01.11.2016
.
Giáo sư Tường Vũ giới thiệu cựu Tổng trưởng
Thương mại và Kỹ nghệ Nguyễn Đức Cường, bên trái, cựu Tổng trưởng Kinh tế Phạm
Kim Ngọc và cựu Thứ trưởng Canh nông Trần Quang Minh (ảnh Bùi Văn Phú)
.
Sáu
mươi năm trước, vào ngày 26/10/1956 ở miền Nam Việt Nam, từ Vĩ tuyến 17 đến Mũi
Cà Mau, một bản Hiến pháp được ban hành để khai sinh ra một quốc gia mới là Việt
Nam Cộng hòa (VNCH).
Từ tiến
trình thành lập, sau khi người Pháp rút ra khỏi Đông Dương qua Hiệp định Geneve
1954, đất nước này đã trải qua nhiều biến động chính trị, chịu đựng chiến tranh
nhưng cũng có nhiều nỗ lực xây dựng trong hai thập niên, cho đến ngày 30/4/1975
thì bị xóa tên, khi xe tăng và bộ đội cộng sản từ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tiến
vào Thủ đô Sài Gòn và lãnh đạo cuối cùng của VNCH ra lệnh buông súng đầu hàng.
Sau
ngày 30/4/1975 thế giới ít còn ai nhắc đến VNCH với những gì đã được vun trồng
trên mảnh đất này.
Hơn bốn
mươi năm sau, VNCH được đưa ra xem xét lại tại Đại học Berkeley qua hội thảo chủ
đề: Nation-Building in War: The Experience of Republican Vietnam,
1955-1975 – Kiến quốc thời Việt Nam Cộng hòa 1955-1975 tổ chức trong
hai ngày 17 và 18/10/2016 vừa qua.
Cũng cần
nhắc lại, tháng 8/1963 bà Ngô Đình Nhu đã đến Đại học Berkeley với mục đích giải
độc cho những điều truyền thông Mỹ đưa ra không đúng về chính phủ Ngô Đình Diệm.
Từ giữa thập niên 1960 đến thập niên 1970 đại học này là trung tâm của phong
trào phản đối chiến tranh tại Việt Nam. Năm 1970 thủ lãnh sinh viên Đoàn Văn Toại
đã đến đây nói lên quyền tự quyết của sinh viên và của người dân miền Nam.
Giáo sư Peter Zinoman, bên trái, và Giáo sư
Tường Vũ (ảnh Bùi Văn Phú)
Trong
phần khai mạc hội thảo, Giáo sư Tường Vũ cho biết ban tổ chức đã có mời Giáo sư
Châu Tâm Luân đại diện cho Thành phần Thứ Ba nhưng ông từ chối; có mời Chánh án
Nguyễn Trọng Nho, cựu lãnh đạo sinh viên, và ông đã nhận lời nhưng giờ chót lại
rút lui và cũng mời Kỹ sư Võ Long Triều nhưng ông đã qua đời.
Sau đó
hội nghị bàn đến lịch sử qua nhiều góc cạnh từ chính trị, kinh tế, giáo dục đến
văn hoá, báo chí, xã hội với diễn giả là những cựu giới chức, nhà văn, nhà báo,
nghệ sĩ đã sinh sống, đã một thời là những lãnh đạo của VNCH, cùng một số những
nhà nghiên cứu trẻ có quan tâm đến một đất nước mà nay đã không còn.
Người
tham dự hội thảo đã nghe cựu Bộ trưởng Nội vụ Lâm Lễ Trinh, cựu giám đốc Viện Hối
đoái Huỳnh Văn Lang, và cũng là Tổng Thư ký Đảng Cần Lao, nói về những nỗ lực của
ông Ngô Đình Diệm để đưa đến sự ra đời quốc gia VNCH, từ thương thuyết, đối đầu
với những giáo phái Cao Đài, Hòa Hảo, với Hoàng đế Bảo Đại, và với nhóm Bình
Xuyên. Theo hai diễn giả, nhờ có sự yểm trợ của Hoa Kỳ ông Diệm mới có thể đứng
vững trong những năm đầu lập quốc.
Ông Huỳnh
Văn Lang nói nhiều về những chống đối mà chính phủ của ông Diệm gặp phải, từ
Nhóm Tự Do qua bản Tuyên ngôn Caravelle công bố ngày 26/4/1960 phản đối những
chính sách đàn áp của chính phủ mà ông Lang cho đó là những điều vu khống, vì
ông Ngô Đình Diệm không bao giờ chủ trương tiêu diệt các đảng phái chính trị đối
lập hay tôn giáo.
Ông
Lang bênh vực chính quyền Ngô Đình Diệm và cho rằng những người bị giam tù là
vì tham gia đảo chánh 11/11/1960, trong đó có nhà văn Nhất Linh, một lãnh đạo của
Việt Nam Quốc Dân Đảng, đã tự tử để phản đối. Ông cũng nhận định phong trào
tranh đấu của Phật giáo Ấn Quang không có mục đích tôn giáo mà vì chính trị và có
bàn tay của Mỹ nhúng vào.
Nhiều
diễn giả nói về nền kinh tế VNCH. Cựu Bộ trưởng Thương mại và Kỹ nghệ Nguyễn Đức
Cường, thay mặt giáo sư Vũ Quốc Thúc từ Pháp, nói về sự thành hình của hệ thống
ngân hàng, và sau đó ông nói đến những chính sách phát triển kỹ nghệ tại miền
Nam do ông đề xuất. Cựu Thứ trưởng Bộ Canh nông Trần Quang Minh, thay mặt Bộ
trưởng Cao Văn Thân đang ở Canada, nói về các chính sách cải cách điền địa, luật
“Người Cày Có Ruộng” cấp đất canh tác cho nông dân được Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu
ký ban hành ngày 26/3/1970.
Cựu Tổng trưởng Kinh tế Phạm Kim Ngọc (ảnh
Bùi Văn Phú)
Cựu Bộ
trưởng Kinh tế Phạm Kim Ngọc nhìn lại những khó khăn khi đưa ra cải cách kinh tế
với thuế trị giá gia tăng (TVA) và chính sách thắt lưng buộc bụng tiến tới tự
túc trong giai đoạn 1969-1973 là khi có chính sách Việt Nam hóa để người Mỹ từ
từ rút lui. Ông xác nhận những đề xuất của ông vấp phải nhiều chống đối từ giới
đối lập trong Quốc hội.
Trong
khi đó, những nhà nghiên cứu trẻ lại quan tâm đến nhiều khía cạnh khác của
VNCH.
Kevin
Li là sinh viên ban tiến sĩ khoa Sử Đại học Berkeley có bài nghiên cứu về giai
đoạn 10 năm của miền Nam, từ 1945 cho đến khi nền Đệ Nhất Cộng hòa ra đời, với
hoạt động của Bình Xuyên và Ủy ban Kháng chiến Nam Bộ với những nhân vật không
cộng sản như Bảy Viễn, Nguyễn Bình, Nguyễn Văn Trấn, Trần Văn Ân, Lâm Ngọc Đường…
Những nhà nghiên cứu trẻ trò chuyện với khách
tham dự hội thảo: Ryan Nelson, bên phải, Simon Toner và Kevin Li (ảnh Bùi Văn
Phú)
Ryan
Nelson là sinh viên ban tiến sĩ Sử Đông Nam Á tại Đại học Berkeley bàn về ba thất
bại của các chương trình cải cách xã hội tại miền Nam trong giai đoạn có quân đội
Mỹ tham chiến qua những tranh biếm họa đăng trên các báo Việt ngữ, cũng như báo
tiếng Anh xuất bản tại Sài Gòn. Trước đây Ryan Nelson đã viết một tiểu luận về
cuộc đời của Dân biểu Trần Văn Văn.
Bài
tham luận của Simon Toner, tiến sĩ Quốc tế sử từ Đại học Kinh tế Chính trị
London và hiện là nghiên cứu sinh hậu tiến sĩ tại Đại học Columbia, thì cho rằng
nền kinh tế VNCH không thể tự túc được, nếu không có viện trợ Mỹ sẽ không đứng
vững trong hoàn cảnh chiến tranh thời bấy giờ.
Những
giáo sư, nhà nghiên cứu trẻ gốc Việt tham gia hội nghị là ba phụ nữ: Nu-Anh
Tran, Van Nguyen-Marshall và Nguyen Diu Huong.
Nu-Anh
Tran tốt nghiệp ban tiến sĩ Sử Đại học Berkeley năm 2013 và hiện là giáo sư Đại
học Connecticut. Bà nghiên cứu về đời sống chính trị, xã hội và về giới trí thức
Huế giai đoạn 1954-63.
Tiến sĩ
Van Nguyen-Marshall từ Đại học Trent, Canada có bài tham luận về chương trình
tìm kiếm xác nạn nhân trên Đại lộ Kinh hoàng sau trận chiến Mùa Hè Đỏ Lửa 1972,
với hơn 1.800 xác nạn nhân dọc bên quốc lộ được tìm thấy và chôn cất. Đây là một
dự án nhân đạo do nhật báo Sóng Thần, với chủ nhiệm là nhà văn
Trùng Dương, đứng ra tổ chức nhưng ít được công luận biết đến.
Nguyen
Diu Huong hiện là sinh viên ban tiến sĩ Sử tại Đại học Washington. Bài nói chuyện
của bà đề cập đến những thay đổi xã hội và văn hóa ở Huế trong thập niên 1950
và 60.
Giáo sư John Schafer, bên trái, và hiền thê
Cao Thị Như Quỳnh và Ryan Nelson (ảnh Bùi Văn Phú)
Cũng
liên quan đến Huế, có bài tham luận của giáo sư đã nghỉ hưu John C. Schafer từ
California State University, Humbolt, tựa đề “Ngô Kha” là một nhân vật nổi tiếng
trong phong trào sinh viên tranh đấu ở Huế vào thập niên 1960. Theo giáo sư
Schafer, nhiều Ca khúc Da vàng của Trịnh Công Sơn như “Ta quyết phải sống”, “Huế
Sài Gòn Hà Nội”, “Việt Nam ơi hãy vùng lên” với những ca từ với ý từ hai trường
thi của Ngô Kha là “Trường ca Hòa bình” và “Ngụ Ngôn của người đãng trí”. Cái
chết mất tung tích của Ngô Kha, sau khi bị cảnh sát VNCH bắt đi, đến nay vẫn
còn là một điều bí ẩn.
Nhà văn Nhã Ca, bên phải, và Giáo sư Van
Nguyen-Marshall (ảnh Bùi Văn Phú)
Bài nói
chuyện của nhà văn Nhã Ca gợi lại không khí sinh hoạt văn chương nghệ thuật sống
động tại miền Nam trong 20 năm. Nghe Nhã Ca như thấy lại được Vũ Hoàng Chương,
Đinh Hùng, Nguyễn Đình Toàn; nghe lại được thi văn Tao Đàn, nhạc Pham Duy, Trịnh
Công Sơn, xem được tranh Đinh Cường, đọc lại Sáng Tạo, Văn mà
không sợ bị kiểm duyệt.
Cựu Trung tá Bùi Quyền và diễn viên điện ảnh
Kiều Chinh (ảnh Bùi Văn Phú)
Diễn
viên điện ảnh Kiều Chinh đưa người tham dự đến với điện ảnh miền Nam, từ những
phim đầu đời Ánh sáng miền Nam, Chúng tôi muốn sống đến Người
tình không chân dung, Hè muộn; từ những hãng phim nhà nước đến phim trường
tư nhân của Mỹ Vân, Alpha Phim đã đưa Việt Nam vào dòng sinh hoạt điện ảnh quốc
tế mà Kiều Chinh đã nhiều lần đại diện VNCH tham gia.
Nhà báo Vũ Thanh Thủy, bên phải, Tiến sĩ Nguyễn
Hữu Phước và Tiến sĩ Võ Kim Sơn (ảnh Bùi Văn Phú)
Về giáo
dục có Tiến sĩ Võ Kim Sơn và Tiến sĩ Nguyễn Hữu Phước nói về cách tổ chức và
triết lý giáo dục nhân bản và mang tính thực tiễn của miền Nam.
Nhìn về
người lính trong chiến tranh có Vũ Thanh Thủy, nguyên là phóng viên chiến trường,
đã tham gia nhiều cuộc hành quân để thấy sự dũng cảm của người lính VNCH từ các
tướng lãnh như Đỗ Cao Trí, Nguyễn Viết Thanh xuống đến hàng binh sĩ. Theo bà, sự
dũng cảm đó đã không được truyền thông quốc tế đưa tin một cách trung thực mà
nhiều khi còn bị xuyên tạc.
Cựu
Trung tá Bùi Quyền có bài nói về phản ánh của một người lính từ chiến trường là
những hi sinh vì lý tưởng quốc gia, muốn được người dân tin và thương mến,
nghĩa là thắng được “con tim và khối óc” của họ, nhưng đã thất bại trong mặt trận
chiến tranh tâm lý vì tuyên truyền của cộng sản.
Giáo sư Tường Vũ giới thiệu cựu Trung tá Bùi
Quyền, bên trái, và cựu Đại tá Trần Minh Công trên bàn hội thảo (ảnh Bùi Văn
Phú)
Cựu Đại
tá Trần Minh Công, nguyên Viện trưởng Học viện Cảnh sát Quốc gia nói về việc huấn
luyện sĩ quan cảnh sát các cấp theo tôn chỉ luôn luôn trọng luật pháp vì là một
quốc gia pháp trị, không phải muốn bắt ai cũng được mà phải có bằng chứng hay
có án lệnh từ tòa. Ông cũng đề cập đến tấm hình Tướng Nguyễn Ngọc Loan xử bắn một
cán bộ đặc công Việt Cộng ngay trên đường phố trong cuộc Tổng Tấn công Mậu Thân
mà truyền thông thế giới chỉ biết một nửa sự thực. Sau này nhà báo Eddie Adams,
người chụp tấm ảnh đó, đã hối hận vì không nói lên toàn bộ sự thật và đã xin lỗi
Tướng Loan.
Về trường
hợp cố vấn cho Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu là Huỳnh Văn Trọng bị bắt vì là gián
điệp cộng sản, theo Đại tá Công thì tư lệnh cảnh sát cũng rất nhức đầu về vụ
này, không thể bắt người không có bằng chứng, cho đến khi người Mỹ đưa bằng chứng
ông Trọng là gián điệp cộng sản cho an ninh Việt Nam khi đó ông mới bị bắt.
Nhà báo
kỳ cựu Phạm Trần nói chuyện về tự do báo chí qua Skype từ Virginia. Ông nhận định
là trong 9 năm Đệ Nhất Cộng hòa không có tự do báo chí theo tiêu chuẩn Tây
Phương. Với Hiến pháp Đệ Nhị Cộng hòa ban hành ngày 1/4/1967 báo chí miền Nam
được tự do nhiều, tuy có hình thức kiểm duyệt là “tự ý đục bỏ” trên những trang
báo. Ông cũng cho rằng vì có tự do báo chí nên nhiều tờ báo đã bị cộng sản xâm
nhập, như các tờ Tin Sáng của Ngô Công Đức và Điện Tín của
Hồng Sơn Đông.
Cựu nhân viên ngoại giao Mỹ ông David Brown
và ông Hoàng Đức Nhã (ảnh Bùi Văn Phú)
Ông
Hoàng Đức Nhã, cựu Tổng trưởng Dân vận Chiêu hồi và cũng là Cố vấn An ninh Quốc
gia của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, đã trình bày những nỗ lực xây dựng một nền
dân chủ với bản Hiến pháp mới ban hành năm 1967, trong đó các quyền tự do của
công dân được bảo đảm và Việt Nam Cộng hòa đang trên đường tiến đến một nền dân
chủ pháp trị.
Ông Nhã
cũng nhắc lại những phản đối của lãnh đạo VNCH khi bị Hoa Kỳ ép buộc ký kết Hiệp
định Paris 1973 để người Mỹ rút lui và bỏ rơi miền Nam.
Trong
các bài nói chuyện, Đại tá Trần Minh Công và Cố vấn Hoàng Đức Nhã đều nhấn mạnh
đến điểm là vì lãnh đạo Việt Nam Cộng hòa chủ trương xây dựng một nền dân chủ
pháp trị, nên phía cộng sản đã lợi dụng tự do để xâm nhập và phá hoại, trường hợp
nhà báo Phạm Xuân Ẩn là cụ thể.
Trò
chuyện với ông Hoàng Đức Nhã bên lề hội nghị, khi hỏi về trường hợp nhạc sĩ Trịnh
Công Sơn có phải là cộng sản hay không, ông Nhã nói rằng vì là một nhà nước
pháp trị nên không thể bắt giam vô cớ, hơn nữa Trịnh Công Sơn đâu có hoạt động
cho cộng sản, nhạc của ông ấy đâu có vi phạm thuần phong mỹ tục mà phải cấm hay
bắt.
Về chuyện
Dinh Độc Lập bị người Mỹ cài nghe lén, ông Nhã nói chắc chắn người Mỹ có làm điều
đó và cả cộng sản nữa. Họ tinh vi lắm. Ông kể nhiều khi trong buổi họp, muốn
nói gì với Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu ông phải viết ra giấy. Hay khi có chuyện
quan trọng, ông và tổng thống thường ra đứng trước hành lang dinh, hay rủ nhau
đi câu cá trên sông để bàn về các chiến lược, chính sách.
Chương
trình hội thảo kết thúc với phần giới thiệu tác phẩm South Vietnamese
Soldiers: Memories of the Vietnam War and After [Nxb. Praeger 2016] của
Giáo sư Nathalie Huynh Chau Nguyen đến từ Đại học Monash, Melbourne, Úc.
Hai
ngày hội thảo đã đem đến cho giới thức giả cùng sinh viên nhiều hiểu biết hơn,
cũng như còn nhiều thắc mắc về một nền cộng hòa trên quê hương Việt Nam, mà
theo Giáo sư Tường Vũ thì tư tưởng cộng hòa đã du nhập vào Việt Nam từ những
năm 1910, trước cả chủ thuyết cộng sản.
Sẽ còn
nhiều đề tài liên quan đến VNCH cần được nghiên cứu vì hội thảo tại Đại học
Berkeley năm nay, cũng như hội thảo tại Đại học Cornell do Giáo sư Keith Taylor
tổ chức năm 2012 cũng mới chỉ nhìn lại những thành tựu và thất bại trong một số
lãnh vực ở một nơi đã từng là quốc gia của 15 triệu người dân với đầy đủ các định
chế công quyền và pháp lý.
Đề xướng
cho hội thảo năm nay là Giáo sư Tường Vũ từ Đại học Oregon, tiến sĩ chính trị học
từ Đại học Berkeley, và Giáo sư Peter Zinoman của khoa Sử Đại học Berkeley. Việc
tổ chức có sự giúp sức của nhiều người: Giáo sư Nữ-Anh Trần từ Đại học
Connecticut, ông Hoàng Đức Nhã, nhà văn Trùng Dương; Trần Hạnh, Nguyễn Nguyệt Cầm
là các giảng viên Việt ngữ tại Đại học Berkeley và Alex-Thái D. Võ, sinh viên
tiến sĩ khoa Sử Đại học Cornell.
Trong hội
thảo, một người tham dự thắc mắc là VNCH có những cơ cấu tổ chức đầy đủ như thế,
hội thảo này có nhằm mục đích để bênh vực cho luận điểm của một số người Việt tại
Hoa Kỳ khi so sánh với những yếu kém tại Việt Nam ngày nay.
Kevin
Li, sinh viên tiến sĩ khoa Sử, trả lời việc nghiên cứu là mang tính học thuật
và không có mục đích nào khác.
----------------------------------
* Các
bài viết được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm
hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.
No comments:
Post a Comment