Lãnh tụ tạo nên thời đại hay thời đại tạo nên lãnh tụ
vẫn còn là một vấn đề được tranh luận nhưng chắc chắn cả hai có một quan hệ hỗ
tương, gắn bó chặt chẽ trong đó ý thức của thời đại đóng vai trò quyết định.
Nhìn lại một giai đoạn lịch sử hay một sự kiện chính trị để phán xét là điều
quá dễ dàng nhưng khi sống ngay trong giai đoạn đó thì khó có thể phán xét đúng
và sai, nhân và quả.
Neville
Chamberlain và quan điểm “thời đại hòa bình”
Một lãnh đạo quốc gia dân chủ bị phê bình nặng nhất
trong Thế chiến Thứ hai là Thủ tướng Anh, Lord Neville Chamberlain. Tuy nhiên
trong thời điểm tháng Chín 1938, ông ta là một anh hùng của nước Anh.
Hôm đó là ngày thứ Sáu, 30 tháng Chín, 1938. Thủ đô
London giống như một ngày hội. Theo tin tức trên các báo, buổi sáng hôm đó Thủ
tướng Lord Neville Chamberlain sẽ thành công trở về sau cuộc hội đàm với Quốc
trưởng Đức Adolf Hitler. Nhiều báo còn kêu gọi dân chúng cùng đi đón thủ tướng
tại phi trường bằng mọi phương tiện. Các hãng xe bus đưa thêm xe, tàu điện ngầm
tăng thêm chuyến. Hàng ngàn dân Anh nô nức đổ ra phi trường Heston, cách thủ đô
London chín dặm, để chào đón thủ tướng của họ.
Khi cánh cửa máy bay vừa mở, Thủ tướng Anh Lord
Neville Chamberlain bước xuống cầu thang. Ông nói như hét vào tai của Bộ trưởng
Ngoại Giao Anh, Lord Halifax, đang đứng trong hàng viên chức ra tiếp đón thủ tướng “Tôi
đạt được rồi, tôi đạt được rồi”. Ý ông là đạt được thỏa hiệp với
Hitler. Thủ tướng Anh rút trong túi một tờ giấy và cẩn thận mở ra và đọc nguyên
văn “Chúng tôi, Quốc trưởng Đức và Thủ tướng Anh đã họp thêm sáng nay
và cùng công nhận rằng mối quan hệ giữa Anh và Đức là mối quan hệ quan trọng
hàng đầu đối với hai nước cũng như đối với toàn châu Âu. Chúng tôi nhìn nhận thỏa
hiệp được ký tối qua và thỏa hiệp hải quân Anh-Đức như biểu tượng cho ước muốn
của nhân dân hai nước sẽ không bao giờ phát động chiến tranh chống nhau lần nữa”.
Ý thức chủ hòa là ý thức chung của đại đa số dân Anh
lúc bấy giờ. Câu nói bất hủ của Neville Chamberlain “Hòa bình trong thời đại
chúng ta” vang dội khắp nước Anh trong những ngày sau đó nhưng cũng chính câu
nói này đã ám ảnh ông cho đến khi ông qua đời hai năm sau.
Adolf
Hitler và mộng bành trướng Châu Âu
Buổi sáng ngày 19 tháng 8, 1934 là ngày nhân dân Đức
đi bỏ phiếu để hợp thức hóa vai trò lãnh đạo tối cao của Adolf Hitler. Một cột
báo lớn trên trang nhất long trọng công bố “Hôm nay Adolf Hitler là biểu
tượng của nhân dân Đức”. Tổng thống Paul von Hindenburg qua đời hai
ngày trước.
Cuôc đại khủng hoảng kinh tế thế giới 1928, hiệp ước
Versailles và quan điểm chủ hòa của phe đồng minh Anh-Pháp đã góp phần để đưa một
chính trị gia chỉ được 32% số phiếu bầu hai năm trước trở thành “lãnh tụ anh
minh” với gần 98.9% cử tri Đức ủng hộ trong lần bầu cử 1934, và trở nên một “cứu
tinh dân tộc”. Theo sử gia Sebastian Haffner, ngay cả một số người Đức bỏ phiếu
chống Hitler trước đó cũng quay sang ủng hộ Hitler.
Đành rằng, bộ máy tuyên truyền của Đức Quốc Xã do
Joseph Goebbels điều hành đóng một vai trò rất lớn trong việc vận dụng tinh thần
yêu nước của người dân Đức, phần chủ yếu vẫn cũng là ý thức chính trị chung của
người dân Đức. Hậu quả của ý thức thời đại đó như mọi người đều biết là Thế chiến
Thứ hai với khoảng 80 triệu người chết.
Một trường hợp sẽ được nghiên cứu sâu rộng sau này
là trường hợp Donald Trump
Gác qua một bên những tình cảm yêu ghét, quan điểm đạo
đức, lập trường chính trị, kết quả cuộc bầu cử tổng thống Mỹ cho thấy nước Mỹ
đang cần và đã tạo nên một nhân vật Trump.
Ý thức thời đại đang quay về với một loại chủ nghĩa
quốc gia ngay trong kỷ nguyên toàn cầu hóa. Do đó, đừng lấy làm ngạc nhiên khi
Tổng thống Nga Vladimir Putin được 83 phần trăm dân Nga được thăm dò chấp thuận
hay Tổng thống Philippines Rodrigo Duterte được 76 phần trăm dân Philippines được
thăm dò chấp thuận. Nước Mỹ đang cần một lãnh đạo có khả năng làm lực đối trọng
với Vladimir Putin của Nga, Tập Cận Bình của Trung Quốc, với Recep Tayyip
Erdoğan của Thổ Nhĩ Kỳ, với Hassan Rouhani của Iran, và cũng có khả năng đặt vấn
đề quyền lợi cũng như trách nhiệm một cách thẳng thắn với các quốc gia đồng
minh của Mỹ.
Trong các tiệc tùng hay tại các quán nhậu, người ta
có thể cười thoải mái về các chuyện đời tư hay cá tính của Donald Trump nhưng
khi đem so sánh với các chính sách của Hillary Clinton, cử tri Mỹ đã nghĩ khác.
Chọn lựa trước thùng phiếu khác với tình cảm trong quán nhậu. Niềm tin của cử
tri Mỹ, ngoài việc cần phải thay đổi còn dựa vào xương sống của nền dân chủ Mỹ,
đó là nguyên tắc đối trọng (checks and balances) giữa ba ngành chánh phủ.
Nguyên tắc đối trọng hữu hiệu ngay cả trong trường hợp hành pháp lẫn lập pháp đều
thuộc một đảng. Trong nhiệm kỳ đầu của TT Barack Obama, đảng Dân Chủ nắm đa số
tại Thượng Viện lẫn Hạ Viện nhưng quan điểm thiểu số Cộng Hòa vẫn được tôn trọng
và nhiều đạo luật phản ảnh tinh thần lưỡng đảng.
Xin mở ngoặc ở đây, trong phương pháp bầu cử theo cử
tri đoàn, mục đích của ứng cử viên là chiếm được đa số cử tri đoàn và mục đích
đó chi phối toàn bộ các phương pháp vận động bầu cử. Một số người không nghiên
cứu tường tận cách thức bầu cử cử tri đoàn dựa trên đa số nhưng tôn trọng quyền
thiểu số của Mỹ, đã vội vã phê bình là khiếm khuyết, thiếu dân chủ hay lẽ ra
Hillary Clinton nên là tổng thống. Luật bầu cử của một quốc gia trước hết đặt
cơ sở trên các giá trị lịch sử và điều kiện chính trị đặc thù của quốc gia đó.
Nước Mỹ là liên bang của những tiểu bang, trong đó mỗi tiểu bang có chiều dày lịch
sử, văn hóa, dân số và địa lý khác nhau. Nước Mỹ hình thành không phải từ “một
mẹ trăm con” hay một dân tộc có nhiều ngàn năm lịch sử, mà là gặp nhau từ bốn
phương trời với vỏn vẹn trên dưới 300 năm lịch sử. Phần lớn mười ba thuộc địa đầu
tiên dựng nên nước Mỹ, ngoại trừ New York, đều là những thuộc địa nhỏ. Do đó,
giải pháp bầu theo cử tri đoàn là giải pháp tối ưu để vừa thuận theo đa số
nhưng tôn trọng thiểu số. Nếu theo phương pháp phổ thông đầu phiếu, người dân
tiểu bang Wyoming sẽ chẳng có quyền quyết định gì trong chính trị Mỹ vì tiểu
bang này chỉ có hơn nửa triệu dân so sánh với California dân số hơn ba mươi tám
triệu.
Tranh
chấp Biển Đông
Chiến lược của Mỹ trong tranh chấp Biển Đông có lẽ
là điều mà mọi người Việt ưu tư về đất nước quan tâm.
Trong tư cách Ngoại Trưởng, Hillary Clinton từng
tuyên bố tại Diễn đàn Khu vực về Hợp tác an ninh ở châu Á tổ chức tại Hà Nội
hôm 23 tháng Bảy, 2010: “Hoa Kỳ, giống như các quốc gia khác, có quyền
lợi quốc gia về tự do hàng hải, mở cửa những thủy lộ chung tại châu Á, và tôn
trọng luật pháp quốc tế trên Biển Đông. Hoa Kỳ chia sẻ quyền lợi này, chẳng những
với các quốc gia thành viên ASEAN hoặc các quốc gia tham dự Diễn đàn Khu vực
ASEAN, mà còn với các quốc gia có nhu cầu về hàng hải khác và cộng đồng quốc tế
rộng lớn hơn”.
Sau hơn 6 năm từ tháng 7, 2010, Trung Cộng vẫn tiếp
tục dùng vũ lực khống chế khu vực biển Đông, độc quyền khai thác các nguồn dầu
mỏ, khoáng sản, và xâm phạm quyền lợi của các quốc gia vùng Đông Nam Á, tiếp tục
tăng cường quân sự, hiện đại hóa võ khí và đe dọa chủ quyền các quốc gia Á
Châu.
Còn quá sớm để nhận xét về chính sách đối ngoại của
Donald Trump về Á Châu và cũng không có nghĩa Donald Trump lên Trung Cộng sẽ
rút khỏi Biển Đông, nhưng rõ ràng một sự thay đổi về phương pháp đối đầu với những
quốc gia đang xung đột quyền lợi với Mỹ là những gì cử tri Mỹ đang muốn thấy.
Hiểu được hướng đi của thời đại là điều rất cần thiết
cho những ai đang mưu cầu một tương lai tốt đẹp, tự do dân chủ cho Việt Nam.
Các nước nhỏ không có nhiều chọn lựa mà chỉ có thể vận dụng và phải biết vận dụng
trong mọi tình huống.
Cuộc đấu tranh chống chế độ Phân Biệt Chủng Tộc Nam
Phi của tổ chức ANC (African National Congress) do Nelson Mandela lãnh đạo là một
bài học điển hình và một tấm gương sáng để soi. Trong một thời gian dài khi
Mandela và các bạn chiến đấu của ông còn chịu đựng tù đày, các tổng thống Mỹ từ
Ronald Reagan tới George H.W. Bush chẳng những không viện trợ mà còn kết án ANC
là khủng bố. Nhưng các lãnh tụ ANC không vì thế mà nản lòng, bỏ đi, ngược lại vẫn
kiên trì tranh đấu và khi phong trào CS châu Âu sụp đổ, họ nắm bắt cơ hội ý thức
thời đại đang chuyển về hướng dân chủ để thay đổi Nam Phi.
Nền dân chủ Việt Nam cũng vậy. Dân chủ Việt Nam như
một bông hoa mọc lên giữa bụi cây đầy gai nhọn và rất khó gỡ ra, nhưng vẫn phải
vươn lên. Dân chủ là văn minh của thời đại và không có chọn lựa nào khác ngoài
dân chủ. Lịch sử của Nam Phi, Miến Điện và sẽ của Việt Nam, được viết bởi những
người ở lại chứ không phải những kẻ bỏ đi.
17.11.2016
No comments:
Post a Comment