Gia
Minh, PGĐ Ban Việt ngữ
2016-03-22
2016-03-22
Trước tình hình dòng sông Mekong bị khai thác một
cách tùy tiện gây hại cho dân cư sống hai ven bờ; lâu nay nhiều biện pháp được
đưa ra để khắc phục tình trạng luôn được cảnh báo như thế.
Trong chuyên mục Khoa học - Môi trường hôm nay, Gia
Minh hỏi chuyện tiến sĩ Dương Văn Ni, trường Đại học Cần Thơ, về những thông
tin liên quan những biện pháp đó.
Cần một sự phối hợp
Gia
Minh: Có những biện pháp lâu dài được đề cập đến tại
Việt Nam nhưng đã được triển khai thế nào?
Tiến
sĩ Dương Văn Ni: Những giải pháp lâu dài nhưng trang bị nhận thức,
hiểu biết cho người dân về vấn đề biến đổi khí hậu, môi trường thay đổi bất cập
như vậy; thì vấn đề này tùy thuộc vào từng địa phương. Còn nếu nói trong khu vực
thì còn khác nhau giữa các quốc gia nữa.
Nói về các địa phương thì có địa phương phổ biến vấn
đề đó cho dân rất sớm, nhưng có những địa phương người dân chẳng hề biết gì về
vấn đề đó cả. Cần có một chương trình đồng bộ hơn.
Ba năm trước đây thì trường Đại học Cần Thơ có làm một
chương trình giúp cho cộng đồng tự do đạc sự thay đổi trong môi trường chung
quanh họ, và họ tự đưa ra những biện pháp khắc phục dưới sự tư vấn của các nhà
khoa học. Chúng tôi sử dụng hệ thống điện thọai có sẵn và tư vấn qua tin nhắn
chẳng hạn. Chương trình này phát huy tác dụng rất tốt, người dân mình sau ba
năm tiếp thu rất nhanh vì người ta có kinh nghiệm sống trong vùng này hằng mấy
trăm năm rồi. Gần đây do những thay đổi trong môi trường phức tạp quá, không
theo qui luật nào hết nên hệ thống kinh nghiệm của người ta bị mai một; tuy
nhiên khi mình khơi dậy và giúp người ta phương pháp, cách làm thì họ tiếp thu
rất nhanh.
Tôi cho rằng điều đó nằm trong tầm tay của nhiều địa
phương vì với phương tiện hiện đại bây giờ như điện thọai di động… thì theo tôi
sẽ giúp người ta rất nhanh mà không phải tốn kém gì nhiều.
Về biện pháp di dân thì nhiều địa phương không quan
tâm điều này. Nói riêng Việt Nam, đặc biệt trong năm nay tuyết rơi ở miền bắc
khiến ảnh hưởng đến nông nghiệp, trâu bò chết rất nhiều. Ở niền trung thì xảy
ra nhiều bão nên nhiều người nghĩ rằng đồng bằng sông Cửu Long là nơi an toàn lắm.
Thế nên người ta đến mua đất… khiến mật độ dân số đồng bằng sông Cửu Long tăng
lên chóng mặt.
Đó là điều không đúng vì đồng bằng sông Cửu Long sẽ
phải đối phó với một vấn đề trầm trọng hơn nhiều vùng khác đó là vấn đề nguồn
nước. Năm nay đã thiếu nước ngọt sinh hoạt cho vùng duyên hải. Sắp đến mùa mưa
sẽ xảy ra vấn đề lũ lụt rất bất cập. Do đó một chiến lược lâu dài dãn dân cho
vùng này không thể làm ngày một ngày hai được. Điều trông cậy đầu tiên là hệ thống
đào tạo làm sao có nguồn nhân lực có đủ khả năng để khi họ di cư đến chỗ khác
thì có thể thích nghi được với môi trường nơi đó. Cứ còn nếu di cư cơ học thì
không giải quyết được vấn đề gì hết. Di cư với nguồn nhân lực có thể thích nghi
với môi trường mới thì mới có ý nghĩa.
Gia
Minh: Không chỉ riêng từng nước mà trong khu vực các
nước cũng gặp tình trạng đó như Thái Lan, vậy ông có biết các nước trong khu vực
có sự phối hợp nào không?
Tiến
sĩ Dương Văn Ni: Theo tôi biết lãnh đạo cấp cao các nước có họp vào
năm ngoái tại thành phố Hồ Chí Minh. Họ cũng bàn bạc việc chia sẽ lợi ích nguồn
nước sông Mekong. Đó là thỏa thuận ở cấp rất cao, còn trên thực tế chúng ta thấy
chưa có sự phối hợp nhuần nhuyễn giữa các quốc gia về vấn đề này.
Rồi thậm chí trong một vùng thì tỉnh đầu nguồn và tỉnh
cuối nguồn cũng chưa có sự phối hợp ‘ăn ý’ với nhau về vấn đề này. Kể cả trong
cùng một tỉnh: huyện này và huyện khác cũng có mâu thuẫn về việc sử dụng nguồn
nước. Ví dụ một tỉnh có thế mạnh về nuôi trồng thủy sản thì thích có nước mặn
thâm nhập sớm để có thời gian nuôi trồng thủy sản tốt hơn; còn ngược lại tỉnh kế
bên có thế mạnh về trồng lúa chẳng hạn thì lại bị ảnh hưởng. Do đó vấn đề mặn -
ngọt là một vấn đề phức tạp không chỉ quản lý trên cơ sở đơn thuần về mặt tài
nguyên môi trường mà phải tính luôn yếu tố kinh về và xã hội vào; đặc biệt là yếu
tố kinh tế. Bởi vì hiện nay người dân đang làm chủ trên mảnh đất của người ta ở
một chừng mực nào đó cho nên không thể cấm người ta nuôi con nào hoặc trồng cây
gì mà phải có yếu tố thị trường can thiệp vào; đó là một yếu tố tổng hợp.
Vấn đề xã hội cũng vậy, ngưòi dân có quyền di cư đến
chỗ nào mua đất, cất nhà ở là quyền của họ. Nhưng phải thông báo cho họ những
nơi không phải an toàn tuyệt đối mà có những rủi ro thế nào. Nếu người ta ý thức
được như thế thì việc định cư là chọn lựa của họ.
Những khó khăn
Gia
Minh: Có những dự án và các nước cũng đến hỗ trợ cho
khu vực, thế nhưng nếu triển khai mà không có sự phối hợp thì sẽ bị hạn chế.
Ông thấy nguời ta có theo dõi việc triển khai dự án và tính hiệu quả của chúng?
Tiến
sĩ Dương Văn Ni: Trước đây vào năm 1995 người ta thành lập tổ chức gọi
là Ủy hội Sông Mekong Quốc tế. Kỳ vọng của mọi ngưòi lúc đó là ủy hội đứng ra
làm công tác điều phối để giúp cho các lọai dự án, họat động trong khu vực,
giúp phát huy tác dụng, tránh trùng lắp, hao tốn nguồn lực, hao tốn tiền bạc. Đặc
biệt nó tư vấn cho các cấp lãnh đạo, các chính phủ trong khu vực; nhưng rồi
chúng ta thấy tổ chức đó làm việc có hệ thống với các quốc gia hạ lưu Sông Mê
kong là Thái Lan, Lào, Kampuchia và Việt Nam; Myanmar và Trung Quốc không tham
gia, họ chỉ gửi quan sát viên đến thôi. Đó là một ví dụ phản ánh tổ chức ủy hội
sông Mekong không phát huy được vai trò điều phối của họ.
Như vậy, những dự án, những nguồn tài trợ mà không
có nguời điều phối thì bị trùng lắp, dẫm chân lẫn nhau; đôi khi chồng chéo đưa
đến những kết quả trái ngược nhau. Đó là vấn đề cụ thể của lưu vực sông Mekong
hiện nay.
Gia
Minh: Còn Sáng kiến Hạ lưu Sông Mê Kong do Mỹ triển
khai thì làm được đến đâu và có kết quả gì không?
Tiến
sĩ Dương Văn Ni: Sáng kiến Hạ lưu Sông Mekong (Lower Mekong
Initiative) được tuyên bố tại Phukhet cách đây mấy năm. Sáng kiến đó cũng mang
một mục tiêu khá tham vọng là điều phối và tập hợp rất nhiều dự án trong khu vực
lại, chia sẽ thông tin với nhau. Nhưng hiệu quả thực tế trên thực địa chưa nhiều,
rất thấp. Gần đây chúng tôi có đề xuất với chính phủ Mỹ nên xốc lại ‘sáng kiến’
này, và làm vai trò điều phối cho khu vực để nhiều quốc gia tham gia, chia sẻ
thông tin; như thế các quốc gia trong khu vực sẽ được hưởng thụ hiệu quả tốt
hơn.
Gia
Minh: Là người tham gia nghiên cứu tại khu vực đồng bằng
sông Cửu Long thì ông thấy trở ngại lớn nhất cho công tác là gì?
Tiến
sĩ Dương Văn Ni: Trở ngại lớn nhất là không có sự phối hợp chặt chẽ
giữa các chương trình, các dự án lớn nên thiếu thông tin, đặc biệt là thiếu sự
chia sẻ những dữ liệu khoa học do đó đôi khi làm chồng chéo, lặp đi lặp lại khiếu
tốn thời gian và tiền của.
Thứ hai cơ chế chuyển tải thông tin hay những kết quả
nghiên cứu một cách chính thống lên các cấp lãnh đạo cao hơn thì chưa sử dụng
cơ chế đó một cách minh bạch, rõ ràng để mọi người biết khi có được một thông
tin khoa học thì chuyển tải lên các cấp lãnh đạo thế nào. Vẫn chưa có cơ chế
minh bạch, rõ ràng về điều đó.
Khó khăn thứ ba là các cộng đồng địa phương không có
được thông tin. Ví dụ như truớc đây khi Lào xúc tiến xây dựng đậy Xayaburi và gần
đây là đập Don Sahong thì nhiều cộng đồng dân cư sống dọc sông Mekong nhất là ở
đồng bằng sông Cửu Long biết và hiểu được điều đó. Khi người dân không có thông
tin về những điều đó thì họ trở nên dửng dưng kể cả đối với những kết quả
nghiên cứu rất tốt; nhưng rồi họ nói chưa có gì trầm trọng đâu nên họ không
quan tâm.
Gia
Minh: Cám ơn Tiến sĩ Dương Văn Ni.
No comments:
Post a Comment