Thiện
Ý
30/04/2019
Sau ngày “ Giải
phóng Miền Nam” ít lâu, Việt cộng đã tổ chức một cuộc mít-tinh qui mô lớn
ăn mừng chiến thắng. Một lễ đài lộ thiên được dựng lên trước cổng Dinh Độc Lập
Sài Gòn (sau 30-4-1975 đổi là Dinh Thống Nhất, TP. HCM), người ta thấy
có sự hiện diện của hầu hết các nhà lãnh đạo hàng đầu của đảng và nhà cầm quyền
CSBV như Lê Duẩn, Trường Chinh, Tôn Đức Thắng, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp,
Phạm Hùng… Đồng thời và tất nhiên cũng có sự hiện diện của những người đứng đầu
Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam và chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa
Miên Nam Việt Nam như Luật sư Nguyễn Hữu Thọ, Bà Nguyễn Thị Định, Kiến trúc sư
Huỳnh Tấn Phát… Vì đây là những công cụ chính trị và quân sự của CSBV “ngụy
dân tộc” để phát động và tiến hành cái gọi là “cuộc kháng chiến
chống Mỹ cứu nước, giải phóng Miền Nam, thống nhất đất nước” (khoảng
một năm sau 30-4-1975 các công cụ này bị giải tán vì đã hoàn thành vai trò công
cụ được “đảng ta”gọi là “hoàn thành nhiệm vụ lịch sử”…)
Giờ đây, mục tiêu “giải
phóng Miền Nam” đã hoàn thành, trong cuộc ăn mừng chiến thắng này, Ông
Lê Duẩn, người đứng đầu đảng CSVN (trước đó ngụy trang dưới cái tên Đảng
Lao Động Việt Nam) đã không cần che dấu mục đích của cuộc “kháng chiến
chống Mỹ cứu nước” là để “cướp chính quyền quốc gia” ở Miền Nam, thống
nhất đất nước dưới chế độ xã hội chủ nghĩa (giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng
sản). Nghĩa là dùng đã chiêu bài “ngụy dân tộc” và “chủ
nghĩa yêu nước” để thực hiện chủ nghĩa cộng sản. Trong cơn say men chiến thắng,
Ông Lê Duẩn đã mạnh mẽ khẳng định, rằng “trong vòng 15 đến 20 năm nữa
chúng ta sẽ xây dựng thành cộng chủ nghĩa xã hội trên cả nước”(!?!).Phụ
họa cho sự khẳng định đầy tự tin và tự hào này là những biểu ngữ đỏ, cờ đỏ sao
vàng giăng mắc quanh khán đài và những con đường mà các đoàn thể quần chúng
đang xếp hàng chờ diễu hành qua khán đài.Rằng “Đảng CSVN người tổ chức mọi
thắng lợi của cách mạng Việt Nam muôn năm”; rằng “Chủ
nghĩa Mác-Lê bách chiến bách thắng muôn năm” (!?!).
Vậy thì, giờ đây
sau 44 năm “giải phóng Miền Nam, thồng nhất đất nước” đảng và nhà cầm
quyền cộng sản Việt Nam (gọi tắt là Việt cộng) đã xây dựng xã
hội chủ nghĩa vì sự nghiệp của cộng sản quốc tế đến đâu rồi, hiệu quả thế nào?
Nội dung bài viết này
lần lượt trình bày:
I - Việt cộng xây dựng
xã hội chủ nghĩa vì sự nghiệp cộng sản quốc tế thế nào, hiệu quả ra sao?
Trên thực tế, theo
nhận định của chúng tôi, Việt cộng đã tiến hành công cuộc xây dựng xã hội xã hội
chủ nghĩa qua ba giai đoạn:
* Giai
đoạn I: (1975-1985) thường được gọi là “thời bao cấp”
Trong giai đoạn
này, Việt cộng đã thực hiện triệt để mô hình xã hội chủ nghĩa theo một tiến
trình như Liên Xô đã làm, kể từ sau khi Cộng đảng Bolsevick Nga lật đổ được chế
đô Nga Hoàng, cướp được chính quyền vào năm 1917, thiết lập “Liên bang
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô Viết “ (gọi tắt là Liên-Xô). Bảng
hiệu chế độ cũng giống luôn “Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.
Theo gương Liê-Xô,
Việt cộng tiến hành công cuộc “Đi lên chủ nghĩa xã hội mà không thông
qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa” tại Việt Nam không như
Karl Marx lý luận về chủ nghĩa cộng sản là phải thông qua giai đoạn phát triển
tư bản. Nghị quyết Đại Hội IV của Cộng đảng Việt Nam đã đưa “Đường lối chung
của Cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội trong cả nước”
như một định thức chỉ đạo: “Nắm vững chuyên chính vô sản,phát
huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, tiến hành đồng thời ba cuộc
cách mạng: Cách mạng quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học kỹ thuật, cách mạng
tư tương và văn hóa, trong đó cách mạng khoa học kỹ thuật là then chốt…”). Việt
cộng đã thực hiện định thức này ra sao? hiệu quả thế sao?
1 - Thực hiện “Nắm vững chuyên chính
vô sản, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động”
- Tiến hành ra sao?
Để “Nắm vững
chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động”
, Việt cộng đã thực hiện chính sách hai mặt: củng cố và phát triển bộ máy Đảng
và bộ máy nhà nước ngày một vững mạnh,song song với tiến hành triệt hạ nguy cơ
phản kháng (bằng chế độ tập trung cải tạo các sĩ quan, lãnh
đạo chính quyền, đảng phái quốc gia…), truy quét,trấn áp, các cá nhân
và tổ chức chống chế dộ (Việt cộng gọi là truy quét phản động). Đồng
thời Việt cộng thực hiện cái gọi là “quyền làm chủ tập thể” thông
qua cái gọi là “dân chủ tập trung” (trong tay đảng và nhà cầm
quyền CS) để giám sát, ban phát quyền dân chủ cho nhân dân nào chỉ biết
phục tùng thực hiện mọi chủ trương chính sách cai trị của “Đảng và nhà
nước ta” (!)
Để củng cố và phát
triển bộ máy đảng và nhà nước, Việt cộng đã học tập kinh nghiệm thống trị bằng
bạo lực kềm kẹp, trấn áp nhân dân của Tầu cộng; rút kinh nghiệm tổ chức đảng,
chính quyền và chính sách cai trị 21 năm ở Miền Bắc XHCN (1954-1975) vận
dụng vào Miền Nam mới “Giải phóng”(!) . Bộ máy đảng luôn tồn
tại song hành với bộ máy chính quyền (đã là gánh nặng ngân sách quốc
gia) từ trung ương đến địa phương, trong mọi cơ quan, ban ngành, đoàn thể;
thực hiện triệt để định thức cai trị kềm kẹp “Đảng lãnh đạo, nhà nước
quản lý, nhân dân làm chủ”.
Để truy quét, trấn
áp, tiêu diệt mọi sức đề kháng chống chế độ, Việt cộng
đã dùng các công cụ chuyên chính vô sản (công an, quân đội, hệ thống tòa án
công lý một chiều,nhà tù, pháp trường, khủng bố…). Để nắm được từng người
dân, Việt cộng đã thực hiện triệt để chính sách hộ khẩu và chế độ tem phiếu thực
phẩm, kết hợp với các thủ đoạn tuyên truyền lừa mị đối với mọi tầng lớp nhân
dân, thực hiện khẩu hiệu “nghe thì sống, chống thì chết”.
- Hiệu quả
ra sao?
Nhìn chung, với việc
thực hiện triệt để chính sách hai mặt trên, Việt cộng đã “nắm vững được
chuyên chính vô sản”; nghĩa là đã dùng bạo lực qua các công cụ của nền
chuyên chính vô sản trấn áp thành công (chứ không tiêu diệt được) sức
phản kháng và đưa được mọi tầng lớp nhân dân vào khuôn phép kỷ luật nhà binh.
Thật vậy, trong 5
năm đầu sau khi chiếm được Miền Nam (1975-1980), Việt cộng đã thực hiện
triệt để những chủ trương, chính sách và các biện pháp căn bản trên đây. Việt cộng
đã thành công trong việc “truy quét phản động”, ổn định
và giữ vững được tình hình an ninh chính trị. Vì thực tế cao trào chống cộng của
các cá nhân hay tổ chức ngày một lắng xuống. Nhờ đó, sau 5 năm kế tiếp (1980-1985),
Việt cộng từng bước củng cố cơ cấu đảng và chính quyền các cấp, các ngành để tiến
hành mạnh bạo các chủ trương, chính sách và biện pháp “Đi lên Xã
hội xã hội chủ nghĩa” trên cả nước, dưới bảng hiệu chế độ “Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.
2 - Tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng
như thế nào, hiệu quả ra sao?
Một cách tổng quát,
trong giai đoạn I, cả ba cuộc cách mạnh nêu trong định thức “tiến lên chủ
nghĩa xã hội” đều đã được Việt cộng thực hiện triệt để. Hiệu quả sau cùng tất
cả đều thất bại hoàn toàn. Riên về kinh tế, mặc dầu cố gắng “Đổi mới”
trong giai đoạn II (1985-1995) vẫn không cứu vãn được.Trong khuôn khổ một
bài báo, chúng tôi chỉ đề cập chi tiết đến cuộc “cách mạng quan hệ sản xuất”
mà Việt cộng tiến hành, vì cơ cấu kinh tế có tính quyết định sự thành bại của
toàn bộ công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa tại Việt Nam.
(1) Mục tiêu cách mạng quan hệ sản xuất phải
thành đạt là gì?
Là thực hiện các chủ
trương, chính sách và biện pháp nhằm phá nát, tiêu diệt triệt để quan hệ sản xuất
cũ, mà lý luận CS cho là mang tính áp bức, bóc lột (quan hệ sản xuất tư bản
chủ nghĩa mang tính tư hữu), để thiết lập từng bước, tiến tới thay thế hoàn
toàn bằng quan hệ sản xuất mới không mang tính áp bức bóc lột (quan hệ
sản xuất xã hội chủ nghĩa mang tính công hữu).
(2) – Thực hiện thế nào?
Để phá đổ quan hệ sản
xuất tư bản chủ nghĩa, thiết lập quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trên cả nước,
Việt cộng đã thực hiện chủ trương, chính sách cải tạo công thương nghiệp, lưu
thông phân phối và dịch vụ tư bản tư doanh nơi các thành thị và cải tạo nông
nghiệp ở nông thôn với hai kế hoạch 5 năm lần thứ hai (1976-1980, là
tiếp mối kế hoạch 5 năm lần thứ nhất ở Miền Bắc XHCH trước 30-4-1975) và lần
thứ ba (1981-1985).
* Thực hiện cải tạo công thương nghiệp tư bản
tư doanh:
Vào giữa năm 1976,
một loạt chủ trương, chính sách nhằm xóa bỏ nhanh chóng các thành phần kinh tế
tư bản tư doanh và cá thể đã được Việt cộng ban hành và đi vào thực hiện có
tính thăm dò thử nghiệm.Mặc dầu chỉ thực hiện trên qui mô nhỏ, song cũng đã gây
chấn động lớn về kinh tế, xã hội và là nỗi kinh hoàng cho các đối tượng bị kiểm
kê tài sản, nhất là những gia đình bị qui kết thành phần tư sản mại bản (vì
trong quá khứ có liên hệ làm ăn với tư bản nước ngoài) hay tư sản dân tộc.
Họ không những bị kiểm kê tịch thu hết tài sản, có khi còn bị tù đầy hay cưỡng
bức rời thành phố đi lập nghiệp vùng kinh tế mới.Người ta gọi đây là thời kỳ
đánh tư sản Đợi I.
Phải đợi cho đến
sau Đại Hội IV (1976) của Cộng Đảng Việt Nam, chủ trương “Cải tạo”
trên mới được chế độ thực hiện triệt để trên quy mô rộng lớn với cường độ mạnh
mẽ thể hiện quyết tâm thực hiện khẩu hiệu tuyên truyền “đưa cả nước tiến
nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên Xã Hội Chủ Nghĩa”. Người ta gọi
đây là thời kỳ đánh tư sản Đợi II. Lúc này, đích thân ông Đỗ Mười, Phó Chủ tịch
Hội Đồng Bộ Trưởng đã lãnh đạo “đánh tư sản” ở Miền Nam trong
chức vụ Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng kiêm “Trưởng Ban Cải Tạo Trung
Ương”.
Chung quy, đánh tư
sản hay cải tạo tư sản là chế độ Việt cộng muốn nắm độc quyền kinh tế (khống
chế lực lượng lao động,định đoạt phương thức sản xuất và chiếm dụng độc quyền
nguyên vật liệu phương tiện sản xuất). Nghĩa là một kiểu nhà nước tư bản độc
quyền,biến lực lượng sản xuất (mọi tầng lớp nhân dân) thành công cụ lạo
động thực hiện các hoạt động kinh tế (sản xuất công,nông, thương nghiệp,
kinh doanh, phân phối, tiêu thụ, dịch vụ…) dưới sự chỉ huy của chính quyền
theo chính sách kinh tế hoạch định cứng rắn của nhà nước.
Hiệu quả ra sao?- Theo nhận định của chúng tôi, công cuộc cải tạo này đã thất bại hoàn
toàn vì nó đã đụng chạm vào một trong những yếu tình thuộc về bản chất và cũng
là quyền cơ bản của con người: Quyền tư hữu. Vì nó đã tước đoạt trắng
trợn thành quả lao động , công lao mồ hôi nước mắt của cả một đời người hay bao
đời truyền lại. Những nạn nhân đã uất ức vì bị cưỡng đoạt trắng tay, mất hết
tài sản, gia đình ly tán, lại phải vào tù. Nhiều người quá uất ức đã nhẩy lầu tự
vẫn, dùng độc dược quyên sinh hay tìm cái chết oan nghiệt qua sợi giây thong lọng
tự treo cổ mình.
Thực tế là, sau khi
thực hiên các biện pháp “Cải tạo công thương nghiệp tư bản tư
doanh”, Việt cộng đã không gặt hái được hiệu quả mà chỉ tạo ra một hậu
quả tai hại về mặt kinh tế vĩ mô cũng như vi mô.Bởi vì nó đã phá nát quan hệ sản
xuất cũ là cùng lúc tiêu hủy các nhà sản xuất kinh doanh có tài và kinh nghiệm
(vốn quý mà mãi sau này Việt cộng mới nhận ra muộn màng trong thời kỳ đổi mới,
mở cửa…),là phá nát các cơ cấu, cơ sở sản xuất kinh doanh vốn có hiệu quả
kinh tế bao lâu nay ở Miền Nam.
Hậu quả thực tế là,
các hoạt động sản xuất kinh doanh đình trệ, xáo trộn, ách tắc, năng xuất thấp,
phẩm chất xấu, sản lượng giảm, hạch toán lỗ lã triền miên, cung cầu mất cân đối,
dẫn đến khó khăn trong lưu thông phân phối hàng hóa, rối loạn thị trường.Từ đó,
sự độc quyền nhà nước sản xuất, kinh doanh, phân phối tiêu thụ dẫn đến tệ nạn
chợ đen, móc ngoặc, tham ô làm giầu bất chính cho một thiểu số những kẻ có chức,
có quyền trong guồng máy kinh tế độc quyền (cán bộ đảng viên cộng sản và những
kẻ ăn theo), trong khi đa số nhân dân (lực lượng sản xuất chủ yếu)
thì đời sống ngày một khó khăn thiếu thôn, đã nghèo ngày càng nghèo thêm, dù đã
lao động cật lực vẫn không đủ sống, vì đồng lương chết đói, không tương xứng với
sức lao động bỏ ra.
Trong khi chế độ nỗ
lực “cải tạo tư sản mại bản, tư sản dân tộc và các thành phần kinh tế tư bản
chủ nghĩa khác” để biến tất cả thành “vô sản”, thì thực tế
đã tạo tiền đề đẻ ra các nhà tư sản mới (tư bản đỏ vỏ xanh lòng) ngày một
đông đảo, sau mỗi đợt cải tạo và trong khi thực hiện chủ trương chính sách xây
dựng quan hệ sản xuất mới Xã Hội Chủ Nghĩa (công, thương nghiệp nhà nước, tổ
hợp quốc doanh…). Người dân gọi những nhà tư sản mới phát lên này (thường
là cán bộ đảng viên có chức có quyền…) nhờ công cuộc xây dựng quan hệ
sản xuất mới xã hội chủ nghĩa, là các nhà “Tư sản hay tư bản Đỏ” (Còn
hầu hết nhân dân được gọi mỉa mai là “Tư sản mại sản” vì phải bán dần của cải,
đồ đạc trong nhà để duy trì sự sống …)
* Thực hiện
chủ trương chính sách cải tạo nông nghiệp thì sao?
Cải tạo nông nghiệp
là phá đổ quan hệ sản xuất cũ (tư hữu đất đai, phương thức canh tác và
tư liệu sản xuất), thiết lập quan hệ sản xuất mới (công hữu đất
đai, công liệu và tập thể hóa nộng nghiệp) bằng chủ trương, chính
sách “tập thể hóa nông nghiệp”. Với chủ trương đất đai thuộc
quyền sở hữu toàn dân (công hữu),từ địa chủ ngồi thu đia tô, đến
nông dân trực canh, là chủ đất ít nhiều hay tá điền đều không có quyền sở hữu đất
đai. Chính sách cải tạo căn cứ vào số ruộng đất sở hữu mà quy kết thành phần địa
chủ, phú nông, nông dân trực canh hay tá điền mướn ruộng canh tác để có những
biện pháp cải tạo khác nhau.
Trên thực tế, có lẽ
Việt cộng đã rút được bài học kinh nghiệm cải tạo nông nghiệp tàn bạo ở Miền Bắc
sau năm 1954 qua các cuộc đấu tố dã man thành phần bị quy kết địa chủ, phú nông
cường hào ác bá ở nông thôn, nên những thành phần bị quy kết là địa chủ hay cường
hào ác bá ở Miền Nam chỉ bị tịch thu hết đất đai, tài sản, phương tiện sản xuất,
một số bị tù đầy, hay trở thành nông dân trực canh như mọi nông dân khác có hay
không có ruộng đất canh tác trước đây, đều phải đi vào con đường làm ăn tập thể,
được tổ chức từ thấp đến cao: Tổ sản xuất, hợp tác xã, nông trường quốc doanh…Tất
cả đều lao động tập thể và thành quả lao động được hưởng theo sự chấm công của
tổ chức.
Hiệu quả ra sao?
Trong thời khoảng
này (1975-1985) công cuộc cải tạo nông nghiệp ở nông thôn cũng đi đến thất
bại như công cuộc cải tạo công, thương nghiệp tư bản tư doanh ở các thành thị
Miền Nam.Các hình thức lao động sản xuất tập thể, dù do các tập thể tự quản (Tổ,
Đội lao động, Hợp tác xã nông ngghiep…) hay do nhà nước quản lý (nông
trường quốc doanh…) đều không đem lại hiệu quả kinh tế.
Bởi vì phương thức
sản xuất mới gọi là “Xã Hội Chủ nghĩa” đã đi ngược với qui luật tự
nhiên và quan hệ sản xuất mới (XHCN) là quan hệ bóc lột
còn tàn tệ, bất công hơn nhiều so với quan hệ sản xuất cũ muốn hủy bỏ (quan
hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa).
Phương thức sản xuất
mới trái với qui luật tự nhiên là vì con người ai cũng có đầu óc tư hữu, tư lợi.
Chính đầu óc này đã là động lực thúc đẩy người ta hăng say lao động sản xuất,
làm việc quên mình và quên thời gian. Vì ai cũng nghĩ thành quả lao động họ sẽ
gặt hái cho mình để toàn quyền xử dụng cho các nhu cầu cuộc sống cá nhân, gia
đình; phần còn lại tích lũy, đầu tư làm giàu và sau khi chết của cải để lại cho
con cái…
Nay Việt cộng ép buộc
mọi người vào con đường làm ăn tập thể, bằng chế độ chấm công, dù có dùng các
hình thức kích thích cách nào, như “thi đua lao động” để đạt
danh hiệu “cá nhân tiên tiến” hay “Anh hùng lao động”… vẫn
không lôi kéo được nông dân làm việc hết sức như cho chính mình. Thái độ lao động
chung là làm việc cầm chừng, làm hết giờ chứ không làm hết việc. Với tinh thần “Cha
chung không ai khóc”, người ta sẵn sàng làm ngơ trước những việc phải
làm để cứu lúa, cứu mùa khi có thiên tai, dịch họa; không muốn phát huy sáng kiến
canh tác, cải tiến kỹ thuật, nâng cao năng xuất… nên sản lượng nông nghiệp sau
cải tạo không tăng mà ngày một giảm nghiêm trọng.
Hậu quả là cả nước
lâm vào tình trạng thiếu lương thực nặng nề. Vào những năm cuối thấp niên 70 và
đầu thập niên 80, nhân dân cả nước đã phải ăn bo-bo là thực phẩm dành cho gia
súc nhập cảng từ Liên-Xô vì thiếu gạo do sai lầm về chính sách kinh tế vĩ mô
cũng như vi mô và còn phải trả nợ trong chiến tranh cho Trung quốc. Thật không
ai có thể tưởng tượng được là một nước vốn có tiềm năng mạnh về nông nghiệp,
trong quá khứ từng là nước hàng năm xuất cảng gạo hàng đầu trong vùng Đông Nam
Á, mà nay nhân dân thiếu đói phải ăn độn đủ loại thực phẩm trong đó có thực phẩm
vốn chỉ dành cho súc vật.Đời sống nhân dân cả nước đói khổ hơn cả thời kỳ sống
dưới chế độ thực dân Pháp!
Tựu chung, quan hệ sản xuất mới xã hội chủ
nghĩa trên lãnh vực nông nghiệp cũng như công, thương nghiệp, chỉ mới manh nha song đã thể hiện đầy đủ tính áp bức, bóc lột còn tàn tệ
hơn quan hệ sản xuất cũ tư bản chủ nghĩa mà Việt cộng muốn xóa bỏ. Một sự bóc lột
độc quyền nhà nước trên nguyên tắc, trên thực tế một cách cụ thể là sự bóc lột
độc quyền của một giai cấp mới, “Giai cấp cán bộ, đảng viên cộng sản” có
chức, có quyền trong cơ cấu đảng, chính quyền và cơ cấu kinh tế.Chính những thất
bại thảm hại trong việc thực hiện chủ trương cải tạo công, thương, nông nghiệp,
lưu thông phân phối hàng hóa và dịch vụ tư bản tư doanh, Việt cộng đã phải tìm
cách cứu nguy bằng chính sách “Đổi mới” theo gương Liên Xô trước
đây.
Thật vậy, Liên Xô,
sau khi lật đổ chế độ Nga Hoàng (1917), cũng quyết tâm đưa cả nước “Đi
thẳng lên chủ nghĩa xã hội không qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa phát triển”, bằng
kế hoạch 5 năm lần thứ nhất thất bại(1917-1922), Lenin và Cộng đảng Bolsevick
Nga đã đưa ra “Chính sách Kinh tế Mới” để sửa sai. Chính sách này đã
giúp Liên Xô vượt qua khó khăn ban đầu và tồn tại thoi thóp thêm nhiều thập
niên sau đó, cho đến năm 1985 khi Mikhail Gorbachev lên nắm quyền Tổng Bí Thư Cộng
đảng Liên Xô đã cùng các đồng chí cấp tiến trong Cộng đảng Liên Xô phải thực hiện
cải cách để cứu nguy chế độ xã hội chủ nghĩa Liên Xô sau 68 năm xây dựng
(1917-1985). Thế nhưng, họ đã không thành công trong ý đồ cải cách để vẫn duy
trì được chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô.Vì chỉ sau một năm đưa ra được những
nhận định thức thời (Trong Hội Nghị Toàn Liên Bang Xô-Viết lần Thứ 19
ngày 28-6-1988) và chưa đầy bốn năm (1988-1991) thực hiện chương
trình “Cải tổ” (Glasnost) và “Cởi mở”(Perestroika),
Liên Bang Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Xô-Viết đã sụp đổ hoàn toàn vào năm 1991.
Nay một lần nữa Việt cộng lại bắt chước Liên-Xô, thực hiện chủ trương, chính
sách “Đổi Mới” cũng để để cứu nguy công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội đã thất bại sau hai kế hoạch ngũ niên (1976-1985).Thực hiện
“Đổi mới” thế nào, hiệu quả ra sao?
* Giai
đoạn II: Thực hiện chính sách “Đổi Mới” (1985-1995)
(1) Nguyên nhân và mục tiêu của “Đổi mới”
Trước những thất bại
thực tế khi thực hiện định thức xây dựng xã hội chủ nghĩa về kinh tế trong thời
khoảng 1975-1985, nghị quyết Đại Hội VI của Cộng Đảng Việt Nam năm 1986, đã đưa
ra chủ trương, chính sách “Đổi Mới” về kinh tế để sửa sai.(nhưng không
đổi mới chính trị)
Đại Hội VI của Cộng
đảng Việt Nam năm 1986 đã nhận định lạnh lùng có tính “huề cả làng” về
cái gọi là “những sai lầm về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện” là
do “những biểu hiện nóng vội, muốn xóa bỏ ngay những thành phần kinh
tế phi xã hội chủ nghĩa”, do cái gọi là “bệnh chủ quan duy ý
chí”. Rồi thừa nhận “cơ cấu kinh tế nhiều thành phần ở nước
ta còn tồn tại một thời gian tương đối dài” trong suốt “Thời
kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội”.
Chấp nhận cơ
cấu kinh tế nhiều thành phần là cho cùng tồn những thành phần kinh
tế xã hội chủ nghĩa bên cạnh các thành phần kinh tế tư bản chủ nghĩa (còn
gọi là phi xã hội chủ nghĩa).Nhưng coi các thành phần kinh tế xã hội chủ
nghĩa sẽ đóng vai chủ đạo, chủ động từng bước mạnh lên, triệt tiêu các thành phần
kinh tế tư nhân tư bản chủ nghĩa, sau cùng thành đạt quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa để tiến lên xã hội chủ nghĩa.
(2) Tiến hành “Đổi mới” thế nào?
Thất bại nên phải “Đổi
mới” về phương cách nhưng vẫn giữ vững mục tiêu “Đi lên chủ
nghĩa xã hội không thông qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”
Thực hiện “Đổi
mới” qua hai kế hoạch 5 năm lần thứ tư (1986-1990) và
thứ năm(1991-1995), trên lãnh vực công, thương nghiệp, Việt cộng
cho các hình thức sản xuất kinh doanh, phân phối, dịch vụ tư nhân cá thể hay tập
thể (công ty, tổ hợp, cá nhân..), bên cạnh hệ thống công tư hợp
doanh và quốc doanh đóng vai trò chủ đạo.
Trên lãnh vực nông
nghiệp cũng thế, Việt cộng chấp nhận giao lại một phần ruộng đất cho nông dân
canh tác trực canh cá thể hay tập thể, khoán sản phẩm hay nộp thuế nông nghiệp,
tồn tại song song với các công, nông trường quốc doanh. Tuy nhiên Việt cộng chỉ
cấp quyền xử dụng đất cho người nông dân, quyền sở hữu đất đai thì vẫn giữ thuộc
“quyền sở hữu toàn dân” (tức thuộc nhà nước,tức thuộc đảng Cộng sản
Việt Nam, vì “Đảng ta”cũng là “nhà nước ta”, “ nhà nước ta và Đảng ta”tuy hai
là một, trong chế độ độc tài đảng trị Việt cộng).
Chiến thuật của “Đổi mới” là tạm thời Việt cộng “lùi một
bước” (chấp nhận sự tồn tại của các thành phần kinh tế tư nhân cá
thể phi xã hội chủ nghĩa trên lãnh công, nông, thương nghiệp và dịch vụ…) để
sửa chữa sai lầm, rồi tiến hai bước theo hướng “ đi lên kinh tế xã hội
chủ nghĩa” (với ý định dùng thành phần kinh tế quốc doanh đóng vai
chủ đạo ngày một lớn mạnh sẽ tiêu diệt, thay thế dần dần các thành phần kinh tế
tư nhân cá thể cũng như tập thể, để sau cùng thiết lập được quan hệ sản xuất
công, nông, thương nghiệp xã hội chủ nghĩa…như tài liệu của Việt cộng dẫn chứng
ở trên).
(3) Hiệu quả ra sao?
Trên thực tế, sau
hai kế hoạch 5 năm “Đổi mới”(1986- 1995), mục tiêu sau
cùng trên đã không đạt được vì các thành phần kinh tế tư nhân cá thể cũng như tập
thể phi xã hội chủ nghĩa ngày một phát triển lớn mạnh, trong khi hệ thống kinh
tế quốc doanh đóng vai chủ đạo thì ngày càng suy yếu, không chỉ là nguy cơ mà
là một thực tế:các thành phần kinh tế tư nhân cá thể tư bản chủ nghĩa đã từng
bước tiêu diệt các thành phần kinh tế quốc doanh, tập thể xã hội chủ nghĩa.
Nhiều đơn vị kinh tế sản xuất kinh doanh công thương, nông nghiệp quốc doanh
làm ăn hạch toán lỗ lã đã phải giải thể.
Như vậy là chính
sách “Đổi mới” kinh tế sau 10 nằm đã không sửa sai, không cải
tạo được các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa. Hệ quả tất nhiên là đã
không thiết lập được quan hệ sản xuất, kinh doanh xã hội chủ nghĩa. Và như thế “Đổi
mới” đã thất bại hoàn toàn vì các mục tiêu của cuộc cách mạng quan hệ
sản xuất là một trong 3 cuộc cách mạng của định thức đưa cả nước “Tiến
nhanh, tiến mạnh tiến vững chắc lên xã hội chủ nghĩa” đã không thành đạt.Nghĩa
là thất bại hoàn toàn, nhưng Việt cộng vẫn không chịu thừa nhận, tiếp tục thực
hiện “Thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội” bằng chính
sách “Mở cửa” giao tiếp với bên ngoài qua con đường “kinh
tế thị trường, dịnh hướng xã hội chủ nghĩa”
* Giai
đoạn III: Thực hiện chính sách “Mở cửa” (Từ 1996 đến nay)
(1) - Nguyên nhân và mục tiêu “Mở cửa”
Thất bại trong chủ
trương, chính sách“Cải tạo và xây dựng cơ sở ban đầu của xã hội chủ nghĩa” và “Đổi
mới” cũng không cứu vãn được, Đại Hội VIII Cộng Đảng Việt
Nam (1996) đã đưa ra nghị quyết thực hiện chính sách “Mở cửa”vẫn
trong chủ trương, chính sách “Đổi mới kinh tế”, “không đổi mới chính
trị”. Có khác chăng là việc thực hiện chủ trương, chính sách “đổi
mới” trước đây diễn ra trong khung cảnh quốc nội, giao tiếp hạn hẹp với một
số nước cùng chủng loại xã hội chủ nghĩa hay độc tài các kiểu; còn chủ trương
,chính sách “mở cửa” sau này cho đến nay, đã diễn ra trong
khung cảnh mở rộng ra thế giới bên ngoài, giao tiếp đa phương với mọi nước dù
khác chế độ chính trị, trong đó đa phần là các nước dân chủ tư bản chủ nghĩa.
(2)- Thực hiện thế nào?
Sở dĩ Việt cộng thực
hiện được chủ trương, chính sách “Mở cửa” này khá thuận lợi là nhờ
nước cựu thù “Đế Quốc Mỹ” thay đổi chính sách, bãi bỏ cấm vận, thiết lập
quan hệ ngoại giao với Việt cộng vào cuối năm 1995,không còn coi Việt cộng
là “Đối phương” mà là một “Đối tác” làm ăn
trên cơ sở “hai bên cùng có lợi”. Từ đó, mở ra cơ hội cho mỗi
ngày một nhiều các nước tư bản chủ nghĩa trở thành đối tác làm ăn kinh tế với
Việt cộng.
(3) - Hiệu quả ra sao?
Chính nhờ “Đế
quốc Mỹ” cựu thù quay lại, từ “Đối phương” trong quá
khứ chiến tranh thành “Đối tác” làm ăn trong hòa bình hiện tại
và tương lai, trên căn bản hai bên cùng có lợi, đã giúp vực dậy công cuộc“Đổi
mới” của Việt Cộng để có những bước phát triển “nhẩy vọt”, không
phải “tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên Xã Hội Chủ Nghĩa” bằng
con đường “kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa”mà
đã và đang “tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa tư bản” .Vì
con đường “Kinh tế thị trường” tất yếu phải “định hướng tư bản chủ
nghĩa”. Và chính “kinh tế thị trường” đã tạo
được những bước phát triển “nhẩy vọt” về kinh tế để Việt Nam
có được bộ mặt phồn vinh như hôm nay (chứ không phải do con đường kinh tế thị
trường theo định hướng Xã hội chủ nghĩa như Việt cộng ngụy biện). Đồng
thời chính “môi trường mật ngọt kinh tế thị trường” đã từng bước
”tự diễn biến, tự chuyển đổi chế độ độc tài toàn trị, độc đảng” qua ‘chế độ dân chủ pháp trị, đa đảng” và sẽ hoàn tất ở cuối quá trình chuyển đổi, khi lượng dân chủ tích lũy thừa đủ theo “qui luật lượng đổi, chất đổi” như nước đun sôi đến 100 độ C sẽ bốc hơi.(Tiến trình này diễn ra như thế nào, chúng tôi sẽ trình bày chi tiết trong phần viết về “triển vọng tương lai xây dựng xã hội chủ nghĩa tại Việt Nam” )
III - Kết luận:
Chẳng cần viết ra,
thì người Việt Nam từng sống những năm tháng dưới chế độ CS tại Việt Nam, hẳn đều
biết Việt Cộng quyết tâm xây dựng chủ nghĩa xã hội theo mô hình xã hội chủ
nghĩa Liên Xô từng được xưng tụng là “Tổ quốc xã hội chủ nghĩa” của mình
mà. Vì nỗ lực này của Việt cộng đều hướng tới sự nghiệp chung của cộng sản quốc
tế đứng đầu là đế quốc CS Liên Xô, với sự cạnh tranh ngôi vị bá chủ của đế quốc
CS Trung cộng, trong giấc mộng cộng sản hóa toàn cầu, bằng con đường xây dựng
xã hội chủ nghĩa, tiến tới một xã hội viên mãn là xã hội cộng. Một xã hội không
tưởng (lý tưởng không thể và không bao giờ thực hiện được) không
còn gia cấp, không còn áp bức bóc lột, không còn nhà nước, không còn biên giới
quốc gia, thế giới đại đồng, xã hội tự động vận hành, mọi người làm việc tự
giác theo năng lực, hưởng theo nhu cầu, tài hóa dư thưa thỏa mãn được mọi nhu cầu
vật chất cũng như tinh thần của con người. Khi đó, mọi con người người thuộc
mọi dân tộc sống trên hành tinh này sẽ được sống tự do, ấm no, hạnh phúc tuyệt
vời như một “thiên đường nơi trần thế”, tức “Thiên đường cộng
sản”(!)
Thế nhưng, thực tế
cho thấy điều mà cố Tổng Bí Thư đảng CSVN Lê Duẩn khẳng định một cách tự tin, tự
hào trong cơn no say “chiến thắng” (biểu kiến) sau ngày 30-4-1975
đã không xẩy ra mà ngược lại. Nghĩa là “Mười lăm đến 20 măm sau(1975-1995)…” Việt
cộng đã không xây dựng thành công mà đã thất bại hoàn toàn công cuộc xây dựng
xã hội chủ nghĩa” với cái giá hy sinh lớn lao của mọi tầng lớp nhân dân bị
đem làm thử nghiệm. Còn “sự nghiệp công sản quốc tế” thì chỉ trên dưới
15 năm sau chiến tranh Việt Nam (1975-1991), hệ thống cộng sản quốc tế sụp
đổ tan tành, sau khi các nước xã hội chủ nghĩa Đông âu và cả “Tổ quốc
xã hội chủ nghĩa Liên Xô” cũng tiêu vong sau hơn 70 năm xây dựng xã hội chủ
nghĩa chưa đi đến đâu (1917-1991).
Thực tế trên ai
cũng kiểm chứng và như thế mọi người có thể khẳng định không sợ sai lầm rằng :
Không phải 44 năm, mà chỉ 15 đến 20 năm sau kết thúc chiến tranh, Việt cộng đã
xây dựng xã hội chủ nghĩa thất bại hoàn toàn, cùng lúc với sự tiêu vong sự nghiệp
công sản quốc tế. Vậy triển vọng tương lai xây dựng xã hội chủ nghĩa tại Việt
Nam sẽ đi về đâu? Chúng tôi trình bày trong một bài viết tiếp theo.
(Houston, ngày
28-4-2019)
No comments:
Post a Comment