Friday, February 20, 2009

HÀNH TRÌNH TỰ HUỶ DIỆT

Hành trình tự huỷ diệt
Hoàng CúcĐăng ngày 19/02/2009 lúc 15:24:17 EST
http://www.thongluan.org/vn/modules.php?name=News&file=article&sid=3549
“Hiền tài là nguyên khí quốc gia”, câu nói ngắn gọn, nhưng cũng diễn tả thật đầy đủ lòng trân trọng của tiền nhân đối với những kẻ giỏi giang, những người được xem là tinh hoa, là yếu tố quyết định chuyện thịnh suy hưng phế của cả dân tộc. Đọc lại chuyện xưa, nhìn lại chuyện gần đây để nhận ra điều phải quấy có lẽ vẫn là chuyện cần và nên làm.

Đọc lại chuyện xưa

Câu trên đây được tạc trên tấm bia tiến sĩ khoa thi năm Nhâm Tuất, niên hiệu Đại Bảo thứ 3 (1442). Tấm bia này được dựng năm Giáp Thìn, niên hiệu Hồng Đức thứ 15 (1484). Người soạn văn bia là Thân Nhân Trung. Sự kiện này được Đại Việt sử kí toàn thư ghi lại như sau:
“Vua cho là từ năm Đại Bảo thứ 3 triều Thái Tông đến giờ, việc dựng bia, đề tên tiến sĩ các khoa vẫn chưa làm được, sai Lễ bộ thượng thư Quách Đình Bảo biên rõ họ tên, thứ bậc các tiến sĩ từ khoa Nhâm Tuất năm Đại Bảo thứ 3 triều Thái Tông, khoa Mậu Thìn năm Thái Hòa thứ 6 triều Nhân Tông, khoa Quý Mùi năm Quang Thuận thứ 4, khoa Bính Tuất năm thứ 7, khoa Kỷ Sửu năm thứ 10, khoa Nhâm Thìn năm Hồng Đức thứ 3, khoa Ất Mùi năm thứ 6, khoa Mậu Tuất năm thứ 9, khoa Tân Sửu năm thứ 12 đến khoa Giáp Thìn năm nay, khắc vào bia đá.”

Đại Việt sử kí toàn thư còn cho biết thêm:
“Bọn từ thần là Hàn lâm viện thừa chỉ Đông các đại thần học sĩ Thân Nhân Trung, Hàn lâm viện thị độc Đông các hiệu thư Đào Cử, Đàm Văn Lễ, Ngô Luân, Hàn lâm viện thị thư kiêm Tú lâm cục tư huấn Nguyễn Đôn Hậu, Hàn lâm viện thị thư kiêm Sùng văn quán Tú lâm cục tư huấn Lương Thế Vinh, Đông các hiệu thư Lê Tuấn Ngạn, Hàn lâm viện thị độc kiêm Tú lâm cục tư huấn Nguyễn Xung Xác chia nhau soạn văn bia. Bọn Trung thư giám chính tự Nguyễn Tủng và Thái Chúc Liêm cùng điển thư Phạm Lý vâng sắc chỉ viết chữ. Kim quang môn đãi chiếu Tô Ngai vâng sắc chỉ viết chữ triện.”
Đoạn văn trên không hề nhắc tới Đỗ Nhuận, nhưng liền sau đó, Đại Việt sử kí toàn thư trích lại đoạn văn bia do Đỗ Nhuận soạn. Có thể nói, tư tưởng nổi bật trong đoạn văn được trích lại trong chính sử cũng không khác với tư tưởng trong văn bia do Thân Nhân Trung soạn. Đỗ Nhuận viết rằng: “Sự nghiệp trị nước lớn lao của Đế vương, không gì cần kíp hơn nhân tài…”

Trong một cái nhìn toàn diện hơn, việc vua Lê Thánh Tông cho dựng văn bia tại Văn Miếu là tiếp nối ý định của các vua đầu triều Lê, cũng là nối chí các triều Lí - Trần. Việc này cho thấy bận tâm hàng đầu của các triều đại trong việc đào tạo và kén chọn nhân tài lo việc nước. Trong cái nhìn của người xưa, người hiền tài là kết tụ của tinh hoa sông núi. Người có tài mà không được sử dụng là tội của nhà vua. Khi quốc gia có tai họa, nhà vua tự xem xét kiểm điểm bản thân. Khả năng phát hiện và sử dụng nhân tài là một trong những điểm mà nhà vua phải lưu tâm tự xét mình. Như thế, câu văn “Hiền tài là nguyên khí quốc gia” trong quá khứ từng là triết lí chính trị, là “chủ trương lớn” của các triều đại.

Xem chuyện mới đây

Từ nửa cuối thế kỉ 19, qua đầu thế kỉ 20, nước Việt Nam chịu sự đô hộ của thực dân Pháp. Vận nước lúc đó suy vi, thiết tưởng không cần phải nói nhiều. Tuy nhiên, nhìn lại lịch sử Việt Nam hơn nửa thế kỉ qua, tôi không khỏi ngậm ngùi nhận thấy rằng người Việt chúng ta đã vì một ý thức hệ ngoại lai nào đó mà vứt bỏ truyền thống tốt đẹp ngàn đời của tiền nhân, nên nỗi bao chuyện thương tâm huỷ diệt và đè nặng khiến con dân đất Việt không mở mày mở mặt nổi với thiên hạ!

Có thể nói bi kịch bắt đầu với công cuộc giành độc lập năm 1945. Viễn tượng độc lập vừa mở ra, cũng là lúc các đảng phái bắt đầu tranh giành ảnh hưởng, sát phạt lẫn nhau. Không ít anh tài tuấn kiệt của đất nước đã mất mạng, nhiều khi vì những lí do không đâu giữa các đảng phái.

Sau đó là cuộc chiến chín năm với người Pháp với những tai hoạ khủng khiếp bắt đầu lộ diện. Nước Việt trở thành bàn cờ để các nước lớn xâu xé, mặc cả và chia chác. Nhân danh cuộc “đấu tranh giai cấp”, những người cộng sản đã bắt đầu làm lại bản sao cuộc cách mạng xoá bỏ “giai cấp bóc lột” ở những phần đất do họ kiểm soát, để rồi sau đó mở rộng cuộc tàn sát từ vĩ tuyến 17 trở ra Bắc. Công cuộc này dĩ nhiên được họ tô hồng, nhưng không sao che đậy được bao vết máu tím bầm trên thân thể Việt Nam. Trong khoảng thời gian vài ba năm, họ đã dùng biện pháp khủng bố để giết hại những kẻ được gọi là “có nợ máu với nhân dân”. Thực ra, những người bị sát hại có cái tội là đã tổ chức làm ăn giỏi, tạo ra được nhiều của cải. Phần lớn trong số họ làm những nông dân suốt đời cần kiệm tích cóp, tính toán chăm chỉ làm ăn, là những nhà tiểu tư sản dân tộc vừa bắt đầu áp dụng cung cách buôn bán và sản xuất theo kĩ nghệ Tây phương. Có thể tạm xem họ là tầng lớp ưu tú trong nền kinh tế đất nước vào thời điểm đó. Vậy mà bằng nền tảng là giấc mộng mơ màng của một thiên đường phù phiếm, với tham vọng xây dựng từ đầu một xã hội hoàn toàn mới trên máu và nước mắt, giữa tiếng gào thét kinh hoàng của biết bao người, những kẻ từ rừng rú bước ra đã không ngần ngại xoá sạch tất cả!

Chừng đó đau thương xem ra vẫn còn chưa đủ, những kẻ nắm quyền sinh sát lại tiếp tục nhúng bàn tay đầy máu của họ vào một cuộc thanh trừng mới, không đến nỗi “long trời lở đất”, nhưng cũng không kém phần bi thảm.

Những người từng một thời cúc cung tận tuỵ “hi sinh cho sự nghiệp cách mạng” đến lúc bắt đầu tỏ ra bất nhẫn với thói cai trị độc tài ngạo mạn, miệng nói “sửa sai”, nhưng lại nghiền nát mọi lời tố cáo sai lầm, đè bẹp mọi lời cảnh tỉnh. Họ là lớp người từng được “bọn đế quốc” đào tạo, nên không chấp nhận thực tế quái gở là một nhúm người tự cho mình cái quyền làm thay và nghĩ thay cho toàn xã hội. Thế là vụ án mang tên “Nhân Văn-Giai Phẩm” ra đời, nhằm gom góp tất cả những kẻ bắt đầu trở nên chướng tai gai mắt đối với đảng cầm quyền. Họ bị kết tội, bị đày đoạ chỉ vì họ muốn suy nghĩ, sáng tạo, muốn nói lên tiếng nói của riêng mình, chứ không chịu để cho đảng tự tung tự tác nghĩ hộ, nói hộ. Những cung cách cư xử với nhóm “Nhân Văn-Giai Phẩm” thực ra là cầm tù và giết chết mọi suy nghĩ và sáng tạo cá nhân. Bằng cách đó, khá nhiều nhân tài của một thời cùng với con cháu họ đã bị bách hại, huỷ diệt hay thui chột!

Tuy nhiên, loài người tự nhiên vốn đa dạng. Đối với những người có chút chữ nghĩa ăn học, việc tự rập khuôn theo lối nói, lối nghĩ của một nhúm người tự xưng là đảng “vô địch”, cũng đồng nghĩa với việc tự tử về mặt tư tưởng. Chẳng chóng thì chày những kẻ này sẽ bằng cách này hay cách khác bày tỏ suy nghĩ riêng mình, dù họ cũng chẳng có ý định chống lại ai. Thế nhưng trong mắt những kẻ ham mê quyền lực, lại tàn ác đa nghi, vài biểu hiện nho nhỏ cũng đủ làm họ sợ hãi nháo nhác. Chính trong bối cảnh như thế mà một vụ án mới mang tên “Vụ án xét lại chống đảng” chào đời với mục đích bóp nát bất cứ kẻ nào vẫn còn muốn lẽo đẽo không chịu cun cút để “đảng quang vinh” mớm cho từng lời từng ý.

Trong vài chục năm, lịch sử Việt Nam đã phải chứng kiến sự vận hành khủng khiếp của cỗ máy huỷ diệt. Cỗ máy này mang một sức mạnh kinh hồn vì dù sao bằng nhiều mánh lới lừa bịp, nó cũng tổng hợp được sức mạnh cơ bắp của cả vài chục triệu người đã bị bịt mắt để có thể lao vào bất cứ chỗ dầu sôi chảo lửa nào theo ý muốn của vài kẻ cầm quyền!

Gần hai chục năm là thời gian đủ để cho mấy nước lớn chia chác bàn cờ thế giới. Thế cờ Việt Nam đã đến lúc phải có hồi kết theo kiểu phân chia lợi nhuận của đám con buôn quốc tế. Trong khoảng hai chục năm đó, hai phía người Việt đã lao vào nhau với tất cả mọi sức mạnh huỷ diệt để cùng nướng khoảng vài triệu thanh niên, đất nước tan hoang đổ nát.

Ngày một số kẻ ca khúc khải hoàn cũng là ngày số còn lại ôm mối hận trong tim. Những bàn tay đã vấy đầy máu bầm lại tiếp tục một cuộc lên đồng huỷ diệt mới. Bao tầng lớp ưu tú của “miền Nam ruột thịt” chịu cảnh đoạ đày tù tội, gia đình họ nheo nhóc tan hoang. Khi những bài ca “hừng hực khí thế cách mạng”, khi đội “quân giải phóng” tràn ngập miền Nam cũng là lúc bao người vỡ mộng, là lúc bao gia đình sống trong cảnh nơm nớp lo sợ. Và rồi bổn cũ sao lại với chút ít sắc thái cũ, ít mùi khủng bố hơn, những vẫn nguyên si bản chất cướp giật và huỷ diệt. Cỗ máy mù quáng, cơn lên đồng mới, lại đẩy tiếp hàng triệu người vào cảnh khốn cùng khiến không ít người lao ra biển, bằng mọi giá mong tìm một chân trời mới.

Xã hội thực sự dân chủ là một xã hội mà người dân được bày tỏ ý kiến, sự bất bình của mình đối với chính quyền khi chính quyền làm những điều phương hại tới lợi ích của các cá nhân hoặc lợi ích của quốc gia, thậm chí, nếu cần, họ có thể thay đổi cả chính quyền. Vậy mà trong một chế độ tự xưng dân chủ gấp triệu lần tư bản, khi cỗ máy huỷ diệt liên tục lao vào những trò say máu điên khùng, người dân không hề có bất cứ một phương tiện nào để tự bảo vệ, hoặc bày tỏ sự phản đối, hay điều chỉnh lại cái cơ cấu gây tại hoạ, mà chỉ còn cách hoặc lao mình vào guồng quay khủng khiếp, hoặc trốn chạy càng xa càng tốt!

Dĩ nhiên, không phải tất cả những người bị hại trong những biến động kinh tế chính trị xã hội tại Việt Nam hơn nửa thế kỉ qua đều là “hiền tài”, nhưng khủng khiếp thay, dường như trong số họ, con số hiền tài là khá nhiều. Người còn chút tâm với quê hương đất nước đọc lại lịch sử quê hương suốt thế kỉ 20, rồi soi trang sử ấy vào tấm gương “Hiền tài là nguyên khi quốc gia” không khỏi giật mình khi thấy dân tộc mình cứ lao vào những cuộc lên đồng tự huỷ diệt, hết cuộc này tới cuộc khác, khiến nguyên khí hao mòn kiệt quệ.

Như vậy, phải nói vận mạng nước Việt không suy vi mới lạ, chứ nếu có suy vi tàn tạ cũng chỉ vì con cháu đã ngu muội phá bỏ kho tàng khôn ngoan minh triết của tổ tiên để cuồng loạn lao vào những trò ngu dại! Lịch sử sẽ chẳng giúp ích gì cho chúng ta, nếu chúng ta không có khả năng nhận ra sai lầm quá khứ, không tìm được cách ứng xử phù hợp trong hiện tại, nếu chúng ta vẫn tiếp tục lao vào những cuộc tự huỷ diệt để trong tương lai tên gọi Việt Nam sẽ chỉ còn là chút kí ức xa xôi của nhân loại hoặc chỉ là vài con chữ ghi trên sách vở!

Hoàng Cúc
© Thông Luận 2009



No comments: