chính sách riêng thuộc quyền của Bảo Đại, tách khỏi sự kiềm toả của người Pháp. Nhiều biệt thự của giới công thương giàu có ở Sài Gòn cũng đã được xây dựng thời gian này để làm nơi nghỉ mát cuối tuần và chơi golf ở đồi Cù.
Sau khi truất phế Bảo Đại, Ông Ngô Đình Diệm sáp nhập lại vào Trung phần và gọi là Cao nguyên Trung phần. Cao nguyên hiện nay có sáp nhập địa phận các Tỉnh nên còn bao gồm năm tỉnh Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông và Lâm Đồng.
Dù phải xoa dịu để cho Bảo đại lập Hoàng Triều Cương Thổ, song Pháp có chính sách nắm con người Cao Nguyên qua việc hỗ trợ trí thức Thượng thành lập phong trào Bajaraka (thành lập năm 1950, cụm từ viết tắt của Bahnar + Jarai + Radé + Kaho) đứng đầu là ông Y Bham Ênuôl người Ê Đê quan điểm rất ôn hoà. Tổ chức này chủ trương đấu tranh bất bạo động bảo vệ và phát triển các sắc tộc thiểu số. Pháp có chính sách tranh thủ con người để kềm chế Bảo Đại người Thượng thời này tin Pháp hơn người Việt và Pháp nắm nguồn lực kinh tế nên trợ giúp nhiều hơn. Không hề có bạo loạn.
Năm 1958 sau khi thất trận điện Biên Phủ và Bảo Đại mời ông Diệm về nước lập chính phủ VNCH thì Bajaraka gửi yêu cầu đến Đại sứ Pháp và Liên hiệp Quốc yêu cầu các cường quốc can thiệp áp lực để người Thượng được độc lập trong khối Liên Hiệp Pháp hoặc độc lập dưới sự lãnh đạo của Hoa Kỳ. Là kịch bản Pháp tranh chấp với Mỹ dù sao cũng chừa vùng Hoàng Triều Cương Thổ tự trị dưới ảnh hưởng của Pháp. Tuy nhiên Tổng thống Ngô Đình Diệm không tán thành, ông cho đàn áp phong trào tan rã và các thủ lĩnh bị bắt giam.

Năm 1963 khi lật đổ ông Ngô Đình Diệm các thủ lĩnh được thả dẫn đến việc thành lập lại FULRO (Front Uni de Lutte des Races Opprimées: Mặt trận Thống nhất Đấu tranh của các Sắc tộc bị Áp bức) Fulro là một tổ chức liên hiệp gồm ba mặt trận thành lập năm 1964 tại Campuchia dưới sự chủ toạ của quốc vương Sihanouk. Mặt trận gồm ba nhóm Fulro Chăm, Fulro Khmer Krom và Fulro Thượng. Y Bham Enuôl là chủ tịch Mặt Trận Giải Phóng Cao Nguyên Champa, kiêm phó chủ tịch Fulro. Y Bham Ênuôl chủ trương dân sự đấu tranh hoà bình. Nhóm chủ trương vũ trang bạo loạn do Les Kosem Fulro Chăm lãnh đạo. Thực quyền nằm trong tay Les Kosem. Les Kosem tấn công Buôn Sarpa vào ngày 20 tháng 9 năm 1964 ép đưa Y Bham Enuôl về hậu cứ ở Kampuchea không cho thoả hiệp với VNCH.
Năm 1965 Fulbro gây bạo loạn sát hại 32 người và làm bị thương 26 người, chiếm đồn Krong Pách. Nhiều quân nhân VNCH đánh trận và đã có ký ức không tốt về người Thượng theo khuynh hướng bạo động chống VNCH của Fulro bạo động. Khi chuẩn tướng Vĩnh Lộc dẹp tan, truy đuổi qua biên giới thì Hoa Kỳ cho rằng nên thương lượng với Y Bham Ênuôl. Y Bham Ênuôl với tư cách phó chủ tịch của ba nhóm Fulro bắt phần tử quá khích đem về xử tử. Les Kosem bất bình nhưng không dám chống lại Y Bham Ênuôl.
Tuy không chấp nhận trao trả lại quyền tự trị ở Tây Nguyên nhưng Ông Paul Nưr, được bổ nhiệm vào chức vụ phó tỉnh trưởng tỉnh Kontum, ông Y Bhăm Ênuôl, chủ tịch phong trào BaJaRaKa được bổ nhiệm vào chức vụ phó tỉnh trưởng tỉnh Đắc Lắc. Việc đối tượng thương lượng là thủ lãnh người Thượng chủ trương ôn hoà chứ ông Les Kosem không có vai trò nên chưa dập tắt được mầm mống bạo loạn.

Năm 1965, một tuyên cáo chung về “hợp tác Kinh Thượng hoà bình và chống cộng” được ký kết và lễ giao nạp vũ khí của 500 Fulro được tổ chức tại Buôn Buor. Fulro theo Y Bham Ênuôl hợp tác với chính quyền VNCH và Mỹ chống Cộng Sản là một chuyển hướng thành công mỹ mãn của Mỹ. Fulro Cao nguyên VN nhận được trợ giúp của Hoa kỳ và nhiều nhân viên mật vụ chống CS trong chiến dịch Phượng Hoàng của Hoa Kỳ là người Cao nguyên vốn quyết liệt hơn do ít dây mơ rễ má huyết thống với Việt Cộng. Nhóm Les Kosem vẫn tiếp tục quấy rối Cao nguyên xuất phát từ Campuchia với sự tham gia của quân đội Campuchia của Sihanouk rất thân Cộng sản VN thành một thế lực cài răng lược phức tạp vì có khi là nhóm Les Kosem theo Cộng Sản vượt biên giới sang đánh vào VNCH nên làm cho quân nhân VNCH nghi ngờ Mỹ nước đôi.

Năm 1968, VNCH thời ông Thiệu Kỳ tiếp tục kế hoạch của Tướng Nguyễn Khánh, đưa máy bay sang rước Y Bham Ênuôl về hẳn lại Cao nguyên để ổn định và tách khỏi nhóm Les Kosem. Nhóm Les Kosem bao vây căn cứ Camp le Rolland trên đất Campuchia bắt Y Bham Ênuôl đưa về Phnom Penh quản thúc.
Ông hoàng Sihanouk rất can dự đến nội tình VN và có nguồn tin cho là do ông được Chính phủ lâm thời Cộng hoà miền Nam VN trao cho phía Kampuchea 5 hòn đảo của VN đối diện với thành phố Kép là chủ quyền của VNCH, có dân cư VN đang sinh sống. [1]

Mỹ rút khỏi Campuchia thì tất cả cấp lãnh đạo Fulro được lệnh lui về sứ quán Pháp để xin tị nạn. Ngày 20 tháng 4 năm 1975, Khmer Ðỏ bất chấp quy chế ngoại giao, xâm nhập vào sứ quán Pháp lùng bắt tất cả các cấp lãnh đạo Fulro, Y Bham Enuôl, thiếu tá Y Bun Sur, Y Nham, Kpa Dơh, Ksor Duôt, v.v. Sau đó, Khmer Ðỏ đưa họ ra khỏi sứ quán Pháp và ra lệnh tử hình toàn diện nhóm lãnh đạo của mặt trận này.
Ngày 20 tháng 4 năm 1975 là ngày đánh dấu cho sự sụp đổ hoàn toàn của tổ chức Fulro. Chỉ riêng Les Kosem được cho là may mắn thoát thân ra nước ngoài, nhưng thực sự có đúng là may mắn không hay vì Les Kosem thân Cộng chống Y Bham Enuôl vốn thoả mãn với chính sách Cao Nguyên Trung phần của Tướng Nguyễn Khánh.
Lon Nol không thực hiện cam kết với Mỹ dẹp MTGPMN nhưng nhân đó truy quét hết người VN giàu có ở Phnom Pênh khiến họ phải chạy về VN lánh nạn, bỏ lại nhà cửa và toàn bộ gia sản.
Khi đang có bất đồng trầm trọng giữa Liên Xô Trung Quốc, Khmer Đỏ nhận tài trợ từ Trung Quốc chống CSVN theo Liên Xô.
Sau này trong hồi ký của Hun Sen mới nói về việc khi tố cáo VN lấn đất thì chính Khmer Đỏ có kế hoạch đánh dọc biên giới dời cột mốc lấn đất VN. Khmer Đỏ sai Hun Sen chỉ huy các cuộc tấn công đó. Hun Sen đã làm chiếu lệ và bị Khmer Đỏ nghi ngờ truy sát nên phải chạy sang VN.
Khi Hoàng thân Norodom Sihanouk bị lật đổ năm 1970, tất cả những lực lượng FULRO ở Campuchia đều bị sung vào các lực lượng của quân đội Cộng hoà Khmer do tướng Lon Nol chỉ huy và thành đối tượng bị tàn sát của Khmer Đỏ. Fulro nằm yên từ 1970 đến 1974.

Trong luận án phó tiến sĩ của Norman Charles Labrie được đệ trình vào năm 1971 tại đại học Massachusetts ở Hoa Kỳ mang chủ đề Fulro, Norman Charles Labrie đã dành nhiều trang giấy để phân tích chính sách tốt đẹp của Tướng Nguyễn Khánh đối với dân tộc thiểu số nhất là chương trình bình đẳng hoá giữa dân tộc Kinh và dân tộc thiểu số. Nhưng Giáo sư Gs. Danny Wong Tze-Ken của Ðại Học Malaysia, khi dùng tài liệu này đã ngạc nhiên vì sao ông Norman Charles Labrie không có trang nào nói về cơ cấu tổ chức của mặt trận Fulro mà trung ương đặt tại thủ đô Nam Vang, Cao Miên. Norman Charles Labrie viện cớ rằng guồng máy tổ chức Fulro là vấn đề vô cùng khó hiểu, phức tạp, một mặt trận tập trung rất nhiều lực lượng có đủ thành phần sắc tộc trong đó có dân tộc Chăm ở Việt Nam lẫn Campuchia và có sự tiếp tay của thế lực bên ngoài. Tác giả còn cho rằng, một số thành phần của Fulro có liên hệ trực tiếp hay gián tiếp với Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam (cộng sản). Riêng về phía Hoa Kỳ, quân đội Mỹ thường xuyên giúp đỡ đào tạo thành viên quân sự của Fulro qua các trại cải tạo lực lượng đặc biệt của Mỹ và yểm trợ cho mặt trận này về trang thiết bị để chiến đấu vừa chống cộng sản vừa đương đầu với quân đội Việt Nam Cộng Hoà. Ðây cũng là phần quan trọng mà tác giả gọi đó là sự liên hệ giữa Fulro và quân đội Mỹ ở Việt Nam. Tác giả đã mâu thuẫn đến vô lý không có chút logic nào khi nói Mỹ yểm trợ để vừa chống Cộng Sản vừa đương đầu với VNCH. Đã từng có phản ứng của quân đội VNCH nghi Mỹ nước đôi như thế.
Norman Charles Labrie hoàn toàn không đả động gì đến nước Pháp trong khi Pháp chính là một thế lực bên ngoài giúp hình thành tổ chức Bajaraka, tiền thân của Fulro. Pháp sau đó trợ giúp chuyển các nhân vật chủ chốt của Bajaraka thành Fulro. Pháp ủng hộ một nhóm bạo động của Les Kosem trong Fulro cũng như Pháp cũng ủng hộ MTGPMN chống Mỹ.
Nếu Norman Charles Labrie không trung thực bóc tách hai mấu chốt là “Pháp tiếp tay Fulro, Mỹ chuyển hoá Fulro thành công” thì không hiểu nổi Fulro vì rất phức tạp không có lý lẽ nào logic. Nếu không vạch ra Campuchia, Pháp và Mỹ là hai thế lực đối đầu tác động lên Fulro hình thành hai khuynh hướng đấu tranh dân sự thân Mỹ và bạo loạn quân sự thân Cộng Sản trong nội bộ Fulro thì Norman Charles Labrie không thể nào lý giải được Fulro là ai. Vì sao có bạo loạn trước 1975? Norman Charles Labrie cũng không nói gì đến sau 1970 khi Lon Nol loại Siahnouk và sáp nhập Fulro vào quân đội Lon Nol. Người nghiên cứu về Fulro, đọc tác phẩm của Norman Charles Labrie như giáo sư Gs. Danny Wong Tze-Ken cũng rối bời không hiểu nổi khi Fulro vừa theo CS vừa được Mỹ tài trợ...là sao? Vì sao có căn cứ ở Campuchia giống như MTGPMN?
Norman Charles Labrie là nhân viên sứ quán Mỹ nhưng gốc Pháp như Lucien Emile Conein người chịu trách nhiệm lật đổ và làm quá hơn ý đồ của Mỹ là giết ông Diệm. Tinh thần văn hoá Pháp ăn sâu trong huyết quản người Pháp là cực kỳ ganh ghét Mỹ. Người Mỹ đã quá tin vào đồng minh Pháp sử dụng người gốc Pháp chưa có lòng trung thực trung thành với quyền lợi nước Mỹ. Mỹ thất bại ở VN không thể không thấy yếu tố phá rối Mỹ của Pháp. Người ta cho rằng Tổng thống Kennedy chỉ chấp thuận đảo chính dưa ông Nhu ra khỏi nước chứ không phải giết cả hai anh em nhưng dùng Lucien Emile Conein một tình báo Mỹ gốc Pháp và ông ta đã cố tình làm quá tay. Tướng tá VN có thể tin Mỹ nhưng sao có thể tin vào tên Lucien Emile Conein mà không có kiểm chứng gây ra việc VNCH không còn ai xứng đáng và dân sự như ông Diệm phải chuyển thành chính quyền quân sự! Những trí thức Việt Nam học chương trình Pháp các sĩ quan được Pháp đào tạo cũng nhiễm tinh thần chống Mỹ của Pháp nên từng nghi ngờ Mỹ ủng hộ Fulro gây khó cho VNCH! Thật sự Mỹ đã chuyển đổi Fulro ôn hoà theo Mỹ và đã có đến 40 ngàn người Cao nguyên trung phần được tuyển dụng vào các cơ quan quân đội. Phe Les Kosem đột nhập Việt Nam từ biên giới Campuchia sang quấy phá bắn giết đúng là nhóm Fulro tay sai Pháp và CS. Bàn tay của Pháp qua Sihanouk và Cộng Sản VN tham gia xúi dục người Thượng gây khó khăn cho VNCH đã khiến vùng đất này thành xáo trộn, nhiều biến động.

Ngược dòng lịch sử, giai đoạn đầu là chính sách Pháp thuộc nhằm kiểm soát khu vực Tây Nguyên và người Thượng hiền lành không bao giờ tự gây ra bạo loạn. Giai đoạn thứ hai là sau thời Pháp thuộc, Mỹ ép Pháp trao trả độc lập cho Ông Diệm trùng hợp với thời kỳ Fulro đòi quyền tự trị trên Tây Nguyên. Trong giai đoạn kịch bản thứ hai này là do Pháp không dễ dàng rời bỏ quyền lợi. Lịch sử hình thành Fulro cho thấy cội nguồn là Pháp sau Điện Biên Phủ vẫn còn muốn hiện diện ở đông Dương nên dùng người Thượng qua phong trào Bajaraka ôn hoà dấy lên đòi độc lập nằm trong Liên Hiệp Pháp hay Mỹ. Pháp muốn tách cho Pháp vùng Cao nguyên thuộc Liên Hiệp Pháp như Pháp từng tách vùng này cho Bảo Đại. Mỹ yêu cầu Pháp trả chủ quyền hoàn toàn cho miền Nam đổi lấy viện trợ của Mỹ nên Pháp là “đồng minh miễn cưỡng” luôn gây xáo trộn để tìm vị thế cho nước Pháp ở đông Dương và khuấy rối Mỹ trả mối thù Điện Biên Phủ!
Pháp luôn phá hoại chính sách Mỹ ở Việt Nam để cuối cùng khi Mỹ bỏ đi năm 1975 đã trao lại cho đại sứ Pháp Merillon toàn quyền tiếp nối với ông Dương Văn Minh! Pháp đã khuyên ông Dương Văn Minh, Pháp sẽ trung gian để ông Minh yêu cầu Trung Quốc đánh vào miền Bắc làm áp lực buộc CSVN tôn trọng Hiệp định Paris. Ông Minh đã từ chối.
Norman Charles Labrie cho rằng chính sách không tôn trọng dân tộc Tây Nguyên của chính quyền Sài Gòn và sự khác biệt về quyền công dân giữa người Kinh ở miền đồng bằng và dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên là lý do chính đáng của sự ra đời phong trào Fulro là không chính xác
Ngược lại chính sách bám thuộc địa quyết liệt của Pháp, nếu không có Pháp người Thượng và cả Khmer Krom khó có thể hội tụ thế lực chính trị, được ông Hoàng Sihanouk chủ trì thành lập Fulro năm 1964 trên đất Campuchia và có trụ sở ở Campuchia và cả trại đóng quân ở Rolland sát biên giới VN chỉ cách 15 Km? Norman Charles Labrie đã nói theo phát biểu chính thức của Fulro mà không nêu ra một sự kiện nào chứng minh là có khác biệt giữa chính sách giữa Pháp và ông Diệm về Tây Nguyên ngoại trừ việc Ông Ngô Đình Diệm xoá bỏ vùng đặc quyền kinh tế Hoàng Triều Cương Thổ khi truất phế Bảo Đại sáp nhập vào Miền Trung.
Tình báo Pháp quả là bậc thầy về phá hoại gây rối. Nhưng Mỹ lại là bậc thầy về thương lượng giải quyết mâu thuẫn để hai bên đều có lợi.

Khi Cao nguyên bạo loạn Chuẩn tướng Vĩnh Lộc truy quét về phía biên giới Campuchia, Mỹ yêu cầu không truy quét người Thượng qua Campuchia mà thương lượng khiến cho chính giới là quân nhân ít thông tin tình báo của Sài Gòn tưởng lầm là Fulro do Mỹ dựng nên để gây khó cho chính quyền ông Diệm. Nếu không có bàn tay của Pháp qua Sihanouk ảnh hưởng lên quan điểm của Tướng Les Kosem tiến hành gây bạo loạn và ngăn không cho Y Bham Ênuôl nhận chức, quản thúc ông ở Phnom Pênh, thì dưới sự lãnh đạo Fulro ôn hoà của Y Bham Ênuôl đã hiệu quả tích cực đáp ứng nguyên vọng hai phía thời tướng Nguyễn Khánh và tiếp sau thì chính quyền ông Thiệu Kỳ cũng muốn tiếp tục do thương lượng là chính sách dưới sự tư vấn của Toà đại sứ Mỹ.Việc đấu tranh bằng gậy bạo loạn chỉ có lợi cho Pháp và Cộng Sản không có lợi gì cho người Thượng và người VN miền Nam cả.
Mỹ tỏ ra tức giận với chính sách nước đôi của Sihanouk, một mặt Sihanouk kêu gọi trung lập, đồng thời cho phép Bắc Việt chuyển quân trong vùng đất của Campuchia. Kết cục Mỹ giúp tướng Lon Nol và Hoàng thân Sirit Matak lật đổ Sihanouk. Sirit Matak là con dòng vua chính Sisowath, bình thường sẽ là người kế vị vua cha nhưng Pháp chọn Sihanouk con em gái vua Sisowath giỏi tiếng Pháp và bản tính hồn nhiên không bản lĩnh chính trị rất dễ điều khiển. Do có sự không danh chính ngôn thuận theo nguyên tắc Hoàng gia mà Sihanouk không có lễ tấn phong thừa kế ngôi Vua mà vẫn giử danh hiệu Thái tử. Sihanouk hàm ân nước Pháp về việc này.
Ngày 18/10/1970 Washington đã viện trợ 155 triệu USD cho chính quyền của tướng Lon Nol, trong đó 85 triệu USD dành cho lực lượng quân sự với một thoả hiệp là không cho phép Hà Nội dùng lãnh thổ Campuchia. Kết quả không như mong đợi qua thoả thuận với Mỹ. Lon Nol nhân dịp đã khủng bố không phải người việt Cộng Sản mà là người VN giàu có ở thành phố khiến người VN phải bỏ của chạy lấy người về nước. Việc này gây ra một hiểu lầm nữa cho người Mỹ vì Sài gòn biết rõ Lon Nol do người Mỹ ủng hộ. Việt Cộng ẩn mình gần biên giới. Khmer nhận tiền từ Trung Quốc cũng không mặn mà với Cộng Sản Việt Nam. Có sự cố vấn và tham chiến của Trung Quốc, Lon Nol mau chóng bị Khmer Đỏ đánh bại. Ông Hoàng Sihanouk ngả theo Trung Quốc ủng hộ Khmer Đỏ muốn dùng Khmer Đỏ đánh lại Lon Nol. Khmer Đỏ đã tung hoành diệt chủng dân Campuchia và sau đó quay lại quản thúc cả ông Hoàng Sihanouk. Khmer Đỏ cũng diệt gọn Fulro! Thế giới tin vào ông Hoàng Sihanouk có tác dụng với Khmer Đỏ. Khmer Đỏ giữ ghế ở LHQ. Hoàn toàn là toan tính chính trị sai lầm của ông Sihanouk.

Cần giải mã các mấu chốt để thấy vấn đề người Cao Nguyên đã từng chiến đấu sát cánh và nay cũng cùng chung số phận với người Việt miền Nam là quân nhân VNCH bị kỳ thị bêu xấu của CSVN, gần 150.000 người dân tộc thiểu số vào ngục tù mà Cộng Sản gọi là học tập cải tạo.

Khác với Norman Charles Labrie, theo chuẩn tướng Vĩnh Lộc và Nguyễn Trắc Dĩ, Sài Gòn nhận định Fulro chỉ là một nhóm người Thượng ly khai, bị người Chăm lợi dụng, chỉ biết làm tay sai cho Cao Miên, thực dân Pháp và Việt Cộng. Chuẩn tướng Vĩnh Lộc nói đến thế lực tác động điều mà Norman Charles Labrie không chịu nói đến. Tướng Vĩnh Lộc viết:
“Thế lực đầu tiên đó là Cộng Sản. Cộng Sản đã dùng mọi thủ đoạn để yểm trợ cho Fulro, kích động người Thượng nổi dậy chống chính quyền Sài Gòn bằng hình thức đòi tự trị, đòi độc lập ở khu vực Cao Nguyên. Việt Cộng nằm vùng không ngần ngại tạo ra sự phẫn uất trong cộng đồng người Thượng, xúi giục hiềm thù người Kinh sinh sống ở Cao Nguyên mà sự hiện diện của họ chỉ có mục tiêu duy nhất là cướp bóc, chiếm đoạt đất đai và hà hiếp người Thượng. Việt Cộng còn âm mưu tuyên truyền là chính sách dinh điền của chính phủ Sài Gòn thời đó là âm mưu tiêu diệt người Thượng bằng cách đồng hoá dân tộc thiểu số này thành người Kinh”. (tr. 35-36).
“ Thế lực tiếp theo là nhóm thực dân Pháp. Cũng theo tác giả, Pháp đã gây chia rẽ sự đoàn kết Kinh-Thượng và cố tình tạo ra sự câm thù của người Thượng đối với người Kinh. Sau năm 1955, Pháp xúi giục sĩ quan và binh sĩ Thượng chống đối, bất tuân lệnh và chống lại chính quyền Việt Nam. Và sự mâu thuẫn này cứ nối tiếp xãy ra cho đến khi phong trào đòi tự trị Fulro bộc phát ở Cao Nguyên vào năm 1964”. (tr. 33).
Thế lực cuối cùng là chính phủ Cao Miên. Với đường lối trung lập giả tạo thân Cộng Sản, Cao Miên đứng ra yểm trợ cho phong trào tự trị Fulro ở Cao Nguyên, ủng hộ và chứa chấp phong trào tự trị này trên lãnh thổ của mình. Tác giả kết luận rằng sự vùng dậy của Fulro vào ngày 20 tháng 9 năm 1964 chỉ là mưu đồ của Cao Miên và Pháp tạo dựng. Nếu không có sự yểm trợ của chính phủ Cao Miên và Pháp, thì tập đoàn Fulro không có tiềm năng để vùng dậy ở Cao Nguyên vào thời điểm đó”. (tr. 34-35) [2]

Theo Dominique Nguyen (Chương trình thế giới Mã Lai-Ðông Dương) “...đột nhiên, vào tháng 6 năm 1979, “Bóng hình Fulro” lại xuất hiện trên bàn cờ chính trị Ðông Dương. Chính ông Ieng Sary, một trong những lãnh tụ Khmer Ðỏ tuyên bố rằng có một tổ chức mang tên Fulro-Dega vẫn còn hiện hữu, và nhóm này đã góp phần đấu tranh đắc lực bên cạnh Khmer Ðỏ để chống lại quân xâm lược Việt Cộng. Lực lượng Fulro cũng thường trao đổi với Khmer Ðỏ về chiến dịch quân sự, tin tức tình báo và kinh nghiệm về du kích chiến. Theo ông Ieng Sary, lực lượng Fulro đã dẹp tan hơn 200 quân du kích Cộng Sản ở Tây Nguyên vào tháng 2 và 3 năm 1979. Tiếc rằng, ông Ieng Sary không cho biết ai là người lãnh đạo nhóm Fulro-Dega Theo ông Ieng Sary, lực lượng Fulro đã dẹp tan hơn 200 quân du kích Cộng Sản ở Tây Nguyên vào tháng 2 và 3 năm 1979”.

Cũng theo Dominique Nguyen, Theo đài phát thanh Khmer Ðỏ loan tin vào ngày 23 tháng 1 năm 1980, chính phủ Khmer Ðỏ có nhận một văn thư khác của lực lượng Fulro-Dega, với nội dung là Cộng Sản đang áp dụng chính sách diệt chủng dân tộc thiểu số ở miền Trung Việt Nam. Thư này cũng cho biết rằng, kể từ năm 1975, Hà Nội đã đưa gần 150.000 dân tộc thiểu số vào ngục tù mà Cộng Sản gọi là trại cải tạo tư tưởng. Gần 9 tháng sau, tức vào ngày 18 tháng 10 năm 1980, tờ Washington Post viết rằng, Trung Quốc rất quan tâm đến sự yểm trợ súng đạn cho các dân tộc Tây Nguyên thuộc nhóm Fulro-Dega, nhằm phá tan quyền thống trị Hà Nội ở các nước Ðông Dương”. [2]
Do có giai đoạn Fulro Degar hợp tác với Khmer Đỏ nhận tài trợ từ Trung Quốc mà nhiều người VN đang đấu tranh về Boxit Tây Nguyên e Trung Quốc sẽ lại dùng người Thượng gây rối như đã từng làm.

Năm 1983, quyển sách Ðập nát công cụ hậu chiến CIA: FULRO do Nhà xuất bản Thành Phố Hồ Chí Minh phát hành, cho là công an Hà Nội đã có công dẹp tắt phong trào Fulro ở Tây Nguyên mà phóng viên Thành Tín cho rằng là công cụ của CIA Mỹ, thật ra thời điểm đó Fulro được Trung Quốc yểm trợ. Những nhà phân tích thời sự VN mà không nhiều thông tin và mang định kiến cũng như chưa có tầm nhìn bàn cờ quốc tế sẽ gán ép như thế.

Đến năm 1992 có 407 binh sĩ FULRO cuối cùng ra giao nạp vũ khí cho quân mủ xanh gìn giử Hoà bình của Liên Hiệp Quốc tại Campuchia.
Mãi đến năm 1992, theo phóng viên Nate Tahyer, lực lượng mang tên là Fulro-Degar do Ðại Tá Y Peng Ayun lãnh đạo vẫn tiếp tục liên hiệp với Khmer Ðỏ để chống lại quân xâm lăng Hà Nội, lực lượng của Ðại Tá Y Peng Ayun chỉ còn lại khoảng 2.000 người. Degar theo định nghĩa là danh từ Pháp dùng đồng nghĩa với montagnard nhưng chỉ cho nhóm người thượng sống ở Cao nguyên Trung phần VN ( không bao hàm miền Bắc VN) Degar là những gì còn sót lại khi chính sách đô hộ của Pháp chấm dứt một cách miễn cưỡng nhập nhằng ở VN. Khmer Đỏ còn có dân để bám vào nhưng Fulro-Degar không thể tự tồn tại. Trung Quốc viện trợ cho Khmer Đỏ thì nhiều khả năng cũng viện trợ cho Fulro-Degar. Từ biên giới Thái Campuchia, Ðại Tá Y Peng Ayun tuyên bố rằng, lực lượng Fulro-Degar sẽ tiếp tục đấu tranh cho tới khi nào Cộng Sản trao trả lại tự do cho dân tộc Cao Nguyên. Năm 1994, Việt Nam rút quân ra khỏi Campuchia, Khmer Ðỏ cũng chấm dứt mọi hoạt động. Một chính phủ liên hiệp bắt đầu hình thành ở Campuchia, dưới sự bảo trợ của Liên Hiệp Quốc. Riêng về Fulro-Dega ở biên giới Thái Campuchia, Ðại Tá Y Peng Ayun, ra điều kiện sẵn sàng chấm dứt mọi đấu tranh vũ trang, nếu Liên Hiệp Quốc bảo trợ để Fulro-Degar sang định cư ở Hoa Kỳ. Năm 1994, Liên Hiệp Quốc và Hoa Kỳ chấp nhận yêu sách của Y Peng Ayun, toàn bộ Fulro-Degar được sang định cư ở Mỹ.

III.
Bạo loạn ở Tây Nguyên năm 2001 và năm 2004
và vùng biên giới VN Campuchia


Vụ bạo loạn 2001
Ngày 31-1-2001, khoảng 500 người Jarai kéo tới trụ sở huyện Chu Prong phản đối việc bắt giam và đòi trả tự do cho hai ông Rahlan Pon và Rahlan Djan, bị lực lượng công an biên phòng bắt hai ngày trước đó.
Khoảng 6.000 tín hữu Jarai từ khắp nơi trong tỉnh Gia Lai kéo đến trụ sở tỉnh uỷ và uỷ ban nhân dân thành phố Pleiku yêu cầu thả hai tín đồ Tin Lành vừa kể. Cuộc biểu tình sau đó biến thành phong trào đòi tự do tôn giáo và trả lại đất đai cho dân tộc Tây Nguyên. Thay vì tìm một giải pháp đối thoại, chính quyền Hà Nội lại gán cho họ là những phần tử Fulro, ra lệnh cho quân đội và công an dùng mọi quyền lực để tiêu diệt nhóm này. Dân tộc Cao Nguyên cũng sa vào bạo lực chặt tay một số cán bộ an ninh của Cộng Sản và đánh tổn thương nhiều cán bộ Cộng Sản khác. Một số nữa bị bắt giam để làm con tin cho cuộc thương thuyết giữa anh em Tây Nguyên và chính quyền Hà Nội.
Vào đầu tháng hai năm 2001, chính quyền Hà Nội lên tiếng yêu cầu Hoa Kỳ không nên nhúng tay vào cuộc vùng dậy của dân tộc Tây Nguyên. Theo Hà Nội, sự vùng dậy này là chuyện nội bộ của Việt Nam. Hai mươi bốn người Cao Nguyên đã chạy sang Campuchia bị lực lượng biên phòng Campuchia bắt giữ. Ða số người dân tộc Tây Nguyên xin tị nạn là những cựu chiến binh của Hoa Kỳ trong chiến tranh ở Việt Nam trước năm 1975 và cũng là những thành viên cũ của Fulro. Hà Nội yêu cầu thủ tướng Hun Sen cho dẫn độ tội phạm, Hoa Kỳ can thiệp với Hun Sen để đưa 24 thành viên này sang định cư ở Mỹ. Cao Uỷ Liên Hiệp Quốc còn cho biết rằng có hơn 1.000 người nữa chạy sang lánh nạn ở tỉnh Mondulkiri, Campuchia. Hà Nội trục xuất G. Moussay là linh mục thuộc cơ quan truyền giáo của Missions Etrangères de Paris, đã thành lập Trung Tâm Văn Hoá Chàm tại Phan Rang vào năm 1968, và cũng là người đi lại với trung tá Les Kosem, một nhân vật chính trong tổ chức Fulro bạo động nhưng đã chết năm 1976 ở Mã Lai.
Vụ năm 2001 là từ các chính sách nội bộ chứ không phải phát xuất từ sự sách động bên ngoài. Trong tiềm thức người Cao nguyên dưới thời Pháp thuộc hay trước năm 1954 chưa đầy 300 người Kinh sống ở Vùng Cao Nguyên Trung phần. Hôm nay, người Kinh tràn ngập cả thành phố và rừng núi Tây Nguyên! Đắc Lắc nay có dân số 1.737.600 người, mật độ 132 người/km². Thành phố Buôn Ma Thuột có dân số 340.000 người, có 43.469 người dân tộc thiểu số. Tỉnh Bình Phước dân số 783.600 người mật độ 114 người/km².

Vụ bạo loạn 2004
Từ 10 đến 11-4-2004, hàng chục ngàn người sắc tộc Tin Lành gốc Tây Nguyên biểu tình trước Uỷ Ban Nhân Dân tỉnh Ðắc Lắc, căng biểu ngữ đòi tự do tín ngưỡng và đất đai của họ đã bị truất hữu. Có ít nhất 17 người bị bắn chết, trên 150 bị thương, khoảng 300 người bị bắt và gần 100 người khác chạy qua Kampuchia lánh nạn. Norodom Sihanouk hứa là sẽ can thiệp với chính phủ Hun Sen để đón nhận những người gốc Tây Nguyên chạy sang Campuchia lánh nạn.
Ksor Kok còn có tên gọi là A Ma Thom, SN 1943, dân tộc Gia Rai, tại xã La Broai, huyện Ayunpa, tỉnh Gia Lai. Y Bham Ênuôl từng bổ nhiệm Ksor Kok làm tổng tham mưu trưởng FULRO. Hiện nay Ksor là người sống sót duy nhất trong ban lãnh đạo Fulro. Ông Ksor Kơk kêu gọi thành lập Nhà nước Đegar tự trị. Có khoảng 3.500 người đi biểu tình, gây rối xảy ra ở 30 làng trên địa bàn 3 huyện (Đăk Đoa, Chư Sê, Ayun Pa). Có làng chỉ có vài người, có làng đến 30 - 40 người tham gia. Tổng cộng có khoảng 40 - 50 xã đã xảy ra vụ việc này.
Việt Nam tố giác Ksor Kok gây bạo loạn khủng bố và ly khai nhưng chưa có đủ bằng chứng thuyết phục người Thượng có vũ trang. Ông Nguyễn Vỹ Hà đã tiếp và làm việc với hai viên chức ngoại giao Mỹ là Noah Zaring và Marc Forino. Ông Hà nói chúng tôi cũng phải nói thẳng rằng liệu có hay không sự ủng hộ Ksor Kơk và Quỹ người Thượng từ phía Chính phủ Hoa Kỳ? Chúng tôi ghi nhận “tuyên bố” của Chính phủ Hoa Kỳ rằng “không ủng hộ tổ chức phản động Đề Ga”, song chúng tôi nhận thấy không hoàn toàn như vậy. Giữa lời nói và việc làm của các ngài có một khoảng cách khiến có lúc chúng tôi cảm thấy quan ngại và nghi hoặc.
Nhưng có nhiêu dấu hiệu cho thấy chính Trung Quốc là nước đang viện trợ cho người Chăm trong một chiến lược tổng thể xâm nhập Tây Nguyên. Và phải nói chính xác là Mỹ có đạo luật trung lập của liên bang. “Công dân Mỹ không thể dính líu vào âm mưu lật đổ một chính phủ có chủ quyền mà Mỹ đang có quan hệ hoà bình”. Vì Vậy Mỹ mới bắt ông Vàng Pao tướng Lào lưu vong khi mua vũ khí. nếu Trung quốc giúp tiền cho người Chăm mua vũ khi xâm nhập VN thì Mỹ sẽ ra tay như với Vàng Pao. Toà án Mỹ tuyên bố: "Bất luận lý lẽ của họ thế nào, đã là công dân Mỹ thì không thể tham gia vào việc lật đổ một chính quyền hợp hiến".
Các tổ chức dân sự đấu tranh cho tự do dân chủ nhân quyền của người Việt và Thượng mà CSVN thường hay gán ghép là tổ chức “phản động” khủng bố một cách không chính xác theo định nghĩa quốc tế, trái lại là hợp pháp ở Mỹ, được bảo vệ. Mỹ sẽ can thiệp bảo vệ công dân của Mỹ nếu bị VN bắt mà không chứng minh được là có hoạt động vũ trang lật đổ chính quyền! VN là nước đang đi ngược nền văn minh và nước duy nhất Châu Á còn độc đảng là Đảng Cộng Sản. Kể cả Trung Quốc cũng có các đảng khác hơn CS dù còn yếu.
Có câu: “Chiến tranh xảy ra vì thiếu lời nói!”. Đối thoại, thương lượng luôn là giải pháp thống nhất tư tưởng và biết phải tôn trọng sự tồn tại của nhau! Người CSVN chưa làm tốt điều này khi chưa chịu đối thoại chưa có giải pháp phát huy hiệu quả phản biện của người bất đồng chính kiến!

IV.
Hoài niệm về người cao nguyên


Tôi sống ở đồng bằng nhưng lại có dịp biết về vùng Cao nguyên Trung phần rất sớm. Khoảng năm 1958 khi học lớp đệ ngũ, ở tuổi 15 tôi được đi thăm vùng Hoàng Triều Cương Thổ vừa sáp nhập lại vào Cao nguyên Trung phần trong một chuyến đi tham quan học tập dành cho học sinh giỏi cả nước do Tổng Thống Ngô Đình Diệm bảo trợ. Đoàn học sinh cả nước tập trung về trường Gia Long Sài Gòn và đi Buôn Mê Thuột bằng xe nhà binh. Tôi được thăm Biệt điện của Bảo Đại và cưỡi voi! Một địa danh rất lạ ở Buôn Mê Thuột là hồ Lắk, một hồ nước mênh mông trên vùng núi cao. Nơi đèo heo hút gió đó có tư dinh của quận trưởng với bộ sưu tập bướm rừng VN rất đẹp. Thuở ấy Buôn Mê Thuột còn các cô gái ngực trần đi chợ bán măng lồ ồ, gà và mật ong... Chuyện người ta hay chú tâm nói với nhau là ông ba mươi về vật heo hay voi về phá mía...
Từ khoảng năm 1960 Tổng Thống Ngô Đình Diệm lập Tỉnh Phước Long, cách Sài Gòn khoảng 150 km về phía Bắc, tên thường gọi là Bà Rá, theo tên núi Bà Rá. Bà Rá là vùng có nhà tù Bà Rá biệt giam tù chính trị trọng án gần Thác Mơ. Phước Long ngăn chặn hành lang vận chuyển của CS từ Lào và Campuchia vào Đông Nam Bộ và án ngữ chia cắt Lộc Ninh với vùng phía Nam Cao nguyên Trung phần.
Mặt trời chỉ có một, nhưng nếu ngắm mặt trời mọc ở đồng bằng các tia nắng phản chiếu màu xanh cây lá êm dịu thì từ đồi cao của Cao nguyên đất đỏ cảnh quan lại rực rỡ khác thường. Đất đỏ Basal dồi dào sinh khí, không cần đến phân chỉ cần vùi một hạt bí đỏ mọc ra cả cụm và cho vài chục trái. Sợ nhất là sâu và cuốn chiếu có con lớn gần bằng ngón tay út!
Thật ra tôi chưa bao giờ thấy cọp dù biệt thự trụ sở ty giáo dục, nơi Ba tôi ở và làm việc có rào cây, sợ bị cọp về. Tôi thường xuyên gặp người Thượng, nghe nhiều câu chuyện về người Thượng, về trẻ con người Thượng. Tôi tắm ở Thác Mơ Bà Rá với bóng các cô gái Thượng ở phía xa đầu nguồn. Các cô gái Thượng còn ngực trần này ít bắt chuyện với người Kinh, không bao giờ chịu tắm chỗ dưới nguồn nếu có người đang cùng tắm! Người Thượng chân thật và chưa biết giá trị tiền, được trả tiền mới tinh thì rất thích và món gì cũng bán từng bó với cùng một giá, giống kiểu các cửa hàng bán món gì cũng 99 cent ở Mỹ! Vài năm sau hầu hết đã mặc quần áo không còn đóng khố hay ở trần.
Còn câu chuyện về người Thượng núi rừng khi nam còn đóng khố nữ ngực trần luôn là những ngạc nhiên buồn cười. Chuyện người Thượng bắt đầu được khuyến khích mặc quần áo không phân biệt được áo quần cho nam hay nữ. Các bé trai người Thượng bị cha mẹ cho mặc áo đầm nữ đi học. Chuyện các thiếu niên trai người Thượng dùng tự điển bỏ túi để quấn thuốc lá hút còn khen là xé ra vấn điếu thuốc rất vừa vặn, xin Thầy giáo một quyển nữa cho cha mẹ hút thuốc! Chuyện kiện cáo ngoại tình không chịu cách xử “đổi vợ” như có lúc xảy ra êm thấm mà đòi bồi thường heo gà, lý do chê vợ ông kia ghẻ lác, xấu hơn! Chuyện một thanh niên Thượng gùi trên lưng cô bé lên bốn năm tuổi hỏi là con hay em thì được trả lời là vợ, nuôi bé gái lớn lên làm vợ. Chuyện người Thượng đi bầu Tổng thống bị Việt Cộng gạt: Hơ, ngày mai đi bầu nhớ mang hình Tổng Thống Ngô Đình Diệm về để trong nhà. Có hình Tổng Thống trong nhà chính quyền khen mình tốt”. Thế là nghe theo mang phiếu có hình ông Diệm về! Tuy nhiên các thùng phiếu vùng xa xôi này chắc đã có bàn tay “phù phép“! Người Thượng hiền lành cứ mãi chẳng được sống yên với kẻ nhiều mưu đồ chính trị.

Về cao nguyên miền Bắc, năm 1905, người Pháp đã chọn Sa Pa làm nơi phát triển du lịch do không khí mát mẻ, trong lành và cảnh quan đẹp. Năm 1909, một khu điều dưỡng được xây dựng, người Pháp bắt đầu xây dựng 300 biệt thự và tuyến đường sắt Hà Nội - Lào Cai giúp Sa Pa thành thủ đô nghỉ hè của miền Bắc như Đà Lạt trong Nam. Tổng cộng, người Pháp đã xây dựng ở Sa Pa gần 300 biệt thự.
Năm 2004 tôi đi du lịch Sapa, có nhiều nhóm dân tộc còn sống cách biệt từ cách ăn mặc đến tập tục. Đáng chú ý là Chợ Tình hàng tuần vào thứ bảy! Tôi đi xem chợ Tình vào chiều cuối tuần và chứng kiến cảnh cánh xe ôm người Việt và người dân tộc nắm tay bắt gái. Có vẻ chuyện tình dục sẽ xảy ra đâu đó rồi thôi chứ không theo tục mang cô gái về nhà tìm hiểu trong ba ngày và nếu ưng ý sẽ tiến hành cưới hỏi. Nếu cô gái có thai sinh con thì cũng chẳng sao, miễn đừng có lai da trắng trông không giống ai, cộng đồng đó vẫn nuôi đứa bé không cha. Các chị bán hàng ở Chợ Sapa đồng thời là vận động viên sinh đẻ kế hoạch, còn cho tôi biết nhiều chuyện biến tướng rất không hay. Người cha lợi dụng bảo đứa con trai còn thiếu niên chưa muốn lấy vợ bắt gái trẻ về nhà cho mình! Dường như nếu không muốn cô thiếu nữ có thể bỏ về nhà mình. Dù sao cũng mới là dụ dỗ chứ không nghe nói đến chuyện dùng bạo lực hiếp dâm!
Chợ tình Sapa vẫn diễn ra hàng tuần vào đêm thứ bảy ở sân nhà thờ Sapa và thanh niên nam nữ nay ra chợ bằng xe ôm chứ không đi bộ cả ngày đường. Đó là một thực tế tôi chứng kiến tận mắt và thấy thương cho các bé gái quá ngây thơ! Tôi đi xe ôm ra sân nhà thờ chừng 8 giờ tối, đã thấy các bác tài xe ôm người Việt hay người Thương khá khó phân biệt nắm chặt tay cô gái trẻ xinh đẹp ngay khi các cô đến chợ sớm nhất khi mới bắt đầu đàn hát chứ không chờ đến khuya sau khi màn biểu diễn tan men tình đã dậy mới cặp đôi. Họ chẳng đàn hát thuyết phục gì mà chỉ nắm tay cô gái không chịu buông. Không biết rõ cuối cùng, nếu không chịu các cô sẽ làm sao thoát khỏi cánh xe ôm đã chấm và bám riết các cô khi chở các cô từ thôn bản ra nhà thờ và kết cục cô gái có chọn tìm được người bạn tình ưng ý hát hay thổi kèn là kèn môi tài ba hay không nữa! Còn các thanh niên đàn ca thì có thêm tiết mục chú ý xin tiền chứ không phải chỉ lo tìm bạn gái... Bãi đổ xe ôm cách xa nhà thờ một đỗi khuất tầm nhìn nên ra nhà thờ không thấy các cô gái xinh xinh đâu cả.
Ông Cư Hoà Vần - nguyên Chủ tịch Hội đồng Dân tộc của Quốc hội VN nói: Không thực sự không có chợ tình! Những chợ Sa pa, Khâu Vai... là chỗ diễn ra giao lưu về văn hoá – thông tin – tình cảm. Có một điểm rất nhân văn, như ở Khâu Vai: những người thời trẻ yêu nhau nhưng không lấy được nhau, đến chợ gặp lại nhau để tâm sự, hỏi thăm giờ sống ra sao, có hạnh phúc không, nếu hạnh phúc thì chúc mừng, nếu éo le thì an ủi nhau. Người chồng, người vợ của mình cũng thông cảm không ghen tị. Nhưng một số người Kinh lại cường điệu, thêu dệt là ở Khâu Vai người ta đồn: đến đó người yêu cũ gặp nhau tha hồ kéo nhau đi, muốn làm gì thì làm... điều đó hoàn toàn là bịa đặt.
Ông Vần ghét bị người Kinh đùa cợt như gọi dân tộc H’Mông là “Hở Mông”! Ông Cư Hoà Vần không đi thực tế, tô hồng lãnh vực ông phải chịu trách nhiệm. Cho nên khi đọc mấy vần thơ thật đẹp của nhà thơ Phan Ni Tấn:
Chẳng hiểu em nói cái gì
Nhìn môi một cụm xuân thì cũng thương
Em xinh như đoá hướng dương
Mọc hoang theo lối về buôn bản nghèo

Tôi không hồn nhiên dạt dào cảm xúc thơ mộng như các nhà thơ mà sợ e hủ tục còn nặng, hơi hướm trần tục miền xuôi và trời Tây đã làm lấm lem tình yêu trong trẻo “cho không” của của các thiếu nữ vị thành niên xinh xắn đó! Có khi còn gây ra nguy hiểm là truyền cho các cô bé bệnh… Aids! Nhà nước phải tác động ra sao để người dân tộc thụ hưởng được kiến thức y tế, nếu không có giải pháp can thiệp sẽ có nhiểu mảnh đời tội nghiệp?
Báo chí nhìn một góc nhìn khác, viết rằng “du lịch nhân văn” ở Sa Pa vẫn có nhiễm kiểu “đi khách” như dưới xuôi và ở Sa Pa, thỉnh thoảng mọi người vẫn thấy một vài đứa trẻ dân tộc có làn da trắng và mái tóc vàng. Còn nhiều cô gái Sapa nói tiếng Anh giỏi hơn tiếng Việt.
Tôi hỏi chuyện một cô gái 14 tuổi ở Sapa rằng: Con ao ước gì nhất? Cô bé bảo: Con ao ước được ra Hà Nội”. Thật bất ngờ khi cô bé nghe tôi nói giọng miền Nam còn biết hỏi bà người Sài Gòn hả? Sài gòn nghe nói đẹp lắm! Tôi hỏi: Khi nào con mới đi chợ tình? Cô bé bảo sau 18 tuổi, như cô giáo dạy!” Tôi mừng vì ít ra cũng đã có chút cái tốt đang được cố gắng gieo rắc!
Ngồi nghỉ chân, ngắm thác, tôi hỏi một cô bé khác về gia cảnh. Cô bé bảo nhà rất nghèo chưa có vòng bạc đeo hay miếng bạc ròng chạm trổ để đính áo và làm của hồi môn khi lấy chồng. Nhà người dân tộc nào làm Công An thì khá giả vì có lương. Cô bé ngây thơ nói không biết sao người ta ghét ba con không cho làm Công An! Tôi cố giải thích cần phải đi học, và còn nhiều nghề khác chứ đâu chỉ có một nghề Công An. Công An là nhà nước chọn mình, còn mình có thể chọn nghề như đi làm du lịch bán hàng như vài em gái Sapa bán thổ cẩm trong tiệm thêu hay làm công ở nhà hàng khách sạn. Cô bé bảo không có tiền đi học nghề và cha mẹ không biết để cho đi học! Đến đây thì không biết làm sao chỉ ra cho cô bé con đường giải quyết sự yếu kém tài chính và cải thiện tầm nhìn của các bậc cha mẹ người Thượng.

Miền Bắc chủ trương đưa trường học về bản làng, trong khi trong Nam trước 1975 chủ trương lập trường nội trú cho người Thượng ra miền xuôi ra thành thị học, cuối tuần về gia đình, trợ cấp cho gia đình nào cho con đi học và học bổng toàn phần miễn phí hoàn toàn cho học sinh. Môi trường đô thị cũng là một bài học về cuộc sống nhiều mặt cho thiếu niên như luật đi đường, biết mua bán, biết ăn chín uống chín... chứ không chỉ là con chữ. Muốn làm như trong Nam trước 1975 phải có kinh phí lớn hơn vì giống người Việt Nam cho con đi học nước ngoài vậy!
Con đường hoà nhập dân tộc hiện cũng đã và đang diễn ra chầm chậm, không phải qua “báo cáo tô hồng” của các nhà chính trị Việt Nam gốc Thượng mà là cụ thể như: Các cuộc hôn nhân Kinh Thượng vẫn diễn ra đều đặn không có gì ầm ĩ vì đã thành chuyện thường ngày, làm gì có chuyện “trong thâm tâm không coi người Thượng là đồng bào”? Làm sao biết “thâm tâm” ai nghĩ gì?
Thành tích học vấn của người Thượng cứ ngày một nhiều hơn... Lò Thị Diễm Ngọc (dân tộc Thái) Thủ khoa trong Trường THPT Ngọc Hồi, là dân tộc thiểu số ở tỉnh Kon Tum.
Cô giáo Nông Thị Tính, người dân tộc Nùng, dạy môn hoá học tại trường THPT Bố Hạ, Yên Thế Bắc Giang.
Hà Khương Duy - học sinh dân tộc thiểu số đầu tiên đoạt huy chương vàng Olympic toán học quốc tế với điểm số 39/42, đứng thứ ba trong thứ hạng quốc tế. Mẹ của Duy cho hay, lúc năm tuổi Duy đoạt giải Nhất môn toán kỳ thi học sinh giỏi tỉnh Bắc Giang. Hay điển hình môt tỉnh Nghệ An có số học sinh dân tộc thiểu số tham dự kỳ thi tương đối lớn, với 3.268 em/ 48.360 thí sinh dự thi.
Tổng bí thư CSVN là người dân tộc thiểu số và khổ thay, thay vì lo cho người dân tộc, giải thích trấn an về độ an toàn nếu xây nhà máy điện nguyên tử ở Cao Nguyên v.v., ông đã để diễn ra các chính sách mua bán đất đai Tây Nguyên tệ hại vì chính ông cũng có mua rẻ một vùng đất xây nhà, giống như chị Hai ông Nguyễn Tấn Dũng. Dù sao thì sau đó nhà nước VN có gặp gỡ tranh thủ gia đình ông Ksor Kok, xoa dịu đồng bào Thượng Nhưng dù sao người Thượng cũng chung số phận khi ông Nông Đức Mạnh tuyên bố: “Không để trò chơi dân chủ lọt vào quốc hội!” Sao dám coi dân chủ là trò chơi, coi đại biểu quốc hội là trẻ con sợ bày trò chơi dại dột nên phải cấm! Ông Nông Đức Mạnh cũng tự ý ký với TQ cho khai thác bô xít làm thành lo lắng bất bình vì tính không kinh tế và nguy hại môi trường sống! Ông Nông Đức Mạnh còn không chịu xử lý minh bạch việc Tổng cục II và con ma tình báo T4 được dùng để xây dựng phe phái triệt hạ cán bộ. E rằng con Ma T4 này cũng đã từng tham mưu nhiều chính sách, cung cấp nhiều thông tin không chính xác khiến cho Hà Nội nuôi dưỡng mâu thuẫn, phá hoại cộng đồng người Việt Kinh Thượng nước ngoài như cấm băng nhạc Chế Linh, cấm quan hệ giao lưu của người VN trong ngoài nước, đơn giản để ngành an ninh thành chú khổng lồ nuốt hết ngân sách mà không có mấy công việc cần để làm... Còn đề ra chính sách kỳ thị như có thân nhân ở nước ngoài không được vào đảng, đã vào đảng không được làm chức vụ, vu oan giá hoạ các tổ chức đấu tranh dân chủ của người VN ở nước ngoài v.v. Dưới sự tham mưu của ngành tình báo vừa không nghiệp vụ vừa bạo lực vừa không chính xác, CSVN trở thành một bộ máy khổng hồ chuyên gây sứt mẻ thêm tình dân tộc. Cuối cùng hai sự kiện sau đây chứng tỏ là giới chức Úc gốc Châu Âu và gốc thổ dân biết con đường tiến bộ hoà giải phải đi, còn ông Nông Đức Mạnh kéo dân VN ngược về cuộc sống bộ lạc kiểu cộng sản nguyên thuỷ khi làm việc buộc học tập “gương Bác Hồ” người từng truy sát nhiều nhà yêu nước đẩy VN vào chiến tranh và nội chiến sai lầm.

Trong bài diễn-văn khai-mạc phiên họp đầu tiên năm 2008 của Quốc hội, Thủ tướng Liên bang Úc nói rằng: “Với tư-cách là Thủ tướng Úc, tôi xin lỗi.... nhân danh chính phủ Úc tôi xin lỗi... Nhân danh Quốc hội Úc tôi xin lỗi về đau thương, thống khổ và tổn thương của những Thế hệ bị đánh cắp, với con cháu và gia đình họ bị bỏ lại, chúng tôi xin lỗi. Chúng tôi gửi lời xin lỗi đến các bậc cha mẹ, các người anh, người chị của những gia đình và cộng đồng tan nát đó. Chúng tôi xin lỗi vì đã coi rẻ và xúc phạm một dân tộc có một nền văn hoá đáng tự hào như vậy”. (As Prime Minister of Australia I am sorry. On behalf of government of Australia I am sorry. On behafl of Parliament of Australia I am sorry for the pain, suffering and hurt of these Stolen Gerenations, their descendants and for their families left behind, we say sorry. To the mothers and fathers, the brothers and sisters, for the breaking up of families and communities, we say sorry. And for the indignity and degradation thus inflicted on a proud people and a proud culture, we say sorry...)

Để cùng tiến bộ thổ dân Úc cũng đã lên tiếng nhận khuyết điểm và xin lỗi khi chính phủ liên bang Úc tuyên chiến với nạn xâm hại trẻ em ở cộng đồng thổ dân vào tháng 6.2007. Đàn ông thổ dân tai tiếng về bạo hành. Đại biểu John Liddle tại Hội nghị thổ dân thừa nhận điều này, ông hô to: "Chúng ta không phải là những kẻ hoang đàng, chúng ta cần phải công nhận những tổn thương và nỗi đau mà chúng ta đã gieo rắc bằng bạo lực là một sự xấu hổ cho cộng đồng và làm mang tiếng cho những đàn ông thổ dân hiền lành". Hội nghị thổ dân tại Alice Spring đã chính thức đưa ra lời xin lỗi với nội dung như sau: "Chúng tôi, những đàn ông thổ dân tại Central Australia cùng với những người anh em thổ dân trên toàn nước Úc xin được nói lời xin lỗi cho những sự nhục mạ, đau đớn mà phụ nữ phải gánh chịu do đàn ông thổ dân gây ra. Chúng tôi cũng xin được nói rằng chúng tôi đang cần tình thương và sự hỗ trợ từ phụ nữ thổ dân để chúng tôi có được chuyển biến tích cực hơn".

Tôi cũng mong Việt Nam có ngày “Sorry Day” cho thảm sát Huế ở VN mà số chết khoảng sáu ngàn người, không thấp hơn số chết của toàn bộ thổ dân ở Úc ở Tasmania khiến chính phủ Úc phải xin lỗi. Năm 1969, phóng viên Don Oberdorfer báo cáo rằng hầu hết những người nam trên 15 tuổi trốn tránh trong một nhà thờ khu Phú Cam đều bị đem đi và bắn chết. Khi Oberdorfer phỏng vấn Hồ Tý, một chỉ huy Việt Cộng trong cuộc tổng tấn công 1968 đã đào ngũ, ông này cho biết Đảng Cộng Sản Việt Nam có lưu ý đặc biệt về khu công giáo Phú Cam vì "người công giáo là kẻ thù của chúng tôi". Số phận người VN có gì sung sướng đáng hãnh diện so với người Thượng chứ!

Cách phát triển của nước Úc và thổ dân Úc là những gì tốt đẹp. Tôi mong có ngày người Kinh Thượng đang sống ở VN và nước ngoài cũng có được ngày như thế!

Người Chăm đồng bằng và người dân tộc Lạch ở thành phố như Đà Lạt thủ đô của Hoàng Triều Cương Thổ từ lâu đã không khác người Việt. Tôi có vài cô bạn học ở trường Dược Sài Gòn khi tự xưng người Chăm thì mới biết và giới nữ trải qua đại học chung với người Kinh cũng lấy chồng người Kinh không có ngăn cách nào. Tên họ, cách sống, ăn mặc hoàn toàn giống người Việt.
Cho đến giờ tôi mãi còn mối băn khoăn nhất là sau khi thăm Sapa không biết người Thượng muốn phát triển ra sao. Kiểu hoà nhập với người Kinh như miền Nam như người Khmer Chăm hay như miền Bắc vẫn sống kiểu bộ tộc đầy nguy cơ bệnh tật và quá cách biệt với các phương tiện xã hội như trường Đại học, bệnh viện các khu vui chơi giải trí mà cô bé cao nguyên Sapa cháy bỏng niềm ao ước được viếng thăm?

Tại sao VC tuyên truyền là sẽ bị ông Diệm biến thành người Việt thì người Thượng lại nghe theo, cho là không tốt cho người Thượng sao? Thành người Việt với ý nghĩa văn minh tiến bộ thì tốt chứ sao không hài lòng? Người Thượng chê và kỳ thị kiểu sống của người Kinh sao? Hiện nay ở thế kỷ 21 còn bộ tộc phụ nữ mặc lá cây rừng nam che hạ bộ bằng trái bầu khô chẻ đôi trẻ con không có trường học không có nhà thương, là tốt hay là sự vô tâm của chính phủ Indonesia đây?

V.
Phản biện những điều gán ép gây ngộ nhận


Lịch sử là quá trình mà điều đúng sai cài răng lược nhau. Nhìn lại lịch sử để vất bỏ cái sai chọn ra cái đúng cho tương lai. Nếu không chấp nhận lịch sử cũng không thể lội ngược dòng thời gian như người Việt miền Nam cũng mất nước và đến nay vẫn chưa thấy tương lai! Con đường cũng không theo lối mòn sai lầm của Miền Bắc là gây ra nội chiến. Con đường là đòi CS miền Bắc phải khôn ra, thấy đâu là lợi ích quốc gia bằng diễn biến hoà bình dựa vào cự can thiệp quốc tế của LHQ.
Chúng ta đều có thể cùng rút ra kinh nghiệm thất bại để xây dựng tương lai cho nên không sa vào lối mòn mà phải tận hưởng lợi thế là xu hướng qưốc tế. Thế giới hôm nay là thế giới xây dựng “Hoà bình vĩnh cửu” bằng tiến trình chuyển biến hoà bình và can thiệp quốc tế. VN không đủ mạnh để đơn thân chống Trung Quốc nhưng còn có can thiệp quốc tế.

Lịch sử khiến người Chăm không còn quốc gia, nhưng dân Chăm lại thoát khỏi chiến tranh với Campuchia sống trong hoà bình. Xin phải xét thêm điều này, cũng giống như Tướng quân Mạc Cửu vì nhiều lần bị quân Xiêm (Thái Lan) cướp phá đánh và bắt cóc toàn gia. Vì không cam phận làm hàng tướng mà chọn cách dâng đất Hà Tiên cho Chúa Nguyễn để được sống yên trong sự bảo trợ của Chúa Nguyễn. Ông Mạc Cửu làm vậy do nhận xét chính sách chính trị của Chúa Nguyễn tốt hơn và dân VN lại có văn hoá hiền lành. Sao người Chăm không nghĩ Vua Chúa Chăm sau thời Chế Bồng Nga chấp nhận sự bảo hộ của Đại Việt là vì đó là điều đó tốt hơn cho dân Chăm và tránh được chiến tranh?

Lịch sử thế giới có một quốc gia lạc hậu nhưng tư chất cực kỳ thông minh thành rất khôn ngoan, sau nhiều năm xem xét bàn thảo, nhận định khả năng chuyển đổi tự lực và con đường ngắn nhất để bước vào đỉnh cao văn minh tránh nguy cơ bị đô hộ chiến tranh triền miên để lại sa vào chiến tranh giành lại độc lập, quốc hội nước này đã đệ trình quốc hội Mỹ xin làm một bang của nước Mỹ. Đó là đất nước của thổ dân Hawaii nơi nuôi dưỡng Tổng Thống Obama thành Tổng thống nước Mỹ. Hawaii hiện đã có thu nhập hàng cao nhất nước Mỹ thì vấn đề không phải là nên quay ngược bánh xe thời gian mà CSVN phải có chính sách chính trị kinh tế tốt cho tất cả người dân.

Nếu bị Trung Quốc đô hộ ngàn năm như trong lịch sử khiến VN nay còn đói nghèo thì tôi thà xin chọn cho VN làm một bang của nước Mỹ như Hawaii từng làm! Mexico sát cạnh nước Mỹ mà vẫn là nước nghèo, dân chúng còn vượt biên nhập cư trái phép là do thiếu nền chính trị tốt.

Theo tác giả Ph. Gs. Po Dharma (Viện Viễn Ðông Pháp) “Chỉ cần hai lần chiến thắng quân sự vào năm 1069 và 1471, Ðại Việt nuốt trọn một phần lãnh thổ rộng lớn của Champa chạy dài từ tỉnh Quảng Bình đến tỉnh Bình Ðịnh. Trong khi đó, dưới thời vua Chế Bồng Nga (1360-1390), Champa đã hơn 7 lần chiến thắng quân sự ở Thăng Long, nhưng không bao giờ nghĩ đến việc xâm chiếm một mảnh nhỏ đất đai nào của Ðại Việt”. Chuyện lịch sử xa xưa người sau khó thấy hết, nhắc lại quả là buồn lòng! Song dựa trên thực tế hai lần chiến thắng cách nhau những 400 năm dù quả tình Chăm Pa đã phải cắt đất chuộc mạng và bồi thường chiến tranh, cũng chưa thể kết luận là chiến tranh hoàn toàn và luôn luôn do Đại Việt chủ động đi xâm lược kiểu Trung Quốc luôn là phía chủ động đánh VN.
Khi phía Nam bị Khmer Angkor đánh Chế Bồng Nga quay về tấn công Đại Việt. Lợi dụng nhà Trần suy yếu Chế Bồng Nga tiến đánh nhiều trận thu lại các vùng đất hiến tặng và bồi thường chiến tranh. Chuyện gì xảy ra nếu Chế Bồng Nga thắng? Không thể chắc chắn là Chăm Pa đã đánh tận Thăng Long rồi sẽ tự rút lui và không bao giờ nghĩ đến việc xâm chiếm một mảnh nhỏ đất đai nào của Ðại Việt. Người sau như chúng ta không thể ức đoán. Lần tiến công vào Thăng Long lần thứ tư thì Chế Bồng Nga chết mở đầu cho suy sụp nhanh chóng bởi chính người Chăm Pa cũng đã quá khổ vì chiến tranh triền miên. Làm sao phát triển đất nước bằng chiến tranh được!

Năm 2007 Danny Wong Tze-Ken là giảng viên của Phân Khoa Sử ở Trường Ðại Học Malaya Mã-Lai viết trong bài “Relations between the Nguyen Lords of Southern Vietnam and the Champa Kingdom: A Preliminary Study” đăng trong Sejarah, Journal of the Department of History University of Malaya, No. 5, 1997, trang 169-180:
“Việt Nam luôn luôn có cái quyết tâm là làm thế nào để thắng được Champa và biến vương quốc này thành một chư hầu hay thuộc địa của mình, sau cùng buộc vua Champa phải đến Thăng Long (Hà Nội) để triều cống. Dữ kiện lịch sử này đã chứng tỏ rằng, mối bang giao giữa Việt Nam-Champa là dựa trên mối quan hệ của sự triều cống. Sau năm 1471, biên giới giữa Việt Nam và Champa được đặt ở đèo Cù Mông phía bắc Phú Yên. Biên giới này giữ nguyên được 140 năm, cho đến khi có cuộc xung đột có quy mô lớn giữa Việt Nam và Champa lại bùng nổ”. ( Abd. Karim dịch)
Đọc hai bài nghiên cứu tôi không hiểu chủ trương của Đại Việt là xâm chiếm đất đai hay triều cống không xâm chiếm đất đai?
Trong lịch sử VN về Lê Văn Duyệt có nói hàng năm vào dịp Tết Nguyên Đán Vua Cao Miên đến thành Phiên An chúc thọ. Vậy là “triều phục” nghe phủ dụ của vua Đại Việt thôi chứ không phải là “triều cống”. Chưa thấy tài liệu nói về triều cống!
Thứ hai là người ta kết tội Hitler bằng chứng tích các trại tù Do Thái và các khu tàn sát bằng hơi độc, không ai nói Hitler có “quyết tâm” gì. Không ai đọc được tư tưởng của ai thì không thể nói ai đó đang đã nghĩ gì. Càng không ai bắt tội một tư tưởng. Ai thương ghét khinh khi ai cũng mặc, nhưng nếu đánh người, nhục mạ bằng lời khiếm nhã là phạm pháp! Gán Đại Việt (VN xưa) có quyết tâm nhưng dẫn chứng là 140 năm hoà bình là mâu thuẫn nguỵ biện thứ hai. Biên giới VN chưa từng yên ổn với Trung Quốc còn có quyết tâm mà có đến 140 năm trải qua ít nhất 5 hay 7 triều vua là khó thể chấp nhận “quyết tâm” xâm chiếm lãnh thổ kiểu “lề mề” đó!

Sự thật Chăm Pa và VN còn có một giai đoạn hơn 300 năm không hề có chiến tranh. Chăm Pa ký kết hoà bình với VN để rảnh tay tiến đánh hay phòng thủ mạn phía nam với Khmer Angkor. Chăm Pa và Khmer Krom đô hộ qua lại, Khmer Angkor còn chiến tranh triền miên với Thái Lan và Myanmar. Cả hai Khmer Angkor và Chămpa cùng suy tàn vỉ chiến tranh và tập trung nguồn lực xây lăng mộ tượng đài giống như Ai Cập với chuỗi Kim Tự Tháp vượt quá sức người! Cho nên Khmer Krom và Chăm Pa suy tàn là do chiến tranh với nhau và cùng theo đuổi cách dùng hết nguồn lực xây lăng mộ tượng đài hoành tráng phục vụ Vua Chúa.
Khmer Krom và Chăm Pa còn may mắn được Đại Việt án ngữ, tránh được chủ nghĩa bành trướng ngàn đời của Bắc Kinh. Nhiều lần Trung Quốc tiến đánh Chăm Pa và Khmer Krom mà do không vận chuyển được lương thực Nguyên Mông đành tự rút quân! Tiếc thay Khmer Krom và Chăm Pa không học được cách tồn tại trong hoà bình. Không biết xây dựng con người cho đất nước, lo xây dựng đền đài, đúc tượng vàng phục vụ vua chúa khiến mòn mỏi sức dân và gợi lòng tham cướp phá nhau giống như Ai Cập xây Kim Tự tháp. Lăng mộ đền đài là những thứ không hồi đáp kinh tế cho dân. Trong khi Đại Việt xưa rất biết nuôi dưỡng sức dân chỉ xây Văn Miếu và ngôi chùa một cột bé xíu mà chính là nơi nuôi dưỡng nguyên khí quốc gia và một chí khí kiên cường chống ngoại xâm cũng như tâm linh Phật giáo hiền hoà khiêm cung.

Kể từ khi học đòi óc xâm chiếm của Trung Quốc, tiến hành nội chiến, phá vỡ hiệp định Paris, CSVN Hà Nội bỏ qua cơ hội thống nhất lòng người và đang làm cho đất nước suy tàn, lòng người tan tác, tiếp tục ghi những dấu vết sai lầm vào lịch sử. Việt Nam nay cũng lạc lối như vua chúa xưa lo xây lăng mộ tượng đài, văn phòng làm việc mà bày tượng lớn như đền thờ rất kém văn hoá, dân chúng cũng xây mộ phần như lăng tẩm khi chưa đủ trường học từ mẫu giáo đến đại học và càng không có sau đại học đúng nghĩa vì chưa có phòng thí nghiệm phục vụ khoa học dù chỉ ở tầm nghiên cứu ban đầu, và còn bao nhiêu mảnh đời cơ cực. Đó là lối chính trị vong quốc xưa!

Trần Thị Hồng Sương
(11.8.2009)

© Thông Luận 2009

-------------------------------------

[1] Chúng tôi nêu ra câu chuyện đồn đãi này với tất cả sự dè dặt, mong được nghe ý kiến của những vị thông thạo tin tức thời nay. Nếu đúng là như thế thì quả là CSVN bán nước cầu danh, hết sức đắc tội với đất nước!
[2] Trích dẫn theo Champaka.


No comments: