Friday, March 11, 2016

LIỆU VIỆT NAM CÓ THỂ TỰ CẢI CACH ? - PHẦN 2 : THAY ĐỔI LÀ TẤT YẾU (Bùi Quang Vơm)



Bùi Quang Vơm
Posted by adminbasam on 07/03/2016
Chủ nghĩa cộng sản không tồn tại
Đảng cộng sản nói chung và đảng cộng sản Việt Nam nói riêng tất yếu phải thay đổi hoặc tiêu vong, nếu thực sự cái mục tiêu lý tưởng mà nó theo đuổi là xã hội cộng sản chủ nghĩa chỉ là một ảo ảnh không có thực.
Để hiểu Chủ nghĩa cộng sản có thực tồn tại hay không, trước hết phải xem chủ nghĩa cộng sản là gì. Đây là vấn đề có tính lý thuyết lớn, đụng tới lý do ra đời và tồn tại của cả một phong trào cách mạng thế giới, trong lịch sử đã có lúc là một nửa nhân loại. Với phạm vi một bài báo, chúng ta sẽ chỉ xem xét nó trên một vài đặc trưng và cố gắng diễn giải nó một cách ngắn gọn.
Theo Mác, Ănghen và sau này được Lênin tiếp tục phát triển, chủ nghĩa cộng sản, hay xã hội cộng sản là giai đoạn phát triển cuối cùng trong tiến trình phát triển của xã hội loài người, là giai đoạn tiếp theo của sự phát triển tột bậc của chủ nghĩa tư bản.
Vì là giai đoạn tiếp theo giai đoạn phát triển tột bậc của chủ nhĩa tư bản, nên chủ nghĩa cộng sản thừa hưởng nền đại sản xuất công nghiệp đạt tới một năng suất lao động đủ cao để bảo đảm “Làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu”.
Khi đạt tới mức phát triển tột cùng, khi mà của cải xã hội dã dồi dào tới mức vượt xa nhu cầu, chủ nghĩa tư bản sẽ tự chuyển hóa thành xã hội cộng sản, hoặc sẽ bị tiêu diệt theo một cách khác, mâu thuẫn giữa chủ sở hữu tư nhân và lực lượng lao động vô sản, tại thời điểm này đã phát triển tới cực điểm, dẫn đến cuộc cách mạng vô sản lật đổ tiêu diệt chính quyền của chủ nghĩa tư bản, thiết lập nên xã hội cộng sản chủ nghĩa, là một xã hội không còn sở hữu, sản phẩm không còn tính hàng hóa, không thị trường, không tiền tệ, không nhà nước, không cảnh sát, không quân đội, không pháp luật, không tòa án. 
Xét về mục tiêu, xã hội cộng sản là một xã hội mang tính nhân đạo, tất cả là của chung, tất cả đều miễn phí, không còn bóc lột, không còn khác biệt hưởng thụ, không có chiến tranh, không có mâu thuẫn đối kháng, không có cưỡng bức, tất cả là tự nguyện, là đồng thuận…
Nhưng mô hình tổ chức của nó, cơ chế vận hành của nó được xây dựng một cách tưởng tượng trên các căn cứ không tưởng, vô định, phản bội lại chính những nguyên lý của biện chứng lịch sử, một trong ba trụ cột của học thuyết Mác-xit.
1- Duy vật biện chứng Mácxít nói, thế giới là sự thống nhất của các mặt đối lập. Các mặt đối lập xung đột, đấu tranh giành giật, tiến tới thủ tiêu lẫn nhau. Đó là động lực của phát triển, của tiến hóa. Ở xã hội cộng sản không còn tồn tại mâu thuẫn đối kháng, nghĩa là không còn động lực phát triển, tất cả đều dừng lại. Xã hội sẽ đông cứng như trạng thái chết nhiệt vũ trụ. Bản thân xã hội sẽ hết năng lượng và tự sụp đổ vào trong như một ngôi sao chết, một lỗ đen.
2- Quy tắc làm theo năng lực hưởng theo nhu cầu là một quy tắc không tưởng, vì nhu cầu không có giới hạn, và không có điểm dừng. Cầu sinh ra cung, nhưng cung lại sinh tiếp ra cầu, để lại sinh ra cung mới, rồi cung mới lại đẻ ra nhu cầu mới, một loại phản ứng dây chuyền nhiệt hạch, cứ thế tới vô cùng. Tại một thời điểm nhất định sau một chu trình sản xuất nhất định, cho dù năng suất lao động cao bao nhiêu, số lượng của cải tạo ra cũng là một con số cố định, ít nhất trong suốt thời gian của chu trình sản xuất tiếp theo, trong khi nhu cầu của mỗi con người, nhu cầu tổng thể của cả hệ thống xã hội là động và vô hạn, mâu thuẫn này tất yếu làm xã hội tan vỡ.
3- Xã hội không sở hữu cũng là một quy tắc phản biện chứng. Sở hữu là thuộc tính tạo hóa của con người. Một trong những khái nệm có ý thức đầu tiên, khi bắt đầu tách khỏi giới động vật trong quá trình tiến hóa của loài người là khái niệm sở hữu. Các nhà nhân chủng học đã chứng minh từ “của tôi” là một trong những từ đầu tiên của con người khi hình thành tiếng nói. Không ai có thể hình dung một xã hội mà trong đó không còn tồn tại khái niệm “của tôi”, “của anh”. Mọi loại quan hệ sẽ rối loạn, đổ vỡ.
4- Thủ tiêu sở hữu để từ đó thủ tiêu giai cấp chỉ thực hiện được đối với các tư liệu vật chất hữu hình, thông qua công hữu hóa hoặc quốc hữu hóa bằng quyền lực chuyên chính, nhưng khi tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội là tri thức, là sản phẩm trí tuệ là loại tư liệu phi vật chất và vô hình, thì Nhà nước bất lực. Tư liệu sản xuất của nền kinh tế tri thức không thể quốc hữu hóa, công hữu hóa. Sở hữu trí tuệ là sở hữu tạo hóa. Chỉ có đấng Tạo hóa mới có quyền lực đối với nó. Vì vậy mà sản phẩm hàng hóa của nền kinh tế tri thức là sở hữu tư nhân bất khả tước đoạt. Mô hình xã hội cộng sản buộc phải phá sản. Điều này phản ánh tư duy chết cứng của cả Mác và Lênin. Trong tiềm thức của các ông, kinh tế hàng hóa của chủ nghĩa tư bản chỉ và chỉ có từ nền sản xuất đại công nghiệp. Các ông không thể hình dung rằng, chỉ sau hơn một thế kỷ, nền kinh tế sản xuất công nghiệp chỉ còn chiếm khoảng 25%-30%, kinh tế tri thức và dịch vụ đã chiếm 65%-75% tổng GDP ở các nước công nghiệp phát triển, và có xu hướng chắc chắn tăng nhiều hơn nữa. Xã hội cộng sản liệu có hiện thực khi chỉ công hữu hóa được không quá 30% sản phẩm xã hội?
Như vậy, xã hội cộng sản chủ nghĩa không thể có thực. Nó chỉ như một thứ chuyện cổ tích thần thọai phản ánh ước nguyện của con người ở tình trạng bất lực.
Karl Marx là người phá hoại và kéo lùi lịch sử. Luận điểm cơ bản nhất của chủ nghĩa Mác là luận điểm mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất có tính chất xã hội hóa ngày càng cao với quan hệ sản xuất dựa trên sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa đối với tư liệu sản xuất, dẫn đến sự kìm hãm của sức sản xuất. Mâu thuẫn tích tụ giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản tất yếu dẫn đến cuộc cách mạng bạo lực, lật đổ chính quyền của chủ nghĩa tư bản. Theo Mác, đó chính là là động lực cơ bản của phát triển. 
Luận điểm này sai, rất sai, sai một cách cơ bản. Bản chất thuộc tính tự nhiên của hoạt động loài người là tìm kiếm lợi ích. Bản chất của hoạt động kinh tế là lợi nhuận. Chính lợi ích và sau này là lợi nhuận mới là động lực tự nhiên của phát triển. 
Trong suốt chiều dài tiến hóa của xã hội loài người, bất kể biểu hiện bên ngoài dưới hình thái kinh tế-xã hội nào, cốt lõi xuyên suốt vẫn luôn là tìm kiếm, theo đuổi lợi nhuận, dưới vô số hình thức khác nhau. Mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất theo cách gọi của Mác là mâu thuẫn giữa người lao động và chủ sở hữu lao động, chỉ là mâu thuẫn trong phân chia sản phẩm, phân chia kết quả hay chính xác là phân chia lợi nhuận thu được từ quá trình sản xuất. Mâu thuẫn giữa lao động và chủ sở hữu luôn tồn tại, nhưng không phải là mâu thuẫn đối kháng theo quan điểm của Mác, vì cả hai đều có lợi ích gắn với kết qủa cuối cùng của sản xuất, tức là gắn với lợi nhuận cuối cùng, ngôn ngữ kinh tế hiện đại goị là lợi nhuận ròng. Nếu phân chia thiên quá về phía chủ, người lao động bị tước đoạt bất công sẽ không còn động cơ tăng năng suất, nghĩa là giảm lợi nhuận cuối cùng. Nhưng nếu phân chia thiên quá về phía người lao động, lợi nhuận cuối cùng giảm làm mất khả năng tái đầu tư mở rộng, sản xuất không phát triển, sinh ra thất nghiệp, giảm trực tiếp tới thu nhập của người lao động và trật tự xã hội.
Vì vậy, Phân chia thụ hưởng hợp lý trên nguyên tắc đảm bảo tối ưu lợi nhuận cuối cùng là luận điểm có ý nghĩa cách mạng căn bản.
Học thuyết sai lầm về mâu thuẫn của Mác đã chia thế giới, chia xã hội loài người thành hai phe đối kháng có nhu cầu phủ định, tiêu diệt lẫn nhau, chính là nguồn gốc của chiến tranh, của phân hóa và hận thù. Ông còn nói, “Lịch sử phát tiển của xã hội loài người là lịch sử đấu tranh giai cấp”. Có thể suy ra rằng theo ông, Chiến tranh là tất yếu, hay chiến tranh cũng là động lực của tiến hóa. Về mặt nào đó, chủ nghĩa Mác là nguyên nhân gây xáo trộn trật tự thế giới, phá huỷ nền tảng vật chất và làm chậm tiến trình phát triển của xã hội loài người. Sau khi ông “đi”, thế giới chứng kiến hai cuộc chiến tranh chưa từng có trước đó, và suốt 80 năm, thế giới bị chia thành hai nửa đối kháng nhau, mâu thuẫn với nhau, để tích tụ dần cho “đủ lượng” để “biến đổi về chất”, thành cuộc chiến thứ ba, tiêu huỷ hoàn toàn sự sống trên mặt Địa cầu.
Có thể tin được một thứ chủ nghĩa như vậy không?
Luận điểm về Nhà nước của chủ nghĩa Mác Lênin là một sai lầm.
Theo phương pháp luận của cả Marx và Lênin, Nhà nước là sản phẩm của xã hội có giai cấp. Khi tồn tại phương thức sản xuất bóc lột nó bảo vệ lợi ích giai cấp bóc lột, khi xóa bỏ giai cấp và tư hữu, thì Nhà nước tự diệt vong. Nhà nước vô sản là công cụ chuyên chính của giai cấp vô sản để trấn áp mọi sự trỗi dậy của chủ nghĩa tư bản và củng cố thành quả của cách mạng vô sản. Vì vậy Nhà nước đương nhiên phải có tính giai cấp. Trong xã hội do một đảng chính trị cầm quyền, nhà nước phải có tính đảng, phải là công cụ của đảng, có chức năng bảo vệ đảng và chính quyền của đảng.
Đây là luận điểm không đúng. Khi biến thành công cụ trong tay một giai cấp, Nhà nước tự nó đã không còn tính chính danh nữa, vì bản chất của nhà nước là Trung tính. 
Khi xã hội nguyên thủy phát triển tập trung dần thành cộng đồng, những va chạm dân sự, những xung đột lợi ích trở nên phổ biến và phức tạp tới mức không thể tự thương lượng, dẫn tới nhu cầu phân xử thông qua một trọng tài trung gian. Trọng tài ban đầu chỉ là một cá nhân có uy tín được cả các bên xung đột chấp nhận và cam kết tuân thủ phán xử. Đó là quyền lực hợp thức của trọng tài. Chỉ cần một trong các bên xung đột, tranh chấp không thừa nhận, vai trò trọng tài và phán xét không còn giá trị hiệu lực. Cùng với sự phát triển xã hội, quy mô xung đột, tính chất xung đột lớn và phức tạp dần đòi hỏi trọng tài có quy mô tăng dần từ vài người thành một nhóm, rồi trở thành một tổ chức, một cơ quan chuyên nghiệp, tách ra khỏi sinh họat của số đông còn lại. Đây là hình thức ban đầu của nhà nước với chức năng nguyên thuỷ là trọng tài phân xử và hoà giải các xung đột trong xã hội. Ở Trung Quốc tới tận thế kỷ thứ ba sau công nguyên (nhà Hán năm 220- 280), công việc của một quan tri huyện vẫn chỉ duy nhất là việc xử các vụ kiện cáo trong dân.  Quyền lực của nhà nước dựa trên uy tín chính trị và sự uỷ thừa quyền trực tiếp của dân chúng.
Cùng với sự phát triển và hoàn thiện dần của tiến hóa xã hội, nhà nước trở thành bộ máy quản trị kinh tế hành chính, nhưng chức năng chính của nó vẫn là trung gian điều phối, hoà giải các xung đột kinh tế và dân sự. Điều phối và hoà giải trong lĩnh vực kinh tế chính là điều hoà các xung đột xảy ra giữa các tác nhân kinh tế, trên nguyên tắc hợp lý và đảm bảo lợi ích bao trùm của tổng thể cộng đồng, nghĩa là trên nguyên tắc đảm bảo lợi ích của các bên xung đột trên nguyên tắc kiến tạo tăng trưởng và phát triển ổn định. Điều phối và hoà giải các xung đột dân sự chính là đảm bảo an toàn, đạo đức, kỷ cương và trật tự xã hội.
Như vậy Nhà nước luôn là và phải luôn là một cơ quan trung tính, chuyên nghiệp và phi chính trị. Trong xã hội dân chủ hiện đại, khi chính quyền nhà nước có thể luân chuyển qua tay các chính thể khác nhau, luân phiên nắm giữ, tuỳ thuộc kết quả bầu cử, bộ máy nhà nước vẫn không thay đổi chức năng và xáo trộn về kết cấu.
Nhà nước có tính giai cấp và mang tính đảng theo tư tưởng Lênin, sử dụng công cụ bạo lực chuyên chính để trấn áp các đối kháng chính trị, các khác biệt tư tưởng là một nhà nước cai trị, đối lập lợi ích với số đông bị trị, là nhà nước phản tiến bộ.
Quá độ là gì?
Quá độ là chuyển tiếp. Theo các tài liệu lý luận của đảng thì Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ chuyển tiếp từ một hình thức xã hội trước xã hội chủ nghĩa, có thể là chế độ sơ khai tư bản chủ nghĩa hay tư bản chủ nghĩa phát triển, nhằm hoàn thiện những điều kiện cuối cùng để đi lên xã hội chủ nghĩa.
Định nghĩa này cho thấy, khi chấp nhận kinh tế thị trường, không phải đảng cộng sản thừa nhận tính ưu việt của chủ nghĩa tư bản, mà chỉ lợi dụng sự năng động và tính hiệu qủa của kinh tế thị trường để tạo dựng gấp rút nền móng hạ tầng kỹ thuật cho nền sản xuất công nghiệp hiện đại cần cho qúa trình xây dựng chủ nghĩa xã hội trong tương lai.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ 1991 ghi “Đây là một quá trình cách mạng sâu sắc, triệt để, đấu tranh phức tạp giữa cái cũ và cái mới nhằm tạo ra sự biến đổi về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất thiết phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước phát triển, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen”. Đây là một luận đề nhằm chính danh hóa chủ trương chấp nhận hình thức kinh tế tư bản trong một thời gian nhất định, hòng cứu vãn nguy cơ sụp đổ, nhưng “vẫn kiên định mục tiêu, lý tưởng xã hội chủ nghĩa”.
Nội dung của thời kỳ quá độ được ghi trong cương lĩnh 1991 là Từ nay đến giữa thế kỷ XXI, toàn Đảng, toàn dân ta phải ra sức phấn đấu xây dựng nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng cũng nói có lẽ phải đến giữa thế kỷ này mới kết thúc giai đoạn qúa độ.
Như vậy, nội dung của thời kỳ quá độ gói gọn lại là xây dựng nền công nghiệp hiện đại bằng sức mạnh của kinh tế thị trường. Nhưng nền công nghiệp hiện đại bao gồm những gì, chưa có ai trong lãnh đạo đảng nói ra, chưa ở đâu, chưa nơi nào, chưa tài liệu nào đề cập.
Như vậy, đến giữa thế kỷ này, nghĩa là bắt đầu vào khoảng 35 năm nữa, giai đoạn quá độ sẽ kết thúc, cơ sở kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội đã hình thành, thị trường cùng với kinh tế tư nhân tư bản chủ nghĩa bắt đầu hết vai trò, bắt đầu quay lại là kẻ thù của cách mạng, sẽ dần dần phải biến mất. Một chiến dịch tước đoạt dưới danh nghĩa công hữu hóa sẽ lại được chuẩn bị. Tất cả các loại hình kinh tế ngoài nhà nước, bất kể là kinh tế tư nhân tự sản tự tiêu, bất kể là kinh tế gia đình, bất kể là doanh nghiệp cá thể hay cổ phần, bất kể tiểu chủ hay tiểu thương, buôn bán nhỏ hay đại gia tập đoàn tư nhân, tất cả sẽ lần lượt bị nhà nước ép giá mua lại, hoặc bằng công tư hợp doanh, bằng sáp nhập liên doanh, bằng quốc hữu hóa, bằng trưng thu, trưng mua, thậm chí bằng cả tịch biên v.v… sẽ chỉ còn kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể do nhà nước chỉ đạo quản lý là tồn tại. Sẽ là cuộc cách mạng vô sản lần nữa. Và sẽ lặp lại lần nữa một cuộc thảm sát kinh hoàng, một thảm họa.
Đó có thể chỉ là một kịch bản tưởng tượng. Nhưng cũng rất có thể nó đã có sẵn trong đầu các uỷ viên bộ chính trị, nhất là trong đầu Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng, chủ bút của Cương lĩnh 2011, bổ sung và phát triển cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Ông là người chỉ ra đến giữa thế kỷ này phải xong giai đoạn quá độ và cũng là người mong muốn đến cuối thế kỷ này sẽ có xã hội chủ nghĩa hoàn thiện trên đất Việt Nam, chắc chắn trong đầu ông đã hình thành một kế hoạch nào đó.
 Ông Trọng ạ, đừng, đừng làm cái điều tôi đã tưởng tượng ra trong cơn hoảng loạn trên kia, tôi xin ông. Tôi hiểu ông có một niềm tin sắt đá vào sự tốt đẹp một xã hội cộng sản. Khoan hãy quy tội đó là một niềm tin mù quáng. Hãy nghĩ rằng chính niềm tin sắt đá đó chứng minh ông là một người lương thiện và có lòng phục thiện. Chỉ xin ông đừng để cho cái sắt đá trong đầu ông biến trái tim ông thành gỗ đá vô cảm.
Hơn tám mươi năm các ông cầm quyền, nước Việt Nam đi qua ba cuộc chiến tranh, 9 năm chống Pháp, 10 năm chống Mỹ, 3 năm trực tiếp nồi da nấu thịt, cốt nhục tương tàn, một cuộc cải cách ruộng đất, hai lần đổi tiền, gần 10 năm hợp tác hóa, hai lần cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh. Ông hãy thử hình dung. Có bao nhiêu đồng bào của ông bị chết tan xương nát thịt vì bom đạn. Có bao nhiêu chàng trai, cô gái ngây thơ, vô tội bị chôn vùi trên mọi ngóc ngách, mọi nẻo đường của đất nước mà không hiểu vì sao, cho cái gì. Có bao gia đình tan nát, cha mất con, vợ mất chồng, anh em ly tán, loạn lạc trên hai tuyến đối đầu gí súng vào đầu nhau mà bắn. Có bao nhiêu cuộc đời tới hai lần chạy trốn các ông, bốn chục năm tha hương vẫn chưa có đường về. Có bao nhiêu người gửi thân dưới đáy biển mênh mông. Có bao nhiêu mồ hôi nước mắt bị các ông tước đoạt. Bao nhiêu mồ mả bị các ông đào xới…Có bao nhiêu oan hồn còn không có nơi trôi dạt… 
Đừng, đừng một lần nữa lại làm ra cuộc thảm sát. Với tất cả danh dự của một con người, tôi cầu xin ông. Cũng như tôi, như tất cả, rồi các ông cũng sẽ phải ra đi, hãy để lại chút ít phúc đức cho con cháu các ông. Và hãy cầu mong khi xuôi tay, chúng ta đều có thể bình an nhắm mắt.
(phần hai còn tiếp)
*
*
Bùi Quang Vơm
Posted by adminbasam on 11/03/2016
5- Có mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không?
Mặc dù đổi mới được cho là bắt đầu từ Đại hội VI năm 1986, nhưng thuật ngữ kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mãi tới đại hội IX năm 2001 mới xuất hiện, trong văn kiện của đảng. Suốt thời gian dài 15 năm là sự vật vã, giằng co về nhận thức. Thị trường bị hiểu là đặc trưng của riêng chủ nghĩa tư bản. Chấp nhận thị trường là chấp nhận tư bản chủ nghĩa, phản bội lý tưởng xã hội chủ nghĩa, phản bội chủ nghĩa Mác Lênin. Vì vậy, Đại hội VIII tháng 6 năm 1996 xác định:
– Kinh tế thị trường không phải là cái riêng có của chủ nghĩa tư bản mà là thành tựu phát triển chung cuủa nhân loại.
– Kinh tế thị trường tồn tại khách quan trong thời kỳ qúa độ lên chủ nghĩa xã hội.
– Cần thiết sử dụng kinh tế thị trường để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Đây là bước đệm về nhận thức để đến Đại hội IX năm 2001, kinh tế thị trường chính thức được thừa nhận là một chỉnh thể kinh tế, nhưng được ghép thêm cái đuôi Định hướng xã hội chủ nghĩa để khẳng định đảng cộng sản Việt Nam không phản bội chủ nghĩa Mác Lênin, không đi chệch sang con đường phát triển tư bản chủ nghĩa.
Báo cáo chính trị đại hội IX ghi rõ:
“Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo.kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc. Chế độ sở hữu công cộng (công hữu) về tư liệu sản xuất chủ yếu từng bước được xác lập và sẽ chiếm ưu thế tuyệt đối khi chủ nghĩa xã hội được xây dựng xong về cơ bản”.”
15 năm sau, Báo cáo chínhn trị đại hội XII, tháng 01 năm 2016 vẫn xác định “con  đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn của Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử.
Thống nhất nhận thức nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”; có quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp vối trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế”.
Tại sao như vậy, tại sao suốt 30 năm, đảng cộng sản Việt Nam vẫn không hiểu được, hay cố tình không hiểu bản chất không tưởng của chủ nghĩa xã hội và hai khái niệm Thị trường và Chủ nghĩa xã hội là hai khái niệm không thể trộn lẫn. Để hiểu điều này, cần nhắc lại một chút.
– Kinh tế xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung. Nguyên tắc cơ bản của nền kinh tế kế hoạch hóa là nguyên tắc cân đối giữa nguồn lực và các mục tiêu xã hội. Các mục tiêu xã hội được xác định một cách chủ quan và duy ý chí cho từng giai đoạn, thường là 5 năm, và được thể hiện trên các văn kiện của Đại hội đảng, như bác cáo chính trị và nghị quyết Đại hội. Căn cứ trên các mục tiêu được chi tiết hóa bằng những chỉ tiêu kinh tế xã hội, Chính phủ lập ra kế hoạch thực hiện, dựa trên tài nguyên quốc gia, các nguồn lực xã hội và năng lực sản xuất của nền kinh tế mà nhà nước là chủ sở hữu duy nhất. Sản phẩm tạo ra từ nền kinh tế được phân phối hoàn toàn cho nhu cầu xã hội, vì vậy không có tính hàng hóa. Về lý thuyết, đây là sự cân đối khép kín từ sản xuất tới tiêu thụ. Không có thị trường, hệ thống giá chỉ có tính quy ước, do chính phủ tự đặt ra. Tất cả chỉ là thực hiện các chỉ tiêu đã được kế hoạch hóa từ trước.
– Kinh tế thị trường là nền kinh tế trong đó mọi hoạt động kinh tế đều phải tuân thủ các quy tắc phát sinh từ các quy luật của thị trường, đó là luật cung-cầu, luật cạnh tranh và quy luật lợi nhuận. Điều kiện để một nền kinh tế được gọi là kinh tế thị trường cần có:
 1- kinh tế hàng hóa, trao đổi hàng hóa là nhu cầu thiết yếu, là một cơ chế không thể thiếu.
 2- sở hữu cá thể, là quyền tối cao của chủ sở hữu trong quan hệ trao đổi.
 3- tự do cá nhân, là quyền tự chủ tối cao và tuyệt đối của mọi tác nhân kinh tế trong các quyết định kinh tế.
 Rõ ràng hai mô hình trên là hai mô hình đối kháng, loại bỏ lẫn nhau, nhưng sau 30 năm , cả hệ thống Hội đồng lý luận TW cộng với bộ máy Tuyên giáo, có đến hàng trăm giáo sư tiến sĩ, vẫn không thể đưa ra được lời giải thích. Trả lời thắc mắc của các cán bộ lãnh đạo tỉnh, tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, ngày 3/5/2014, Bộ trưởng bộ Kế hoạch đầu tư Bùi Quang Vinh nói:“Chúng ta cứ nghiên cứu mô hình đó, mà mãi có tìm ra đâu. Làm gì có cái thứ đó mà đi tìm”.
Như vậy, ở đây có điều gì bí ẩn. Một điều gì đó đang được cố che giấu. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nếu định hướng có nghĩa là hướng tới, thì chúng ta sẽ hỏi, kinh tế thị trường hướng tới xã hội chủ nghĩa là thế nào. Nếu ở đây, hai chữ “định hướng” cuả đảng hàm ý đảng sẽ biến Thị trường dần dần thành Xã hội chủ nghĩa. Có nghĩa những đặc trưng của kinh tế thị trường, như sở hữu tư nhân sẽ dần dần trở thành sở hữu nhà nước, kinh tế tư nhân, tư bản sẽ bị thủ tiêu. Như vậy, chủ trương kinh tế đa thành phần, đa sở hữu chỉ là một cái bẫy, là sự lừa đảo, chỉ là việc “nuôi cho béo”, nhằm rút kiệt sức dân cho mục tiêu xây dựng nền móng của chủ nghĩa xã hội trong giai đoạn quá độ. Đảng không nói sau thời kỳ quá độ này, đảng sẽ quay lại thể chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp như thế nào. Đây còn là một bí mật. Vì nếu xảy ra như cái kịch bản tưởng tượng ở mục 4 trên kia, thì dù không biết có máu chảy hay không, chắc chắn là có nhiều nước mắt. 
Có khả năng thứ hai, chữ “định hướng” không có nghĩa là “quá độ”, tức là không có chuyện quay về con đường xã hội chủ nghĩa. Đảng cộng sản thừa nhận nền kinh tế thị trường như một định chế của chế độ, một nền kinh tế thị trường đích thực và đầy đủ như mọi nền kinh tế thị trường trên thế giới. Có nghĩa là đảng cộng sản Việt Nam thừa nhận sở hữu cá thể và tự do cá nhân một lần cho suốt đời. Chữ “định hướng” hàm ý điều chỉnh khuyết tật của nền kinh tế thị trường tự do thuần tuý để hướng tới các mục tiêu nhân đạo của xã hội. Như vậy, Thị trường sẽ là nơi làm ra của cải, vì đúng với sở trường là năng động và hiệu quả, dưới tác động của cạnh tranh và lợi nhuận, Thị trường sẽ là một đảm bảo tốt nhất cho việc tạo ra lượng của cải nhiều nhất. Phúc lợi sẽ được phân phối và tái phân phối cho các mục tiêu nhân đạo của xã hội, tạo ra sự cân đối hài hoà cho toàn bộ xã hội trên nguyên tắc công bằng, đồng thuận và đảm bảo tăng trưởng. Ở giữa Thị trường và Xã hội là Nhà nước.
Đây là mô hình mà bộ trưởng Bùi Quang Vinh đang tìm. Nhưng bộ chính trị đảng cộng sản Việt Nam không biết có thực lòng muốn tìm không, vì nó đang tồn tại không ở đâu xa, trong khi cả bộ máy lý lận đảng tìm suốt 30 năm không thấy. Đó là một nghịch lý, khiến người ta tự hỏi, hoặc trí tuệ đảng có vấn đề, hoặc đảng đang cố tình lừa dối dân chúng.
Mô hình này là mô hình gọi là “Thị trường xã hội” là thể chế kinh tế phổ biến ở gần như tất cả các nước phát triển nhất ở châu Âu lục địa già. Đặc biệt ở các nước bắc Âu, như Thuỵ điển, Na uy, Phần Lan, Đan mạch, Đức, Bỉ Luxembourg, Pháp, Anh. Ở những nước này, quyền con người và tự do cá nhân là nguồn gốc và cũng là mục đích của Luật pháp và của mọi chính sách kinh tế xã hội. Có nghĩa là Thị trường được bảo hộ để phát triển tối ưu, và xã hội được thụ hưởng xứng đáng nhất các hiệu quả của tăng trưởng kinh tế.
Có gì là mâu thuẫn khi đảng cộng sản vẫn giữ nguyên lý tưởng xã hội chủ nghĩa nhân đạo của mình mà không cần phải là Mác xít Lêninít. Và có cần phải là cộng sản để thỏa mãn ước nguyện vừa giàu có vừa công bằng dân chủ văn minh không? Rõ ràng, quyền con người và tự do cá nhân không hề cản trở ca mục tiêu xã hội nhân đạo. Chỉ còn điều duy nhất cần, là đảng tự thay đổi.
6- Tự do kinh tế tất yếu tự do chính trị
– Tự do kinh tế là tự do kiếm sống, tự do mưu sinh là một biểu hiện của tự do cá nhân, là quyền của Tạo hóa, bất khả tước đọat. Trong tự do cá nhân có tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội họp, tự do nghiệp đoàn, tư do tôn giáo tín ngưỡng, tự do tư tưởng.
– Chính trị là tập hợp, là hiệp hội hay tổ chức của những cá thể cùng có chung, cùng chia sẻ hay cùng tôn thờ một tư tưởng, một tín ngưỡng. Vì vậy, bản chất của xã hội tự do là Đa nguyên, nó chỉ bị biến dạng, bóp méo khi bị tước đoạt một cách bất chính bởi một lực lượng chính trị nào đấy. Sự tước đoạt đó chỉ tồn tại khi duy trì được áp lực cưỡng chế thông qua các công cụ quyền lực. Khi dỡ bỏ các áp lực nhân tạo đó, xã hội lập tức trở về trạng thái vĩnh cửu, tức là quay về bản chất Đa Nguyên của nó.
– Thị trường là sở hữu tư nhân cộng với tự do cá nhân, sở hữu trí tuệ trong kinh tế tri thức là một loại tư liệu sản xuất bất khả công hữu hóa. Sở hữu cá thể các sản phẩm trí tuệ chính là tự do tư tưởng. Tự do tư tưởng cộng với tự do nghiệp đoàn là tự do chính trị.
– Kinh tế thị trường có quy luật tự do cạnh tranh. Luật tự do cạnh tranh quy định quyền tự do nghiệp đoàn của các tác nhân kinh tế để bảo vệ quyền lợi của mình. Tự do nghiệp đoàn là tự do lập hội. Hội là tập hợp hay tổ chức của các cá thể có cùng hoặc chia sẻ một loại lợi ích, có thể là lợi ích vật chất và có thể là lợi ích phi vật chất, lợi ích tinh thần. Đó chính là tự do chính trị.
Vì vậy khi thừa nhận tự do kinh tế, đương nhiên là thừa nhận tự do cá nhân. Thừa nhận tự do cá nhân là thừa nhận tự do tín ngưỡng, tự do tư tưởng. Tự do tư tưởng cộng với tự do nghiệp đoàn là tự do đảng phái. Một xã hội đa đảng phái là xã hội đa nguyên chính trị. Đa nguyên chính trị thì không có độc quyền chính trị, nghĩa là dân chủ. Như vậy tất cả chỉ là một, một cái gốc. Cái gốc đó là tự do cá nhân.” Con người sinh ra tự do, Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được”. 
Các Hiệp định tự do thương mại FTA Việt Nam ký với các nước và Liên Hịệp châu Âu, TPP với Mỹ và các nước Thái Bìng Dương, là các Hiệp định được soạn thảo trên căn cứ lợi ích cá nhân và quyền con người. Cam kết với các Hiệp định này, đảng cộng sản dường như đã chấp nhận một lộ trình cải tổ. Đây có thể là một cải cách tiệm tiến hoà bình. Một cách mượn các Hiệp định để hợp thức hóa dần các thay đổi từ bên trong, kể cả những thay đổi về chất mà không bị cản trở bởi lý luận học thuyết.
7- Nhà nước và vai trò của nhà nước.
Trong mô hình cơ cấu xã hội hiện đại bao gồm Thị trường – Nhà nước – Xã hội. Nhà nước là một định chế Trung gian, gạch nối giữa Thị trường và Xã hội.
Như chúng ta đã thấy trong phần trước, chức năng nguyên thuỷ của Nhà nước là Trọng tài, hay Quan toà. Cho dù xã hội đã qua hàng nghìn năm từ khi trở thành một bộ máy công quyền có tính chuyên nghiệp, Nhà nước hiện đại không thể chối bỏ chức năng cơ bản là trung gian phân giải, điều hoà các xung đột giữa các tác nhân khác nhau trong xã hội. Với chức năng hòa giải, Nhà nước phải không chịu ràng buộc hoặc gắn kết lợi ích với bất cứ bên nào trong các bên xung đột. Nhà nước phải là cơ quan không tham gia trực tiếp vào các hoạt động vì vụ lợi, kể cả lợi ích đó là lợi ích công. 
Trong một xã hội công nghiệp, các xung đột thông thường là những xung đột giữa một bên là doanh nghiệp và một bên là lao động làm thuê. Những xung đột này, nếu không được giải quyết thỏa đáng, sẽ gây tổn thương cho bên bị thiệt hại, tác động tiêu cực tới hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp, giảm lợi nhuận, giảm khả năng đóng góp của doanh nghiệp, ảnh hưởng trực tiếp tới ngân sách nhà nước, từ đó tác động tiêu cực tới các giải pháp phúc lợi xã hội. Với bản tính vị kỷ, giới chủ doanh nghiệp thông thường có xu hướng giữ lại cho mình quá phần lợi ích thích đáng. Muốn để có thể giải quyết được các xung đột này, Nhà nước phải thật sự là Trung tính, khách quan, không có lợi ích gắn với bên nào, đảm bảo uy lực đối với cả hai phía. Nhà nước không trực tiếp làm kinh tế. Các lĩnh vực không có tư nhân tham gia kinh doanh, do không có khả năng sinh lợi, nhà nước mời thầu với lãi suất định mức tính trước, coi như một khoản thuế âm. 
Trong xã hội dân chủ hiện đại, Nhà nước và Chính phủ là hai bộ phận tách rời.  Chính phủ luôn có khả năng luân chuyển theo định kỳ bầu cử, thường mang tíng đảng. Trong khi Nhà nước là công cụ chuyên môn thuần tuý, sẵn sàng phục vụ bất cứ chính phủ nào, vì vậy, Nhà nước là bộ máy phi chính trị và trung lập, có kết cấu tinh gọn và chuyên nghiệp nhất. 
Mọi chính sách sẽ được thể hiện bằng pháp luật. Với mỗi chính sách, thay vì ra Nghị định và Thông tư chỉ có giá trị quy phạm nội bộ và hành chính, Chính phủ ra một luật hay bộ luật tương ứng. Quy trình phê chuẩn luật vẫn theo nguyên tắc Quốc hội là cơ quan lập pháp cao nhấtb quyết định bằng bỏ phiếu kín hay biểu quyết công khai. Nhưng sau khi ban hành luật thì không phải chính phủ là người duy nhất giám sát mà là tư pháp. Vi phạm pháp luật sẽ bị truy tố bất kể người đó là ai. Vì một khi đã thành luật thì cái được bảo vệ là lợi ích bao trùm của cộng đồng là lợi ích cao nhất, lợi ích tối thượng. Ngay cả vai trò trung tính của Nhà nước cũng được quy định bằng Luật Nhà nước. Đó là nhà nước Pháp quyền.
Đảng phái hay lực lượng chính trị thắng cử, có quyền lập ra chính phủ, thường là đảng chiếm được số ghế lớn nhất trong quốc hội hay cơ quan lập pháp. Đấy chính là đa số phiếu đảm bảo cho việc phê chuẩn các bộ luật thể hiện đường lối và chính sách của đảng, theo chương trình đã dẫn đảng đến thắng lợi của trong chiến dịch tranh cử.
Trong xã hội dân chủ hiện đại, cơ chế điều chỉnh sự bóc lột thô bạo của chủ nghĩa lợi nhuận thuần tuý không phải là Nhà nước. Nhà nước không bảo vệ lợi ích của các tác nhân riêng rẽ trong xã hội. Chức năng đó là của các tổ chức tình nguyện dân sự hay là xã hội dân sự. Tổ chức dân sự là các tổ chức tình nguyện không vụ lợi, hoạt động có mục đích bảo vệ quyền lợi của hội viên. Có các tổ chức đại diện những người lao động làm thuê, nhưng cũng có các tổ chức dân sự của giới chủ doanh nghiệp. Xung đột giữa các hội đại diện sẽ được giải quyết thông qua thương lượng dưới sự giám sát và chứng kiến của nhà nước. Giải tỏa các xung đột trên lợi ích cộng đồng, nghĩa là không bên nào bị thiệt, hướng tới lợi ích chung là tăng trưởng. Trong tăng trưởng có lợi nhuận của nhà doanh nghiệp, có tiền lương của người lao động, có thuế thu nhập và thuế doanh nghiệp, thuế giá trị gia tăng… giúp tăng ngân sách, từ đó tăng khả năng phân phối phúc lợi xã hội. Nhà nước sẽ là trung gian tạo mọi điều kiện cho tăng trưởng, lấy tăng trưởng làm mục đích và quy tắc cho mọi hoà gỉải. Tăng trưởng bao gồm lợi nhuận của doanh nghiệp vừa để tăng tích luỹ năng lực mở rộng sản xuất của doanh nghiệp, vừa thỏa mãn nhu cầu lợi nhuận, khuyến khích đầu tư của chủ doanh nghiệp. Trong tăng trưởng có tăng lương, tăng thu nhập thực tế của người lao động, trên cơ sở tỷ lệ ăn chia hợp lý theo nguyên tắc tạo ra tăng trưởng. Trong tăng trưởng có tăng trưởng năng lực điều phối phúc lợi xã hội do tăng nguồn thu ngân sách dựa trên của cải tạo ra từ tăng trưởng kinh tế. Tăng trưởng phúc lợi là tăng trưởng an sinh xã hội, là tăng trưởng văn hóa và văn minh xã hội, tăng sức mua , tăng khả năng tiêu thụ từ chính bản thân nền kinh tế, đảm bảo tăng trưởng bền vững.  Đây chính là vai trò kiến tạo tăng trưởng của Nhà nước.
Phản ứng của các tổ chức dân sự từ cả hai phía lao động và chủ doanh nghiệp, phản ánh chất lượng các bộ luật hay luật do chính phủ ban hành. Các luật hay bộ luật có tác haị hay có vi phạm sẽ bị đưa ra toà mà người bị đơn là Chính phủ.
Như vậy, khả năng khắc phục những khuyết tật của thị trường thuần tuý gồm xã hội dân sự và Nhà nước trung tính, hay nhà nước kiến tạo là hai trụ cột chính của một xã hội mang tính chất xã hội chủ nghĩa.
Để có một xã hội có tính xã hội chủ nghĩa nhất, trong thời điểm hiện nay là mô hình kinh tế Thị trường xã hội châu Âu. Công thức của nó là Thị trường tự do + Nhà nước Trung tính+ Xã hội dân sự.
Không phải cứ mang tên cộng sản là có được công bằng và thịng vượng. Nếu để đạt được giàu có và công bằng thì cách gọi tên chế độ là gì có quan trọng lắm không. Ở Cộng hoà Liên bang Đức, trong tên nước không có gì là cộng sản. các đảng luân phiên nhau cầm quyền từ hơn 70 năm nay không có đảng nào là cộng sản, nhưng đây là nơi có chế độ xã hội nhân đạo và văn minh nhất. Con người được hưởng thụ hiệu quả tăng trưởng tốt nhất. Đảng cộng sản Việt Nam cũng sẽ thay đổi, vì không thể không thay đổi, vì thay đổi là tất yếu. 
8- Việt Nam không thể không thay đổi
Đã đến cái thời điểm mà đề tiếp tục tồn tại Việt Nam không thể không thay đổi.
* Dân chủ để bảo vệ chủ quyền
– Dân chủ hóa Việt nam, dựa vào cơ chế Trưng cầu dân ý để chống laị và làm thất bại âm mưu bành trướng của nhà cầm quyền cộng sản Trung Hoa.
– Dùng dân chủ Việt Nam làm động lực dân chủ hóa Trung Quốc như một giải phảp lâu bền và chắc chắn nhất để bảo vệ chủ quyền.
*Nhu cầu thay đổi hướng tới dân chủ là thực thế không thể đảo ngược
– Thời kỳ đói khát đã qua. 30 năm cởi trói, người dân Việt đói khát quá lâu đã lao vào cuộc tìm kiếm giàu có đã chỉ là những cuộc giành giật giữa dân chúng với nhau đã lắng xuống. Nhu cầu kiếm sống và làm giàu đã trở nên không còn gay gắt, một mặt, đời sống đã trở nên dễ chịu với cái đói đã thật sự lùi xa với gần 90% dân số, một mặt cơ hội giành giật của trời, do chuyển đổi từ một xã hội mà mọi tài sản, mọi của cải không có chủ sở hữu thực sự cũng đã cạn và đang dần dần có chủ, xã hội dân sự Việt Nam đang hồi tỉnh. Với bản năng nhậy cảm , con người Việt nam sẽ ý thức được nhanh chóng nguyên nhân của mọi nguyên nhân là chế độ. Nhu cầu phải có một Việt Nam tự do, dân chủ như các nước xung quanh. Việt Nam phải có tốc độ phát triển và xã hội phúc lợi tiên tiến vượt hơn hẳn các nước khác, đã là một đòi hỏi có thật và bức thiết.
– Thời đại thông tin  với một cộng đồng công dân tới 40 triệu người, một khi chín muồi các điều kiện, sẽ là một cuộc cách mạng không gì ngăn cản nổi.
– Một Xã hội dân sự Việt Nam đích thực đã hình thành, đang phát triển rất nhanh về số lượng chất lượng, đang trở thành một làn sóng không thể trấn áp được bằng bạo lực.
– Giới trí thức tinh hoa của xã hội Việt Nam đã có một bước nhảy lớn và quyết định trong nhận thức vai trò của mình và đang thoát dần sự lệ thuộc ý thức hệ với chế độ sẽ là một động lực có ý nghĩa quyết định.
– Nhu cầu hoà hợp hoà gỉải dân tộc khỏi những hận thù quá khứ, giải phóng con đường quy tụ dân tộc đang trở thành một thúc ép không thể từ chối và lẩn tránh.
Chỉ có thể thay đổi hẳn về chất, thay đổi một cách hoàn toàn và triệt để, đảng cộng sản mới đáp ứng được các đòi hỏi thúc bách đó, và mới tránh được bị đào thải bằng một giải pháp bạo lực đại chúng.
Paris 11/03/2016


No comments: