Bầu cử kiểu gì khi tệ ngay từ luật
(Phần 1/2)
21/3/2016
Càng gần cuối nhiệm kỳ, Chủ tịch
Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng càng phát ngôn nhiều câu ấn tượng, gần hơn với sự thật.
Chẳng hạn, trong phiên làm việc của Ủy ban Thường vụ Quốc hội vào ngày
23/2/2016, Chủ tịch Quốc hội đã thẳng thắn thừa nhận rằng:
Hàng chục triệu nạn nhân bỗng dịu
lòng, bởi lần đầu tiên nỗi cực khổ của họ được một vị trong "tứ trụ
triều đình" công khai thừa nhận. Nhưng rồi chững lại, khi nhận ra
Chủ tịch Quốc hội mới chỉ hiên ngang rảo bước trong cái vành đai ngoài cùng,
nơi trú ngụ của phần nhỏ sự thật mang tính hệ quả, mà vẫn còn ngoảnh đi, tránh
nhìn vào khu vực trung tâm, chốn chất chứa những sự thật cốt lõi mang tính tiền
đề.
Cái thủ tục hành dân ấy từ đâu
mà ra? Hiển nhiên, chẳng phải từ trên trời rơi xuống, cũng chẳng phải từ dưới địa
ngục chui lên, và chắc chắn không phải do thế lực thù địch cài cắm, để phá hoại
chế độ xã hội chủ nghĩa tự xưng là ưu việt. Rõ ràng, thủ tục hành chính chỉ là công cụ được sử dụng để
hành dân. Thế còn thủ phạm tạo ra và sử dụng công cụ hành dân là những ai?
Nếu Chủ tịch Quốc hội chỉ tay về
phía cơ quan hành pháp, thì xin hỏi tiếp: Cơ quan hành pháp từ đâu mà ra? Một
trong những nhiệm vụ của Quốc hội, được hiến định tại Điều 70 Hiến pháp
2013, là "bầu, miễn
nhiệm, bãi nhiệm… Thủ tướng Chính phủ" và "phê chuẩn
đề nghị bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và
thành viên khác của Chính phủ". Vậy thì tại sao Quốc hội lại bầu, lại
phê chuẩn cái đội ngũ đẻ ra thủ tục hành dân? Và nếu nhận ra đã bầu nhầm, thì tại
sao lại không bãi nhiệm? Nếu vì sợ "vỡ bình hoa" mà
đành tránh "đánh con chuột" (theo cách nói của Tổng
Bí thư ĐCSVN Nguyễn Phú Trọng), thì Quốc hội vẫn còn có một nhiệm vụ hiến định khác, là "bãi
bỏ văn bản của... Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ". Biết chúng "cay
nghiệt, độc ác lắm", tại sao Quốc hội không ra tay bãi bỏ? Đứng
đầu "cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà
nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam" (Điều 69 Hiến pháp
2013), mà gần về hưu mới thừa nhận
vài cái "đối với dân giờ cay nghiệt, độc ác lắm", thì đã
quá buồn. Nhận ra rồi, mà làm như vô can, vẫn không chịu ra tay bãi bỏ theo thẩm
quyền hiến định, thì còn đáng buồn hơn.
Cũng chẳng cẩn phải tìm kiếm
đâu xa. Bản thân Quốc hội cũng sinh ra rất nhiều điều khoản Hiến pháp và pháp
luật, mà đối với dân thì cũng thuộc dạng "cay nghiệt, độc ác lắm".
Chúng là tiền đề pháp lý cho các thủ tục "hành dân
là chính". Một trong những luật mới nhất, chứa đựng nhiều
điều khoản tệ hại, là Luật Bầu cử đại biểu
Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân - Số
85/2015/QH13, được Quốc hội khóa XIII thông qua ngày 25/6/2015 (sau đây viết tắt là Luật BCĐBQH 2015).
Nó thay thế cho Luật Bầu cử đại biểu
Quốc hội (không số) được Quốc hội khóa IX thông qua ngày 15/4/1997 (sau đây viết tắt là Luật BCĐBQH 1997).
Luật BCĐBQH 2015 được áp dụng để
tổ chức kỳ bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIV, đã chính thức bắt đầu vào ngày
25/11/2015, khi Quốc hội khóa XIII ra Nghị quyết số
105/2015/QH13. Nghị quyết ấy xác định ngày bầu cử là 22/5/2016 và công bố danh sách Hội
đồng bầu cử quốc gia, do ông Nguyễn Sinh Hùng làm Chủ tịch. Rõ khổ, trước lúc về
hưu lại còn phải đứng đầu cái hội đồng "không cần phải bầu",
bởi "làm gì có... độc lập", như Chủ tịch Quốc hội Nguyễn
Sinh Hùng đã khẳng định trong cuộc họp của Ủy ban Thường Vụ Quốc hội (thảo luận
về dự thảo Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân) vào
sáng 25/2/2015:
Đương nhiên, Luật BCĐBQH 2015 ảnh
hưởng trực tiếp đến chất lượng của kỳ bầu cử và cả chất lượng của đội ngũ đại
biểu Quốc hội khóa XIV. Tại Hội nghị triển khai Quy chế phối hợp công tác năm
2016 giữa Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam vào chiều ngày 2/3/2016, Chủ tịch Quốc Hội Nguyễn Sinh Hùng đã
nói:
Liệu cuộc bầu cử đại biểu Quốc
hội này có thể "thật sự dân chủ, công bằng, thực sự đúng pháp luật" hay
không? Đã từng có một cuộc bầu cử tốt đẹp như thế diễn ra dưới chế độ xã hội chủ
nghĩa trên đất nước Việt Nam hay chưa? Vì sao? Và công dân nên ứng xử thế nào
cho phải?
Bài viết này trình bày một số
ý, góp phần để chúng ta cùng nhau tìm lời giải đáp cho mấy câu hỏi nêu trên. Nó
được chia thành bốn phần. Phần 1, với tiêu đề "Thăng trầm hiến định",
điểm lại quá trình biến đổi của các quy định về bầu cử đại biểu Quốc hội, được
hiến định trong năm bản Hiến pháp của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng hòa Xã
hội chủ nghĩa Việt Nam. Phần 2, với tiêu đề "Thực tế bi hài",
lược qua một số biểu hiện sai trái của mấy kỳ bầu cử đại biểu Quốc hội trước
đây. Phần 3, với tiêu đề "Căn nguyên từ luật", phân tích
một số nguyên nhân luật định tất yếu dẫn đến tiêu cực, bắt nguồn từ Luật BCĐBQH
1997 và Luật BCĐBQH 2015. Phần 4, với tiêu đề "Băn khoăn muôn mối",
trao đổi về một số tâm tư, suy nghĩ trên cương vị công dân đối với cuộc bầu cử
sắp tới.
1. Thăng trầm hiến định
Sau khi khai sinh ra chế độ hiện
thời, các nhà lập hiến đã long trọng khẳng định trong Hiến pháp 1946 (Điều thứ 17) rằng:
"Chế độ bầu cử là phổ
thông đầu phiếu. Bỏ phiếu phải tự do, trực tiếp và kín."
"Việc tuyển cử đại biểu Quốc
hội và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp đều tiến hành theo nguyên tắc phổ
thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín."
Nội dung này được tiếp tục duy
trì trong Hiến pháp 1980 (Điều
7), Hiến pháp 1992 (Điều
7) và Hiến pháp 2013 (Điều
7).
Có một "thay đổi
nhỏ", nhưng phản ánh một "chuyển biến lớn" của
đội ngũ từng giương cao ngọn cờ "tự do" để giành
chính quyền, đó là xóa bỏ "tự do" trong điều hiến định
về nguyên tắc bầu cử đại biểu Quốc hội. Thay vào đấy là "bình đẳng",
thứ lung linh đã tưởng chừng trôi dần gần tầm với, song từ thời "đổi
mới" nó ngày càng dạt ra xa, mà vẫn bị đem ra ca hoài ca mãi, như
thể đùa dai.
Phải chăng việc triệt tiêu nội
dung hiến định "bỏ phiếu phải tự do" là
nhằm dọn đường cho việc cản trở công dân tự do ứng cử và ép người người phải
tham diễn vở bầu cử phi dân chủ?
"Tất cả công dân Việt Nam,
từ 18 tuổi trở lên, không phân biệt gái trai, đều có quyền bầu cử, trừ những
người mất trí và những người mất công quyền."
"Người ứng cử phải
là người có quyền bầu cử, phải ít ra là 21 tuổi, và phải biết đọc, biết
viết chữ quốc ngữ."
Với kinh nghiệm của 14 năm cầm
quyền, các nhà lập hiến đã sửa lại quy định về bầu cử "phổ thông" trong Hiến pháp 1959 (Điều
23) như sau:
"Công dân nước
Việt Nam dân chủ cộng hoà, không phân biệt dân tộc, nòi giống,
nam nữ, thành phần xã hội, tôn giáo, tín ngưỡng, tình trạng tài sản, trình
độ văn hoá, nghề nghiệp, thời hạn cư trú, từ mười tám tuổi trở lên đều có
quyền bầu cử, từ hai mốt tuổi trở lên đều có quyền ứng cử, trừ những
người mất trí và những người bị Toà án hoặc pháp luật tước quyền bầu cử và ứng
cử."
Điều đặc biệt là: Hiến
pháp 1959 đã hủy bỏ đòi hỏi "người ứng cử… phải
biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ" của Hiến pháp 1946,
đồng thời khẳng định "công dân… không phân biệt… trình
độ văn hóa… đều có quyền ứng cử". Phải chăng đó là
cách nhận thức về "bình đẳng", thứ được đem ra thay thế
cho "tự do"? "Bình đẳng" kiểu ấy
tất yếu sinh ra loại Quốc hội với đại đa số đại biểu chỉ có trình độ tầm đại
chúng, không đủ khả năng tham gia lập hiến và lập pháp.
Hãy tưởng tượng xem, nếu mấy
ông bà mù chữ ứng cử đại biểu Quốc hội, rồi trúng cử và tham gia thực hiện những
nhiệm vụ trọng đại được hiến định tại Điều 50 Hiến pháp
1959, như làm Hiến pháp và sửa đổi
Hiến pháp, làm pháp luật, quyết định kế hoạch kinh tế Nhà nước, thì sẽ vất vả đến
nhường nào? Song nếu được gợi ý ra ứng cử, thì chắc hẳn những người thất học
cũng nhận ra, là mình bị đẩy lên sân khấu đóng vai hề. Sao lại nỡ bỡn cợt với
phận nghèo như vậy?
Đó chỉ là một ví dụ nho nhỏ,
nhưng lại rất đặc trưng cho kiểu hiến định đã trở thành tập quán: Càng
không định tôn trọng và thực thi Hiến pháp thì càng hiến định hào phóng.
Sau khi đã thống nhất đất nước,
nắm trọn trong tay quyền lực trên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam, nhà cầm quyền lại
hạn chế tiếp trong Hiến pháp 1980 (Điều
57):
"Công dân không phân biệt
dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng tôn giáo, trình độ văn hoá, nghề
nghiệp, thời hạn cư trú, từ mười tám tuổi trở lên đều có quyền bầu cử và từ hai
mươi mốt tuổi trở lên đều có thể được bầu vào Quốc hội, Hội đồng
nhân dân các cấp, trừ những người mất trí và những người bị pháp luật hoặc Toà
án nhân dân tước các quyền đó."
Cái gì thay đổi ở đây? Cụm
từ "có quyền ứng cử" đã bị xóa bỏ khỏi Hiến pháp. Thay
vào đấy là mệnh đề "có thể được bầu vào Quốc hội và Hội
đồng nhân dân các cấp".
Vậy là, bằng thủ thuật tráo chữ,
Hiến pháp 1980 đã công khai phủ nhận "quyền ứng cử" của
công dân vào Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp.
Thay đổi ấy là một trong những
bằng chứng có thể minh họa nhận định của một số người, cho rằng Hiến pháp 1980
thuộc loại phi dân chủ nhất trong năm bản Hiến pháp của chế độ này. Nhưng đấy
là xét về hình thức. Còn xét về thực chất, từ phương diện "quyền
ứng cử" của công dân, thì phải chăng Hiến pháp 1980
là tử tế nhất trong số bốn bản Hiến pháp từ năm 1959 đến nay? Vì
sao ư? Bởi lẽ nó trung thực nhất. Cho dù "quyền ứng cử" tự
do của công dân có được hiến định hay không, thì trên thực tế, suốt bao thập kỷ
đằng đẵng, quyền ấy cũng không được nhà cầm quyền tôn trọng và chấp nhận trên
thực tế. Vừa hiến định công dân có "quyền ứng cử", đồng
thời lại dùng mọi thủ đoạn (từ công cụ pháp luật đến tiểu xảo chợ búa) để cản
trở công dân ứng cử, thì kiểu lừa gạt ấy còn tệ hơn hẳn việc công khai khước từ "quyền
ứng cử".
Hiến pháp 1992 (Điều
54) khôi phục "quyền
ứng cử" của công dân:
"Công dân, không
phân biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn
giáo, trình độ văn hoá, nghề nghiệp, thời hạn cư trú, đủ mười tám
tuổi trở lên đều có quyền bầu cử và đủ hai mươi mốt tuổi trở lên đều có
quyền ứng cử vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân theo quy định của
pháp luật."
Nhưng như vậy lại trở về với trạng
thái hào phóng giả tạo của Điều 23 Hiến pháp
1959, là "Công dân,
không phân biệt… trình độ văn hoá… đều có quyền ứng cử vào Quốc hội…". Tuy
cụm từ "theo quy định của pháp luật" được dùng làm
vũ khí ám muội nhằm hạn chế quyền công dân, nhưng một khi Hiến pháp đã khẳng định "không
phân biệt… trình độ văn hoá…", thì không thể sinh ra thứ "quy
định của pháp luật" nào đó hòng đòi hỏi công dân thực hiện "quyền
ứng cử" phải "biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ" (như
đã từng quy định trong Hiến pháp 1946), hay phải có "trình độ văn
hóa" ở mức nào đó. Đây là một trong những ví dụ khắc họa tầm tư
duy thấp kém của đấng lập hiến.
Chẳng biết vô tình hay hữu ý,
nhưng nhờ viết gọn hơn nên Hiến pháp 2013 (Điều
27) đã thoát khỏi trạng thái
trớ trêu ấy:
"Công dân đủ mười tám tuổi
trở lên có quyền bầu cử và đủ hai mươi mốt tuổi trở lên có quyền ứng cử vào Quốc
hội, Hội đồng nhân dân. Việc thực hiện các quyền này do luật định."
Mệnh đề "Việc thực
hiện các quyền này do luật định" là sáng tạo mới mẻ, được huy
động để tạo ra bức tường thành tùy tiện mà kiên cố, có thể dễ dàng ngăn cản
công dân "thực hiện" các quyền cơ bản, nếu nhà cầm
quyền cố tình không ban hành "luật định". Nhưng tiếc
thay, giăng bẫy rồi tự sập bẫy, như đã phân tích trong bài "Hiến pháp 2013 –
Sửa nhầm hay đổi thiệt?".
Dù quyền bầu cử và ứng cử được
hiến định thăng trầm thế nào, thì điều quan trọng đọng lại vẫn là: Cả
năm bản Hiến pháp của chế độ này đều khẳng định ba nguyên tắc bầu cử "phổ
thông", "trực tiếp" và "bỏ phiếu kín". Trong khi Hiến
pháp 1946 quy định "bỏ phiếu phải tự do", thì bốn bản Hiến pháp tiếp
theo thay thế nội dung ấy bằng nguyên tắc "bình đẳng".
2. Thực tế bi hài
Hiến pháp quy định như vậy, còn
trên thực tế thì các cuộc bầu cử diễn ra như thế nào? Ta hãy cùng nhau điểm qua
một số nét của bức tranh toàn cảnh, để hiểu phần nào lý do, tại sao một số người
lại so sánh cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội với màn bi hài kịch.
2.1. Vừa đá bóng vừa thổi còi
Bầu cử đại biểu Quốc hội thường
được mở màn bằng việc ra mắt "Hội đồng bầu cử ở Trung ương".
Theo Điều 14 Luật BCĐBQH
1997, được sửa đổi theo Luật số 63/2010/QH12 ngày 24/11/2010, Hội đồng này là tổ chức do "Ủy ban
thường vụ Quốc hội thành lập", để "lãnh đạo, chỉ đạo việc
tổ chức bầu cử trong cả nước".
Đặc biệt, Hội đồng bầu cử chính
là nơi "lập và công
bố danh sách những người ứng cử đại biểu Quốc hội theo từng đơn vị bầu cử trong
cả nước". Với chức năng này, Hội đồng bầu cử có thể lập ra danh sách ứng cử chỉ
bao gồm những người của"họ", hay ít nhất cũng được "họ" chấp
nhận. Muốn trúng cử thì hiển nhiên phải lọt vào danh sách những người ứng cử,
nhưng kết quả còn phụ thuộc nhiều vào việc người ứng cử được Hội đồng phân đến
đơn vị bầu cử nào. Nếu bị xếp vào đơn vị mà cử tri thuộc loại "cứng
đầu", lại phải cạnh tranh với mấy đối thủ quá mạnh, thì chưa vào trận
đã nắm chắc phần thua. Ngược lại, nếu gặp được khối cử tri "dễ bảo",
lại chỉ phải tranh cao thấp với mấy vị lùn lùn, thì chưa cần nhón chân đã có thể
vững tin là thắng.
Hơn nữa, Hội đồng bầu cử cũng
là nơi "giải quyết
khiếu nại, tố cáo về công tác bầu cử đại biểu Quốc hội…; giải quyết khiếu nại,
tố cáo về người ứng cử đại biểu Quốc hội; giải quyết khiếu nại về kết quả bầu cử
đại biểu Quốc hội". Giữa thời buổi suy đồi, ai dám đảm bảo rằng "người
nhà" sẽ bị xử lý nghiêm khắc khi gian lận?
Vì vậy, không quá khó hiểu nếu
người ứng cử nào đó muốn "vun đắp quan hệ tình cảm" với
các thành viên của Hội đồng bầu cử nhằm mưu cầu thuận lợi. Song đừng tưởng như
vậy đã là cao tay, bởi vẫn còn kém lợi thế của các siêu ứng cử viên, những vị
chẳng cần mất công "quan hệ", vì bản thân là Chủ tịch,
hay Phó Chủ tịch, hay thành viên của Hội đồng bầu cử. Vị thế siêu đẳng ấy rất
thuận lợi cho những ai muốn vừa chăm việc nước, vừa lo việc nhà, tự lựa chọn
đơn vị bầu cử thuận lợi cho bản thân, và đỡ phải e dè khiếu nại.
Nếu muốn tìm hiểu công nghệ vừa
lãnh đạo bầu cử vừa ứng cử, có thể tham khảo kinh nghiệm của ông Nông Đức Mạnh.
Ngày 14/4/1997 Chủ tịch Quốc hội khóa IX Nông Đức Mạnh đã ký Nghị quyết số 360
NQ/UBTVQH9 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, trong đó bổ nhiệm chính mình làm Chủ tịch Hội đồng
bầu cử ở Trung ương để lãnh đạo việc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa X, mặc dù bản
thân cũng ra ứng cử, và tất nhiên đắc cử, rồi sau đó lại tiếp tục làm Chủ
tịch Quốc hội khóa X.
Tương tự, Chủ tịch Quốc hội
khóa XII Nguyễn Phú Trọng đã ký Nghị quyết số 1018/NQ-UBTVQH12 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội vào ngày 21/1/2011, trong đó bổ nhiệm chính mình làm Chủ tịch của "Hội
đồng bầu cử để phụ trách tổ chức việc bầu cử đại biểu Quốc hội khoá XIII…", mặc
dù bản thân cũng ra ứng cử. Cùng với ông Chủ tịch, Hội đồng bầu cử này còn có
thêm 12 vị nữa (tức là chiếm 61,9% trong tổng số 21 thành viên) cũng là ứng cử
viên và hiển nhiên cũng trúng cử vào Quốc hội khóa XIII. Đó là bà Tòng Thị Phóng, khi ấy là Phó chủ
tịch Quốc hội khóa XII kiêm Phó chủ tịch thường trực Hội đồng bầu cử Quốc hội
khóa XIII. Và đó là hai vị Phó chủ tịch Hội đồng bầu cử Nguyễn Sinh Hùng và
Nguyễn Thị Doan, cùng các thành viên Lê Hồng Anh, Nguyễn Quốc Cường, Nguyễn Thị
Thanh Hòa, Nguyễn Đức Kiên, Vũ Trọng Kim, Uông Chu Lưu, Huỳnh Ngọc Sơn, Phùng
Quang Thanh và Đặng Ngọc Tùng.
Thử hỏi có quốc gia văn minh nào
mà đương kim tổng thống vừa tái ứng cử tổng thống, lại vừa đứng ra lãnh đạo
toàn quốc bầu cử tổng thống, hay không? Cũng chẳng cần nghiêng ngó đâu xa, mà
ngay ở Việt Nam, tại những vùng quê chậm tiến nhất, đương kim trưởng thôn cũng
đủ tỉnh táo và tự trọng để không vừa tái ứng cử trưởng thôn, lại vừa đứng ra
lãnh đạo toàn thôn bầu cử trưởng thôn. Ấy vậy mà cõi lòng thiên giới lại chẳng
hề gợn chút lăn tăn...
2.2. Rộng đường qua ải… lỗ kim
Dù quyền ứng cử được long trọng
hiến định, nhưng những người thực sự tự ứng cử (tức
không phải được tổ chức phân công sắm vai "tự ứng cử" để
hóa trang dân chủ cho chế độ) rất khó lọt vào "danh sách chính
thức những người ứng cử đại biểu Quốc hội". Đầu tiên họ được vận động,
thậm chí có thể bị hăm dọa, để phải tự rút lui. Nếu vẫn chưa"tỉnh ngộ",
thì sẽ vấp ải "lấy ý kiến cử tri".
Hội nghị cử tri nơi cư trú được
đạo diễn rất công phu. Đối với những trường
hợp ứng cử thuộc diện đặc biệt, cần sớm bị loại bỏ, thì chỉ những cử tri chọn lọc
mới được tham dự, bởi nơi tổ chức Hội nghị cử tri được bảo vệ nghiêm ngặt như
chốn xử án kín. Cuộc đối thoại được tổ chức theo công nghệ phát minh từ thời cải
cách ruộng đất. Sau màn đấu tố, kết quả bỏ phiếu tín nhiệm người tự ứng cử thế
nào thì chẳng nói cũng rõ.
Không chỉ những nhân vật bị xếp
vào sổ đen mới bị phân biệt đối xử. Ngay cả nhà nghiên cứu Nguyễn Phúc Giác Hải
cũng phải nếm "quả đắng" khi ra ứng cử Quốc hội vào
năm 2011. Như được trình bày trong đơn khiếu nại của
ông Lê Cường(Ủy viên Hội
đồng biên tập Tạp chí Quê hương - thuộc Bộ Ngoại giao), ông Hải đã gửi thư trực
tiếp đến ngài Nguyễn Phú Trọng, với các tư cách Tổng Bí thư ĐCSVN, Chủ tịch Quốc
hội, Chủ tịch Hội đồng bầu cử, kiêm cả Trưởng đoàn giám sát bầu cử tại Hà Nội.
Trong thư ấy ông Hải viết rằng:
"Đây là một cuộc Hội nghị
lấy ý kiến của cử tri nơi cư trú để Hội đồng bầu cử hiểu biết thêm về nét sinh
hoạt của tôi tại địa phương, và sẽ là một cuộc lấy ý kiến công bằng dân chủ,
nhưng rất tiếc là không phải như vậy:
- Không mời những cử tri
của các hộ liền kề nơi cư trú của ứng cử viên.
- Mời quá nhiều những cử
tri không ở nơi cư trú của ứng cử viên mà không rõ nguồn gốc.
- Bố trí những người phát
biểu xuyên tạc về lý lịch và hoạt động khoa học của ứng cử viên.
- Ứng cử viên không được
trả lời những phát biểu xuyên tạc.
- Phát hành số phiếu quá
nhiều so với thông báo ban đầu.
- Quyết định bỏ phiếu
ngay lập tức sau khi đã xuyên tạc về ứng cử viên mà ứng cử viên không được trả
lời.
- Ban kiểm phiếu không kiểm
phiếu trước mặt Hội nghị mà mang nhau sang buồng riêng, nên không thể rõ sự
minh bạch của những phiếu này."
Nếu người ứng cử được coi
là "vô hại", thì có thể trót lọt khi lấy ý kiến cử tri
nơi làm việc và nơi cư trú. Nhưng đừng vội mừng mà hụt, vì khó lòng vượt qua
cái ải gọi là "Hội nghị Hiệp
thương lần thứ ba". Lần này,
"Hội nghị hiệp thương căn
cứ vào tiêu chuẩn đại biểu Quốc hội, cơ cấu, thành phần và số lượng đại biểu được
bầu của cơ quan, tổ chức, đơn vị ở địa phương đã được Uỷ ban thường vụ Quốc hội
điều chỉnh lần thứ hai và kết quả lấy ý kiến cử tri để lựa chọn, lập
danh sách chính thức những người ứng cử đại biểu Quốc hội."(Điều 43 Luật BCĐBQH
1997, được sửa đổi theo Luật số 31/2001/QH10)
Về cơ bản, vở kịch ứng cử dân
chủ kết thúc tại đây. Bởi phần lớn những người tự ứng cử, đã vượt qua mọi thử
thách, bây giờ cũng bị loại khỏi vòng chiến. Tại cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội
khóa XIII vào năm 2011, trong số 832 ứng
viên được đưa vào "danh sách chính thức", chỉ có 15 người
tự ứng cử, chiếm
1,80%. Còn lại một "danh sách chính thức những người ứng cử đại biểu
Quốc hội" với hầu hết là người của "họ", dù
bỏ phiếu cho ai thì cử tri cũng chỉ thực hiện "quyền tự do bầu cho
họ" mà thôi.
Sau khi thỏa mãn mọi tiêu chuẩn
và đạt được số phiếu cao trong hai cuộc "lấy ý kiến cử tri", một
số người tự ứng cử đang vững tin là mình sẽ lọt vào danh sách chính thức,
nay lại đột nhiên phải chia tay với cuộc thử nghiệm dân chủ, mà không rõ vì
sao.
Nhà báo Nguyễn Minh Tuấn, phóng
viên báo Đại đoàn kết, thuộc vào số tự ứng cử đại biểu Quốc hội năm 1997 đã rơi
vào hoàn cảnh ấy. Khi đó, ông đã được trên 80% phiếu ủng hộ tại Hội nghị cử tri
nơi công tác và 100% phiếu ủng hộ tại Hội nghị cử tri nơi cư trú. Vì vậy, như
ông tâm sự 10 năm sau,
Và sau khi cuộc bầu cử Quốc hội
kết thúc được khoảng hơn một tháng, ông Nguyễn Minh Tuấn nhận được thư của Mặt
trận Tổ quốc Thành phố Hà Nội, giải thích rằng:
Cứ như thế, số tự ứng cử cứ rụng
dần, rồi cuối cùng rơi lả tả như cành hoa đào bị lẳng đi sau khi đã hoàn thành
sứ mạng trang trí tết. Lúc kết thúc nhận hồ sơ vào chiều ngày 18/3/2011, Thành phố Hồ Chí
Minh có 22 người tự ứng cử đại biểu Quốc hội khóa XIII. Đến ngày 20/4/2011, sau hiệp thương vòng
ba, chỉ 4 người trong số đó được đưa vào danh sách chính thức để bầu đại biểu
Quốc hội khóa mới. Cuối cùng, chỉ một người tự ứng
cử có tên Hoàng Hữu Phước trúng cử vào Quốc hội khóa XIII. Đó chính là vị hay phát biểu kiểu "bảo
hoàng hơn vua" tại diễn đàn Quốc hội, khiến dư luận vấn vương với câu hỏi: Không hiểu
ông ta có thực sự "tự ứng cử" hay không?
Như vậy, chỉ có 4/22 = 18,18%
trong số tự ứng cử tại Thành phố Hồ Chí Minh được đưa ra cho cử tri bầu trực tiếp
vào năm 2011. Tỷ lệ này khá thấp, nhưng vẫn còn cao hơn hẳn so với kỳ bầu cử đại
biểu Quốc hội khóa XII vào năm 2007. Khi đó, chỉ có 7 trong số 101 người tự ứng cử
tại Thành phố Hồ Chí Minh (chiếm 6,93%) lọt vào "danh sách chính thức những người
ứng cử đại biểu Quốc hội", và cuối cùng thì không ai trúng cử. Sự gia tăng tỷ lệ "lọt vào vòng
chung kết" không hẳn bắt nguồn từ tiến bộ dân chủ, mà do số người
tự ứng cử đã giảm đi 101/22 = 4,59 lần sau bốn năm. Phải chăng, sụt giảm đó
cũng thể hiện nỗi thất vọng đọng lại sau màn bầu cử 2007?
2.3. Bầu... "cua trong lỗ"
Dân chủ bầu cử chỉ có thể trở thành hiện thực nếu công
dân có quyền lựa chọn. Trước hết, số ứng cử phải nhiều hơn hẳn số cần bầu.
Nhưng như vậy vẫn chưa đủ! Lựa chọn chỉ thực chất khi công dân có đầy
đủ thông tin cần thiết, để so sánh giữa các ứng cử viên và đối chiếu với
mong muốn của bản thân, mà đưa ra quyết định. Không có đủ thông tin mà vẫn lựa
vẫn chọn, thì đó chỉ là trò đùa nhân danh dân chủ mà thôi.
Tiếc rằng, các cuộc bầu cử đại
biểu Quốc hội ở CHXHCN Việt Nam thường giống như "ngày hội bầu…
cua trong lỗ". Cử tri hầu như không biết gì về những người mà họ phải
bầu, phải chọn. Thậm chí, quá nửa danh sách người ứng cử là những cái tên mà cử
tri mới đọc lần đầu khi bước chân vào phòng bỏ phiếu.
Trước ngày bầu cử người ta cũng
tổ chức cho những người ứng cử tiếp xúc với cử tri, nhưng chỉ là hình thức, làm
cho có. Gọi là tiếp xúc với cử tri, nhưng thường thì chưa đến một phần nghìn cử
tri thuộc đơn vị bầu cử được tiếp xúc. Thay vì công bố rộng rãi cho người người
đều biết, để bất cứ ai quan tâm cũng có thể đến tham dự, thì lại tiến hành lặng
lẽ như thể vụng trộm, chỉ một vòng hẹp "cử tri cốt cán" nhận
được giấy mời. Thay vì tổ chức ở nơi rộng thênh thang, đủ chỗ cho ngàn người chứng
kiến, thì lại bố trí phòng họp nhỏ xíu, khiến cử tri "hạng
hai" muốn đến nghe lỏm cũng khó chen chân. Mà dù có chen được
vào, thì sau chút thời gian dành cho cả dàn ứng cử viên đồng diễn, người nghe
chẳng hiểu thêm mấy về tính cách và năng lực của mỗi cá nhân.
Một thời gian dài, người ta
còn "chu đáo" hướng dẫn cử tri phải bầu ai, gạch ai.
Thậm chí, để dễ nhớ, đỡ nhầm lẫn, họ còn xếp những vị cần được bầu lên đầu danh
sách ứng cử viên, bất chấp vần ABC. Khổ thân thay mấy vị được đưa vào danh
sách, để có người cho cử tri gạch bỏ. Bây giờ "tế nhị" hơn,
nên ít can thiệp thô bạo hơn. Vả lại cũng chẳng cần thiết, vì thường thì tất cả "danh
sách chính thức" đều là người của "họ", nên
dù cử tri bỏ phiếu cho ai thì những người trúng cử cũng là của "họ" mà
thôi.
Vậy là khi bỏ phiếu, nếu không
muốn bầu bừa, thì cử tri cũng đành tần ngần trước mấy dòng lý lịch trích ngang…
vu vơ như cạm bẫy. Tên tuổi, bằng cấp, chức vụ, danh hiệu, huân huy chương… Những
thứ ấy đảm bảo được gì, khi có thể mua hay ngụy tạo? Nếu đọc liệt kê "Ủy
viên Trung ương ĐCSVN, Bí thư tỉnh ủy, Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân…",
thì bạn có thể yên tâm bầu người ấy vào Quốc hội hay không? Song chưa biết chừng
đó lại là lý lịch trích ngang của ai đó giông giống Hồ Xuân Mãn, loại được lãnh
đạo tối cao hết mực tin tưởng và cất nhắc, nhưng lại bị đồng đội tố cáo
là man trá… Thế thì
còn biết làm gì, ngoài việc tặc lưỡi chọn bừa mấy cái tên trong danh sách do
nhà cầm quyền ấn định? Dân chủ xã hội chủ nghĩa là như vậy sao?
2.4. Nét hài màn chót
Cử tri thông thường chẳng thể
biết rõ việc kiểm phiếu có trung thực hay không, nên đối với họ thì vở bầu cử
dân chủ kết thúc ở màn bỏ phiếu.
Mặc dù Điều 57 Luật BCĐBQH
1997 quy định rõ ràng, rằng "việc
bỏ phiếu bắt đầu từ bảy giờ sáng đến bảy giờ tối", nhưng mới sáng sớm
chủ nhật tổ bầu cử đã phái người tới mọi ngõ ngách, giục giã cử tri đi bầu cử.
Rồi gọi điện thoại nhắc nhở, khiến cử tri chưa đi bỏ phiếu chưa yên. Ấy là cuộc
đua, xem tổ nào bầu xong sớm hơn. Những vị cao niên bỗng trở nên hiếu thắng như
trẻ thơ. Quá hồn nhiên, họ tưởng rằng mình đang thực thi trọng trách nên có quyền
hối thúc, mà quên rằng bao người dân vẫn phải hàng ngày lo chuyện làm ăn, kiếm
sống… Có người đang phải ngủ bù vì vừa qua ca làm đêm. Có người phải hối hả vào
bệnh viện chăm sóc người thân. Đâu phải ai ai cũng thênh thang thời gian như mấy
cụ về hưu, có thể chủ động ngủ sớm dậy sớm để tham gia "ngày hội lớn".
Do muốn đạt thành tích xong sớm, người ta chấp nhận một người bỏ phiếu thay cho
cả nhà, mặc dù Điều 58 Luật BCĐBQH
1997 (được sửa đổi theo Luật số 63/2010/QH12) quy định rằng "Cử tri phải tự
mình đi bầu, không được nhờ người khác bầu thay…". Lẽ ra phải tổ chức
bầu cử một cách nghiêm túc và tôn trọng quyền tự do của công dân, thì họ lại biến
bầu cử thành trò chơi, như thể thi đua dành phiếu bé ngoan.
Cầm lá phiếu trên tay, cử tri
lúng túng với câu hỏi bầu ai gạch ai. Nhưng còn lúng túng hơn khi tặc lưỡi bầu,
mà chẳng biết làm sao cho khỏi bị lộ, bởi bàn viết phiếu cứ tênh hênh giữa bao
người chen chúc. Vai chạm vai, mắt chạm mắt, chỉ vô tình cũng thấy rõ lá phiếu
của vị kế bên, huống hồ kẻ rắp tâm theo dõi. Cái tay đeo kính râm có phải là mật
vụ không? Phải chăng gã lấc láo kia là tay chân của ứng cử viên mà mình định gạch?
Thực hiện quyền bầu cử của công dân, mà cứ phải lấm lét như vụng trộm. Gọi
là "bỏ phiếu
kín", nhưng chỉ kín khi phiếu đã nằm yên trong thùng. Còn lúc viết phiếu bầu
thì khó lòng mà kín nổi, khi không có ca bin hay màn che chắn, để từng cử tri
có thể viết phiếu một cách kín đáo. Ngay cả nơi bầu cử đặt tại các cơ quan
trung ương giữa lòng Thủ đô Hà Nội cũng thế, nói gì đến nơi rừng rú xa xôi. Thuở
xa xưa còn thiếu thốn, dốt nát đã đành. Giờ bước sang thế kỷ 21 đã quá mười
năm, mà "bỏ phiếu kín" ở xứ này vẫn chẳng kín được
như ở xứ người mấy mươi năm trước. Cổ hủ mãi như vậy là "bi" hay
là "hài"?
3. Căn nguyên từ luật
Trong phần 2, ta đã phác qua mấy
nét ký họa đặc tả hình hài dân chủ của bầu cử ở CHXHCN Việt Nam. Nói chung, chẳng
cần tìm cội nguồn đâu xa, bởi mức độ dân chủ trong bầu cử là thể hiện
tương ứng trạng thái dân chủ của chế độ. Tuy nhiên, trong phần này, ta
sẽ đề cập đến mấy căn nguyên từ luật.
Vì lý do thời sự, nhằm khẳng định
căn nguyên từ luật sẽ gây ra ảnh hưởng xấu tới cuộc bầu cử đại biểu Quốc
hội khóa XIVvà các kỳ
bầu cử tiếp theo, ta sẽ xem xét Luật BCĐBQH 2015. Phòng ngừa ngụy biện, rằng luật
mới thông qua giữa năm 2015 không thể ảnh hưởng đến các cuộc bầu cử trước đó,
ta sẽ chỉ ra rằng những căn nguyên ấy cũng đã tồn tại trong Luật BCĐBQH 1997,
được Quốc hội khóa IX thông qua năm 1997, được Quốc hội khóa X sửa đổi năm 2001
bởi Luật số 31/2001/QH10 và được Quốc hội khóa XII sửa đổi năm 2010
bởi Luật số 63/2010/QH12.
Sẽ quá dài nếu phân tích tất thảy
mọi điều phi lý, nên ta chỉ tập trung vào mấy điều khoản vi hiến của Luật
BCĐBQH 1997 và Luật BCĐBQH 2015. Và để chứng tỏ tính vi hiến, ta cũng chỉ tham
chiếu một điều khoản trong Hiến pháp, đó là:
"Việc bầu cử đại biểu Quốc
hội và đại biểu Hội đồng nhân dân được tiến hành theo nguyên tắc phổ
thông,bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín."
Nội dung này đã được hiến định
tại Điều 7 Hiến pháp
1992 và được tiếp tục duy trì
tại Điều 7 Hiến pháp
2013. Cho nên, nếu điều khoản nào của Luật BCĐBQH 1997 hay Luật BCĐBQH 2015
vi phạm một trong bốn nguyên tắc trên, thì nó vi hiến so với cả Hiến pháp trước
đây lẫn Hiến pháp hiện hành.
3.1. Kín... tênh hênh
Đầu tiên ta thảo luận về nguyên
tắc cuối cùng, đó là "bỏ phiếu kín". Vì sao? Bởi đó là
nguyên tắc mà nhà cầm quyền dễ chấp nhận nhất và cũng dễ thực hiện nhất. Thành
thử, nếu nguyên tắc đơn giản ấy mà còn bị phớt lờ, thì đừng ngạc nhiên về số phận
của ba nguyên tắc kia. Câu hỏi then chốt là: Phải làm sao để đảm bảo nguyên tắc "bỏ
phiếu kín" và ai có trách nhiệm thực thi?
Điều 60 Luật BCĐBQH
1997 quy định rằng: "Khi
cử tri viết phiếu bầu, không ai được đến xem, kể cả thành viên Tổ bầu
cử." Câu này được nhắc lại nguyên văn tại Khoản 5, Điều 69 của Luật
BCĐBQH 2015. Ngoài nó
ra, không còn tồn tại điều khoản luật định nào khác liên quan đến nguyên tắc "bỏ
phiếu kín".
Đọc qua thì tưởng là rất hợp
lý, song nghĩ kỹ lại thấy quy định ấy chứa những nét hài hước. Khi nhiều cử tri
phải cùng chụm đầu quanh một cái bàn nhỏ để viết phiếu, hay phải đứng sau lưng
người đang viết phiếu để đợi đến lượt mình, thì chỉ còn nước nhắm mắt mới đảm bảo
chẳng nhìn thấy lá phiếu của người khác. Hơn nữa, không chỉ người đang đứng gần,
mà cả người đứng từ xa cũng dễ dàng quan sát trạng thái lá phiếu, thậm chí có
thể dùng cả camera để ghi lại toàn bộ quá trình cử tri viết phiếu, khi bàn để
viết phiếu được đặt tênh hênh giữa phòng, không hề được che chắn. Vậy thì cần
gì phải mất công "đến" mà "xem"?
Cứ như thể ép bao người phải tụ họp trong trạng thái khỏa thân, rồi quy định rằng
không ai được nhìn vào vùng kín... tênh hênh của người khác, nhằm chứng tỏ phía
tổ chức rất tôn trọng bí mật riêng tư.
Giữ bí mật nội dung lá phiếu của
bản thân là quyền, chứ không phải là trách nhiệm của cử tri. Vì vậy, chẳng lạ nếu
cử tri nào đó không có nhu cầu giữ bí mật, mà ngược lại còn muốn khoe với người
thân hay bạn bè, rằng mình bầu ai gạch ai. Khi đó, chỉ cần nghe đã biết, thì cấm "xem" phỏng
có ích gì? Cũng thường tình nếu cử tri đem theo con nhỏ tới nơi bỏ phiếu. Hiển
nhiên, bố mẹ đi đâu thì đứa trẻ cũng "đến" đó, và
khi bố mẹ viết phiếu bầu thì đứa trẻ cũng có thể "xem",
cho dù đã biết đọc hay chưa. Vậy thì tại sao luật lại áp đặt "không
ai được đến xem" cả trong những hoàn cảnh như vậy?
Kiểu quy định trách nhiệm đơn
phương "không ai được đến xem" lặp lại một lối tư
duy đặc trưng của giới cầm quyền tự nhận là "đầy tớ của dân".
Đó là lẩn tránh trách nhiệm của chính quyền và đổ dồn trách nhiệm lên phía người
dân. Một ví dụ điển hình của kiểu tư duy này là chuyện xử phạt mũ bảo hiểm xe
máy. Lẽ ra, chính quyền có tránh nhiệm kiểm soát và quản lý thị trường, sao cho
mũ bảo hiểu không đảm bảo chất lượng không được bày bán ở cứ nơi nào trên lãnh
thổ Việt Nam. Và nếu người dân mua phải mũ "rởm", thì họ
có quyền kiện và yêu cầu chính quyền phải bồi thường. Song chính quyền lại để mặc
cho mũ "rởm" được công khai bày bán nơi nơi, rồi quy
định xử phạt những người mua phải mũ "rởm". Tương tự như
vậy, lẽ ra Quốc hội phải quy định trong Luật BCĐBQH, rằng các cơ quan tổ
chức bầu cử phải thiết lập nơi bầu cử sao cho người khác không thể đọc
được phiếu bầu của cử tri. Song Quốc hội lại bỏ qua trách nhiệm
đó, mà luật định rằngngười khác không được đọc, và thản nhiên như
thể đã làm tròn nhiệm vụ lập pháp.
Để người khác không đọc được
phiếu bầu của cử tri, thì Luật bầu cử cần và chỉ cần quy định hết sức đơn giản.
Chẳng hạn, Luật bầu cử của CHLB Đức quy định tại Điều
33 như sau:
"Phải tiến hành các biện
pháp phòng ngừa sao cho cử tri có thể điền và gấp phiếu bầu mà không bị quan
sát."
Đó là trách nhiệm của cơ quan tổ
chức bầu cử. Còn đối với phía cử tri, để đảm bảo bí mật nội dung lá phiếu, Luật bầu cử của CHLB
Đức hướng dẫn tại Điều 34 như sau:
"Sau đó cử tri gấp lá phiếu,
sao cho người khác không thể nhận biết ý kiến bầu cử của mình, và bỏ vào thùng
phiếu."
Rõ ràng, nếu đã đảm bảo "cử
tri có thể điền và gấp phiếu bầu mà không bị quan sát" thì chẳng
cần phải quy định thêm"không ai được đến xem". Ngược lại,
nếu cử tri "bị quan sát" (từ xa, bằng mắt hay thông
qua camera) lúc đang điền phiếu bầu, thì dù "không ai được đến
xem" cũng chẳng giữ nổi bí mật nội dung lá phiếu. Hơn nữa, dù
không bị quan sát lúc viết phiếu, nhưng nếu cử tri không gấp phiếu cẩn thận, mà
cầm trên tay lá phiếu mở lộ nội dung và đi từ nơi viết phiếu đến thùng phiếu, rồi
bỏ nó vào thùng phiếu có vách trong suốt, thì mọi biện pháp bảo mật tại nơi viết
phiếu đều là vô ích. Và lúc đó, cử tri không thể đổ lỗi cho phía tổ chức bầu cử
hay những người khác.
Trên thực tế, có thể dễ dàng
thiết lập những khoang bầu cử, để từng cử tri có thể tới đó viết phiếu bầu một
cách kín đáo (xem Phụ lục 1).
Về lý mà nói, Luật BCĐBQH 1997
và Luật BCĐBQH 2015 không cấm các khu vực bầu cử thiết lập khoang bầu cử. Nếu
có đủ khả năng tư duy và có đủ tinh thần trách nhiệm (trước cử tri và Hiến
pháp), thì những người tổ chức bầu cử vẫn có thể chủ động nghĩ ra và tiến hành
các biện pháp che chắn cần thiết nhằm đảm bảo bí mật khi cử tri viết "phiếu
kín". Nhưng tiếc thay, sau mấy mươi năm sống dưới chế độ "do
Nhân dân làm chủ", các chủ nhân đã bị thụ động hóa tột cùng, đến mức
chỉ còn hành động như những rô-bốt, chỉ có thể làm và chỉ dám làm theo lập
trình của đấng bề trên. (Phải chăng, đó chính là chủ đích và bí quyết cai trị của
giới cầm quyền?) Hệ quả là, dù Hiến pháp đã quy định rõ ràng vẫn chưa dám thực
hiện và cũng chưa được phép thực hiện, mà còn phải đợi Quốc hội ban hành luật.
Và dù có luật rồi thì vẫn phải tiếp tục đợi nghị định, thông tư… hướng dẫn. Vậy
thì làm sao có thể trông chờ các rô-bốt tổ chức bầu cử dám chủ động nghĩ ra biện
pháp để thực thi bầu cử theo đúng tinh thần của Hiến pháp?
Cho nên, trong hoàn cảnh xã hội
bị rô-bốt hóa triệt để, cơ quan lập pháp có trách nhiệm ban hành các quy định
pháp luật nhằm đảm bảo cho cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội có thể diễn ra một
cách hợp hiến, tức là đáp ứng đầy đủ bốn nguyên tắc hiến định. Ít nhất, chính
Quốc hội phải quy định cụ thể trong Luật BCĐBQH nội dung bộ máy tổ chức bầu cử
"phải tiến hành các biện pháp phòng ngừa sao cho cử tri có thể điền và gấp
phiếu bầu mà không bị quan sát". Không thể phó mặc cho bộ máy hành
pháp, lúc thì quy định lúc thì không. Cũng không thể bắt các cấp thực thi phải
mày mò tìm kiếm, xem có văn bản hướng dẫn nào đã được ban hành trong quá khứ
nhưng vẫn còn hiệu lực, rồi xem có văn bản hướng dẫn nào mới được sinh ra, và
còn phải phân vân với câu hỏi: Văn bản mới đã đề cập đầy đủ mọi điều cần thiết
chưa, hay vẫn phải bổ sung thêm một số nội dung từ văn bản cũ (xem Phụ lục
2)?
Vì lẽ đó, việc Quốc
hội không quy định trong Luật BCĐBQH yêu cầu phải triển khai biện pháp cần thiết
nhằm đảm bảo nguyên tắc "bỏ phiếu kín" có thể coi là một hành vi vi
phạm Hiến pháp. Đặc biệt, một khi đã viết rõ trong phần mở
đầu của Luật BCĐBQH 1997, rằng "Luật này quy định việc bầu cử đại
biểu Quốc hội", mà vẫn không quy định phải triển khai biện pháp cần thiết nhằm
đảm bảo nguyên tắc "bỏ phiếu kín", thì càng có thể coi là vi hiến.
Cử tri đã phải chịu cảnh bầu cử
kín... tênh hênh suốt bẩy thập kỷ, vậy mà Quốc hội vẫn không nhận ra điều bất cập,
và sau năm lần thay đổi Luật bầu cử vẫn không bổ sung quy định cụ thể để khắc
phục. Điều đó chứng tỏ hạn chế về trình độ lập pháp của Quốc hội, chứ không thể
đổ hết trách nhiệm cho các cơ quan hành pháp và các cấp thực thi.
3.2. Trực tiếp... ngây ngô
"Cử tri phải tự mình đi bầu,
không được bầu bằng cách gửi thư, trừ những trường hợp quy định tại Điều 59 của
Luật này."
"Cử tri không thể tự viết
được phiếu bầu thì nhờ người khác viết hộ, nhưng phải tự mình bỏ phiếu; người
viết hộ phải bảo đảm bí mật phiếu bầu của cử tri; nếu cử tri vì tàn tật không tự
bỏ phiếu được thì nhờ người khác bỏ phiếu vào hòm phiếu."
"Trong trường hợp cử tri ốm
đau, già yếu, tàn tật không thể đến phòng bỏ phiếu được thì Tổ bầu cử mang hòm
phiếu phụ và phiếu bầu đến chỗ ở của cử tri để cử tri nhận phiếu và bầu."
Các nội dung trên cũng được đưa
vào Điều 69 của Luật
BCĐBQH 2015, song bỏ
đi mệnh đề "không được bầu bằng cách gửi thư". Đặc biệt,
nội dung thứ hai trong Điều 59 của Luật
BCĐBQH 1997 được
mở rộng như sau:
"4. Trong trường hợp cử
tri ốm đau, già yếu, khuyết tật không thể đến phòng bỏ phiếu được thì Tổ
bầu cử mang hòm phiếu phụ và phiếu bầu đến chỗ ở, chỗ điều trị
của cử tri để cử tri nhận phiếu bầu và thực hiện việc bầu cử. Đối với
cử tri là người đang bị tạm giam, người đang chấp hành biện pháp đưa vào cơ sở
giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc mà trại tạm giam, cơ sở giáo dục bắt
buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc không tổ chức khu vực bỏ phiếu riêng hoặc cử
tri là người đang bị tạm giữ tại nhà tạm giữ thì Tổ bầu cử mang hòm phiếu
phụ và phiếu bầu đến trại tạm giam, nhà tạm giữ, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở
cai nghiện bắt buộc để cử tri nhận phiếu bầu và thực hiện việc bầu cử."
Nghĩa là bổ sung thêm yêu cầu "Tổ
bầu cử mang hòm phiếu phụ và phiếu bầu đến… chỗ điều trị của cử tri" và "đến
trại tạm giam, nhà tạm giữ, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc".
Chu đáo đến thế là cùng, phải không?
Tiếc rằng, chu đáo kiểu ấy thì
ngây ngô, vì không khả thi. Chỗ điều trị của các cử tri đang đau ốm có thể rất
phân tán, ở nhiều bệnh viện khác nhau và có thể ở xa cả ngàn km. Vậy thì bắt buộc "Tổ
bầu cử mang hòm phiếu phụ và phiếu bầu đến…" tất cả các "chỗ
điều trị" đó hay sao? Tương tự, cử tri có thể bị tạm giam hay đưa
vào cơ sở giáo dục hoặc cai nghiện ở nhiều địa điểm khác nhau. Hơn nữa, để tăng
cường "tác dụng giáo dục" đối với cả đương sự lẫn
người nhà, nơi giam giữ thường được bố trí tại những nơi "khỉ ho
cò gáy" cách rất xa nơi cư trú của đương sự. Vậy Tổ bầu cử buộc
phải bươn trải viếng thăm một loạt trại giam xa xôi hẻo lánh, rải khắp đất nước,
hay sao?
Nguyên nhân khiến bộ máy tổ chức
bầu cử phải lang thang lưu lạc đó đây là các nhà lập pháp đã hiểu sai lệch
nguyên tắc"bầu cử trực tiếp". Họ đinh ninh rằng
đã "bầu cử trực tiếp" thì "cử
tri phải tự mình đi bầu", tức là bản thân cử tri phải đến phòng bỏ phiếu,
rồi tự tay viết phiếu và bỏ vào thùng phiếu. Đương nhiên, không phải cử tri nào
cũng có thể tự tay viết phiếu và bỏ vào thùng. Vậy là buộc phải chấp nhận ngoại
lệ, cho phép người khác viết hộ phiếu hay bỏ hộ phiếu vào thùng. Chưa đủ, còn
có những cử tri bị đau ốm, không thể đến phòng bỏ phiếu. Vậy là quy định Tổ bầu
cử mang hòm phiếu và phiếu bầu đến tận nhà. Song lại có những người bệnh không
nằm điều trị ở nhà. Thế thì Tổ bầu cử phải tới cả bệnh viện...
Cứ thế, chuỗi ngoại lệ cứ dài dần,
song không bao giờ đủ. Giống như cảnh dùng vải mục may quần, rồi cố gắng vá víu
cho kín mọi bề, nhưng càng vá thì càng rách, và dù cố đến đâu thì cuối cùng
cũng chỉ thu được kết quả kín đáo kiểu đóng khốmà thôi. Đáng nói là bế tắc nảy sinh ngày càng
nhiều và càng khó xử lý hơn, thậm chí không thể xử lý được. Ví dụ: Nếu công dân
đang điều trị tại một bệnh viện ở nước ngoài (giống như trường hợp Bộ trưởng Quốc phòng
Phùng Quang Thanh điều trị ở Pháp) thì Tổ bầu cử sẽ làm sao? Tất nhiên là… tịt.
Quá trình vá víu bất tận và vô
vọng kể trên sẽ dễ dàng biến mất, nếu chấp nhận thực hiện hình thức "bầu
bằng cách gửi thư". Song Điều 58 Luật BCĐBQH
1997 lại quy định thẳng thừng,
rằng "không được bầu bằng cách gửi thư". Tuy Luật BCĐBQH
2015 không nhắc lại mệnh đề cấm đoán ấy, nhưng nó cũng không đưa ra bất cứ cơ
chế hay biểu hiện nào cho phép "bầu bằng cách gửi thư",
nghĩa là vẫn không được thực hiện. Tại sao lại nhất quyết là không? Nếu chấp nhận
cho những cử tri đau ốm hay tàn tật được nhờ người khác bỏ hộ phiếu vào thùng,
thì tại sao lại không chấp nhận cho những công dân ở xa nhờ bưu điện làm hộ việc
đó? Vì nhân viên bưu điện không đáng tin cậy ư? Tại sao có thể tin tưởng vào đạo
đức và nghiệp vụ của mấy vị nghiệp dư, năm năm mới tham gia tổ chức bầu cử đại
biểu Quốc hội một lần; nhưng lại không thể tin tưởng bộ máy bưu điện chuyên
nghiệp, vốn thường xuyên phải nghiêm ngặt tuân thủ quy định pháp luật về bí mật
thư tín?
Cần nhấn mạnh rằng: Hình thức "bầu
bằng cách gửi thư" hoàn toàn không mâu thuẫn với nguyên tắc "bầu
cử trực tiếp". Chính vì vậy, một số nước, chẳng hạn như
CHLB Đức, vừa luật định nguyên tắc "bầu cử
trực tiếp", vừa luật định hình thức"bầu bằng cách
gửi thư". Gần đây, trong cuộc bầu cử Quốc
hội CHLB Đức năm 2013, có tới 10.758.677 cử tri (chiếm 24,3%) sử dụng hình thức "bầu
bằng cách gửi thư". Cho nên, nếu dựa vào nguyên tắc "bầu cử trực
tiếp" để khước từ hình thức "bầu bằng cách gửi
thư" thì quả là ngây ngô.
3.3. Trực tiếp... với hư vô
Bầu cử là một thể hiện dân chủ,
nhưng chưa chắc đã là dân chủ tuyệt đối, thậm chí có thể chỉ là dân chủ nửa vời,
hay dân chủ giả tạo.
Để đảm bảo độ "an
toàn" (theo một nghĩa tử tế hay tệ hại nào đó), phía tổ chức bầu
cử có thể tiến hành bầu cử qua một hay mấy bước trung gian. Ví dụ, ở Mỹ cử tri
bình thường chỉ có thể tham gia trực tiếp bầu ra Hội đồng các đại cử tri (Electoral College), rồi các đại cử tri thuộc Hội đồng ấy mới bầu
ra Tổng thống. Nghĩa là công dân Mỹ chỉ bầu Tổng thống một cách gián tiếp thông
qua các đại cử tri. Ở Việt Nam, đảng viên ĐCSVN họp chi bộ để bầu ra đại biểu
đi dự đại hội đảng bộ trực thuộc, đại hội cấp hai ấy lại bầu ra đại biểu đi dự
đại hội cấp quận huyện, đại hội cấp ba bầu ra đại biểu đi dự đại hội cấp tỉnh
thành, rồi đại hội cấp bốn mới bầu ra đại biểu đi dự đại hội cấp toàn quốc. Cuối
cùng thì đại hội cấp toàn quốc cũng chỉ được bầu ra Ban chấp hành Trung ương, rồi
Ban chấp hành Trung ương mới bầu ra Tổng Bí thư ĐCSVN. Xét về hình thức thì có
thể coi là đảng viên ở cơ sở đảng cũng tham gia bầu Tổng Bí thư, nhưng chỉ gián
tiếp qua năm tầng đại diện trung gian. Về thực chất thì sự tham gia của đảng
viên ở cơ sở đảng chỉ có tác dụng trang điểm dân chủ, chứ không hề đóng vai trò
nào trong việc bầu ra Tổng Bí thư. Cách bầu như trong hai ví dụ vừa nêu được gọi
là "bầu cử gián tiếp" (indirect election). Hình thức bầu cử này thường được áp dụng trong những trường hợp mà phía
tổ chức không yên tâm với trình độ chung của lực lượng tham gia bầu cử, hay khi
phía tổ chức muốn tăng cường khả năng thao túng của mình đối với kết quả bầu cử,
hay đơn giản là vì tuân theo truyền thống lịch sử, hoặc không cần thiết phải
làm khác đi.
Ngược lại với hình thức "bầu
cử gián tiếp" là "bầu cử không gián
tiếp", tức bầu cử không qua bất cứ khâu trung gian nào.Nó thường được
gọi là "bầu cử trực tiếp" (direct election). Dưới hình thức bầu cử này, cử tri (tức những người tham gia bầu) lựa
chọn trực tiếp trong số các cá nhân hay tổ chức ứng cử, để quyết định mình bầu
cho ai hay tổ chức nào, nhằm có được kết quả bầu cử cuối cùng. Tức là quyết định
bầu ai không được thực hiện bởi các tầng lớp trung gian (như đại cử tri hay người
đại diện). Không thế lực nào (kể cả Hội đồng bầu cử quốc gia, Mặt trận Tổ quốc,
hay một nhóm nhỏ cử tri) được phép đứng ra cản trở hay tác động vào quyết định
bầu ai của cử tri. Đặc biệt, không thể chấp nhận kiểu sơ tuyển, thường được gọi "hiệp
thương", nhằm gạt bớt những người tự ứng cử độc lập. Cử tri phải là
người đưa ra tiếng nói đầu tiên và cũng là tiếng nói quyết định cuối cùng đối với
từng người ứng cử.
Dù là bầu cử gián tiếp hay trực
tiếp, luôn tồn tại những phương thức tiến hành bầu cử khác nhau để cử tri thể
hiện quyết định bầu ai. Nếu chọn phương thức bầu cử thông dụng nhất, là bỏ phiếu
tại những nơi bầu cử, thì cử tri có thể tiếp xúc trực tiếp với hai dụng cụ bầu
cử đặc trưng là lá phiếu và hòm phiếu. Nhưng nếu chọn phương thức "bầu
bằng cách gửi thư" thì đương nhiên cử tri không cần và cũng không
thể tiếp xúc trực tiếp với hòm phiếu. Còn khi chọn phương thức bầu cử bằng máy
thì cử tri chỉ tiếp xúc với máy, chứ không tiếp xúc trực tiếp với lá phiếu bầu
nữa. Thậm chí, nếu chọn phương thức giơ tay biểu quyết thì chẳng cần có dụng cụ
nào để cử tri phải tiếp xúc trực tiếp cả.
Qua đó ta thấy: Không
thể coi việc tiếp xúc trực tiếp với dụng cụ phục vụ một phương thức bầu cử cụ
thể nào đó là biểu hiện bắt buộc của nguyên tắc bầu cử "trực tiếp",
nhất là khi luật bầu cử cho phép sử dụng những phương thức bầu cử khác nhau. Nếu
quan niệm việc cử tri phải tự mình viết phiếu và bỏ nó vào thùng phiếu là thể
hiện bắt buộc cử bầu cử "trực tiếp", thì cũng không thể
chấp nhận những trường hợp phải nhờ người khác viết hộ hay bỏ hộ lá phiếu vào
thùng phiếu. Khi đó, không thể dùng nguyên tắc bầu cử "phổ
thông" để biện hộ cho các trường hợp ngoại lệ, bởi vì nguyên tắc ấy
chỉ đảm bảo quyền bầu cử của những công dân có ý muốn và có đủ khả năng tham
gia bầu cử.
Thông thường, nếu quy định cử
tri phải tự mình viết phiếu và bỏ nó vào thùng phiếu, hay không chấp nhận "bầu
bằng cách gửi thư", thì lý do chính đáng không phải là để thực hiện
nguyên tắc bầu cử "trực tiếp", mà để đảm bảo tính đích thực
(rằng lá phiếu đúng là của một người có quyền tham gia bỏ phiếu), để hạn chế
tiêu cực, để thực thi nguyên tắc bình đẳng (mỗi người chỉ thể hiện quan điểm của
mình thông qua một lá phiếu có giá trị bình đẳng với các lá phiếu khác), và để
đảm bảo bí mật trong bầu cử.
Như vậy, từ "trực
tiếp" trong thuật ngữ "bầu cử trực tiếp" được dùng để thể hiện mối
quan hệ bầu cử giữa cử tri và những người ứng cử, chứ không thể hiện mối quan hệ
giữa cử tri với các dụng cụ phục vụ một phương thức bầu cử cụ thể nào đó.
Dù đích thân cử tri Mỹ trực tiếp viết phiếu và bỏ nó vào thùng phiếu thì cuộc bầu
cử Tổng thống ở Mỹ vẫn là bầu cử gián tiếp. Và dù rất nhiều cử tri Đức tham gia
bầu bằng cách gửi thư thì cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội ở Đức vẫn là bầu cử trực
tiếp.
Tiếc rằng, trong giới cầm quyền
và giới luật gia Việt Nam lại phổ biến một cách hiểu ngược lại. Chẳng hạn, tài
liệu "Một số kiến
thức pháp luật về quyền con người - Dành cho giáo viên dạy môn Giáo dục công
dân, môn Pháp luật" (Tập
1) của Vụ Phổ biến, Giáo dục Pháp luật thuộc Bộ Tư pháp (Nhà xuất bản Pháp luật
2012) viết rằng:
Nghĩa là, quan hệ trực
tiếp giữa người với người đã bị hiểu nhầm thành quan hệ trực tiếp giữa người với
đồ vật. Thành thử, Luật BCĐBQH 1997 và Luật BCĐBQH 2015 đã dành rất nhiều
câu chữ để quy định về việc cử tri phải trực tiếp viết phiếu rồi bỏ nó vào hòm
phiếu, và lúng túng gỡ rối đống bòng bong ngoại lệ, mà càng gỡ thì lại càng rối.
Trong khi đó, hai luật ấy lại xử lý sai mối quan hệ bầu cử trực tiếp
giữa cử tri và những người ứng cử.
Cần thấy rằng: Quan
hệ bầu cử trực tiếp phải hiện diện giữa mọi cử
tri và mọi người ứng cử. Xét từ góc độ của cử tri, quan
hệ bầu cử trực tiếp có nghĩa là mọi cử tri đều trực
tiếp lựa chọn từ tập hợp toàn thể những người ứng cử tại đơn vị bầu cử
của mình. Ngược lại, xét từ góc độ của người ứng cử, quan hệ
bầu cử trực tiếp có nghĩa là mỗingười ứng cử đều có quyền
được hưởng và chỉ phải chịu sự đánh giá lựa chọn trực tiếp của tập hợp
toàn thể cử tri thuộc đơn vị bầu cử của mình.
Rõ ràng, đối với bầu
cử trực tiếp, không tồn tại bất cứ thế lực nào có tư cách chính đáng để đứng ra
hạn chế phạm vi tập hợp toàn thể của các cử tri hay tập hợp toàn
thể của những người ứng cử. Nếu cử tri chỉ được bầu chọn một
phần nhỏ của tập hợp toàn thể những người ứng cử tại
đơn vị bầu cử của mình, hay nếu người ứng cử chỉ được hay phải chịu sự phán chọn
của một phần nhỏ của tập hợp toàn thể cử tri thuộc đơn
vị bầu cử của mình, thì tức là có thế lực xông vào chiếm lĩnh vai trò trung
gian, đứng ra cắt xén và phá vỡ tính toàn vẹn của mối quan hệ trực tiếp với tập
hợp toàn thể. Điều đó đương nhiên là vi phạm nguyên tắc bầu cử "trực
tiếp".
Lưu ý rằng, sự lựa chọn của tập
hợp toàn thể cử tri đối với những người ứng cử đại biểu Quốc hội
chỉ có thể thực hiện thông qua lá phiếu của các cử tri trong ngày bầu cử Quốc hội.
Tài liệu "Một số kiến thức pháp luật về quyền con người - Dành cho
giáo viên dạy môn Giáo dục công dân, môn Pháp luật" (đã dẫn ở
trên) viết rằng:
Tức là cử tri chỉ được "thể
hiện ý chí của mình qua lá phiếu", đương nhiên là bỏ
tại địa điểm bỏ phiếu trong ngày bầu cử. Không thể chấp nhận việc một
nhóm nhỏ cử tri sử dụng võ miệng tấn công người ứng cử tại cái gọi là "Hội
nghị cử tri", hòng loại bỏ những người tự ứng cử ra khỏi danh sách ứng
cử, tiếp diễn trò đấu tố đã từng hoành hành trong cải cách ruộng đất.
Tập hợp toàn thể những người ứng cử bao gồm hai dạng. Dạng thứ nhất là những
người được các tổ chức chính trị đề cử. Dạng thứ hai là những người tự ứng cử. Ở
đây ta không thảo luận về cơ chế mà các tổ chức chính trị áp dụng để chọn người
đưa vào danh sách đề cử của họ, bởi đó là chuyện nội bộ của các tổ chức ấy. Điều
đáng quan tâm là số phận của những người tự ứng cử. Họ là ai? Nói chính xác
hơn: Những ai thuộc vào diện tự ứng cử để cho cử tri lựa chọn trong ngày bầu cử?
Đương nhiên, những người đó phải chính thức đăng ký ứng cử và thỏa
mãn những tiêu chuẩn pháp quy hợp hiến có thể dễ dàng xác định
một cách chính xác.
Cần nhấn mạnh tính pháp
quy hợp hiến, vì không thể dùng những quy định pháp luật vi hiến để cản
trở công dân thực hiện quyền hiến định. Ví dụ: Điều 3 Luật BCĐBQH
2015 quy định "người
ứng cử đại biểu Quốc hội phải đáp ứng các tiêu chuẩn của đại biểu Quốc hội quy
định tại Luật tổ chức Quốc hội". Trong khi đó, Điều 22 Luật tổ chức
Quốc hội quy
định rằng đại biểu Quốc hội phải "có trình độ văn hóa".
Và như vậy, giả sử Hiến pháp 1992 còn có hiệu lực, thì Điều 3 Luật BCĐBQH 2015
sẽ trở nên vi hiến, vì Điều 54 Hiến pháp
1992 quy định rằng "công
dân, không phân biệt… trình độ văn hoá... đủ hai mươi mốt
tuổi trở lên đều có quyền ứng cử vào Quốc hội". Song, căn cứ vào Hiến
pháp hiện hành thì Điều 3 Luật BCĐBQH 2015 không còn bị vi hiến như vậy nữa, bởi
vì Điều 27 Hiến pháp
2013 đã gạch bỏ mệnh đề "không
phân biệt… trình độ văn hoá".
Hơn nữa, chỉ có thể đòi hỏi người
ra ứng cử phải đáp ứng những tiêu chuẩn pháp quy có thể dễ dàng xác
định một cách chính xác. Vì nếu không hạn chế trong phạm vi những tiêu
chuẩn như vậy, thì ai sẽ là người có đủ khả năng và tư cách để phán xét, xem
đương sự có đáp ứng hay không? Chẳng hạn, có thể căn cứ vào giấy khai sinh để
xác định xem đương sự đã đủ 21 tuổi trở lên hay chưa. Hay căn cứ vào bằng tốt
nghiệp để xác định xem đương sự đã tốt nghiệp phổ thông hay chưa. Luật Bầu cử CHLB Đức
(Điều 20) chỉ
đưa ra một tiêu chuẩn bắt buộc duy nhất đối với những người tự ứng cử, là phải
xuất trình chữ ký ủng hộ của ít nhất 200 cử tri ở cùng đơn vị bầu cử, bởi vì đó
là tiêu chuẩn có thể kiểm chứng dễ dàng. Nói chung, những tiêu chuẩn
kiểu này phải mang tính định lượng và được thể hiện rõ ràng
trên giấy tờ. Còn những tiêu chuẩn định tính thì không ai có thể xác định
một cách tuyệt đối khách quan và chính xác.
Tiếc rằng, tất cả các tiêu chuẩn
của đại biểu Quốc hội được quy định tại Điều 22 của Luật Tổ
chức Quốc hội (số57/2014/QH13, do Quốc hội khóa XIII ban
hành 20/11/2014) đều thuộc loại lơ mơ, dễ nắm bắt... như lươn. Chẳng hạn:
"1. Trung thành với Tổ quốc,
Nhân dân và Hiến pháp..."
"2. Có phẩm chất đạo đức tốt,
cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, gương mẫu chấp hành pháp luật; có bản
lĩnh, kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng..."
"3. Có trình độ văn hóa,
chuyên môn, có đủ năng lực, sức khỏe, kinh nghiệm công tác và uy tín để thực hiện
nhiệm vụ đại biểu Quốc hội."
Than ôi, biết làm sao để cân đo
đong đếm lòng trung thành với Tổ quốc? Thỏa thuận Thành Đô thể hiện lòng trung
thành với Tổ quốc nào? Suốt mấy chục năm ròng ngăn cấm việc trình bày sự thật lịch
sử của cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc trong sách giáo khoa, cản trở các thế
hệ sinh sau đẻ muộn tìm hiểu một trong những chương quan trọng nhất của lịch sử
đấu tranh bảo vệ Tổ quốc. Cái thế lực ngăn cấm, cản trở ấy có trung thành với Tổ
quốc hay không? Suốt mấy nhiệm kỳ liên tiếp, Quốc hội đều phớt lờ việc sách
giáo khoa tránh nhắc tới cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc, trận hải chiến
Hoàng Sa năm 1974, trận đánh Gạc Ma bảo vệ Trường Sa năm 1988... Rồi phớt lờ cả
việc chính quyền cản trở, đàn áp những công dân tham gia tưởng niệm các đồng
bào và chiến sĩ đã hy sinh. Điều đó có chứng minh lòng trung thành với Tổ Quốc
của tất thảy đại biểu Quốc hội hay không?
Một Quốc hội bất chấp nguyện vọng
đích thực của Nhân dân, hiến định thể chế xã hội chủ nghĩa đã lụn bại từ lâu,
hiến định vô điều kiện quyền lãnh đạo vĩnh viễn của ĐCSVN, phủ định cả quyền sở
hữu của người dân đối với đất đai đã được khai hoang và thừa kế từ bao đời, thì
có thể coi là trung thành với Nhân dân hay không?
Một Quốc hội từng thông qua bao
điều luật vi hiến, thậm chí 97,59% tổng số đại
biểu Quốc hội đã biểu quyết tán thành thông qua một Hiến pháp vi hiến (tức là Hiến pháp vi phạm chính nó), thì có
thể coi là trung thành với Hiến pháp hay không?
Làm thế nào để xác định "phẩm
chất đạo đức tốt"? "Tốt" theo quan niệm
nào? Theo lập trường ngoại lai giả danh giai cấp, hay lý tưởng thực sự vì Nước
vì Dân? Theo thước đo chuyên chính vô sản cực đoan, hay chuẩn mực dân chủ đích
thực? Những ai trong số leo trèo trên chính trường thực sự "vô
tư"?
Một Quốc hội chưa phế truất được
bất cứ phần tử tham nhũng nào trong bộ máy ngập tràn tham nhũng, thì có thể coi
là"có bản lĩnh, kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng" hay
không?
Những ai không đáp ứng tiêu chuẩn "có
trình độ văn hóa"? Sau một năm cắp sách tới trường thì đã có "có
trình độ văn hóa" lớp 1. Gắng 12 năm thì "có trình độ
văn hóa" lớp 12. Thậm chí, mù chữ mà biết hát xẩm thì cũng ít nhiều "có
trình độ văn hóa" dân gian. Vậy thì đại biểu Quốc hội phải "có
trình độ văn hóa" tầm nào, sao không viết rõ?
Thông qua một bản hiến pháp với
đầy lỗi sơ đẳng với vẻn vẹn hai phiếu trắng và không hề có phiếu chống, thì có phải
tất cả các đại biểu Quốc hội đều "có đủ năng lực... để thực hiện
nhiệm vụ đại biểu Quốc hội", hay không?
Hỏi lịch sự như vậy thôi, chứ
dù thận trọng đến đâu thì cũng có thể khẳng định rằng: Quá nhiều đại biểu Quốc
hội KHÔNG"đáp ứng các tiêu chuẩn của đại biểu Quốc hội quy định tại Luật
tổ chức Quốc hội".
Có hai câu hỏi nảy sinh ở đây:
- Một là, nếu bản thân các đại
biểu Quốc hội đương nhiệm còn không "đáp ứng các tiêu chuẩn của đại
biểu Quốc hội quy định tại Luật tổ chức Quốc hội", thì có quyền đòi hỏi "người
ứng cử đại biểu Quốc hội phải đáp ứng các tiêu chuẩn của đại biểu Quốc hội quy
định tại Luật tổ chức Quốc hội", hay không?
- Hai là, có thể dùng cái cơ chế
và bộ máy đã từng tuyển chọn ra biết bao đại biểu Quốc hội không đáp ứng các
tiêu chuẩn… để chọn lọc những người ứng cử, hay không?
Câu trả lời tất nhiên là KHÔNG
và KHÔNG.
Rõ ràng, không thể
dùng những tiêu chuẩn vu vơ, khó xác định chính xác, như các tiêu chuẩn của đại
biểu Quốc hội được quy định tại Luật Tổ chức
Quốc hội số 57/2014/QH13, để làm lý do gạt bỏ một số người ứng cử khỏi danh sách ứng cử.
Nếu tồn tại tiêu chuẩn định tính hợp lý hợp pháp nào đó đối
với những người ứng cử đại biểu Quốc hội, thì từng cử tri sẽ tự mình xem xét và
đánh giá những người ứng cử, để đưa ra kết luận và quyết định cho riêng mình, rằng
bản thân sẽ bầu chọn ai. Không có tổ chức hay cá nhân nào có đủ tư cách đứng ra
làm việc ấy, thay cho bản thân các cử tri. Và hiển nhiên, không thể chấp nhận thủ đoạn
được triển khai tại các "Hội nghị cử tri", trong đó huy động
một nhúm cử tri nhân danh toàn thể cử tri để phán xét và buộc tội những người tự
ứng cử, hòng loại họ ra khỏi danh sách ứng cử.
Chính vì thế, nếu
người nào đó muốn tự ứng cử và đáp ứng được những tiêu chuẩn định lượng hợp hiến
hợp pháp, thì cơ quan tổ chức bầu cử không được phép ngăn cản người ấy ứng cử. Mà
theo Hiến pháp và Luật BCĐBQH hiện hành, thì người ứng cử đại biểu
Quốc hội chỉ cần là công dân nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và chỉ phải
thỏa mãn một tiêu chuẩn định lượng duy nhất là "đủ hai
mươi mốt tuổi trở lên".
Vậy mà Điều 43 Luật BCĐBQH
1997 lại cho phép Hội nghị hiệp
thương "lựa chọn, lập danh sách chính thức những người
ứng cử đại biểu Quốc hội", và Điều 48 Luật BCĐBQH
2015 sửa tên danh sách ấy
thành "danh sách những người đủ tiêu chuẩn ứng cử đại biểu Quốc hội".
Dù gọi tên danh sách thế nào, thì về thực chất cũng là loại
bỏ bớt một số người ứng cử.
Như đã viết ở trên, ta không
bàn đến thành phần được Đảng Cộng sản Việt Nam và các tổ chức chính trị tham
gia Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đề cử, nên cũng không thảo luận về việc các tổ chức
ấy dùng cơ chế "hiệp thương" để sàng lọc và thiết lập
danh sách đề cử của họ. Song phải khẳng định rằng: Hội nghị hiệp
thương không có tư cách chính đáng để loại bỏ bớt những người tự ứng cử không hề
tham gia hiệp thương, cũng như những người được các tổ chức không tham gia hiệp
thương đề cử.
Để ngụy tạo tính chính đáng,
trong Luật BCĐBQH 2015, Điều 48 quy định rằng "Hội nghị hiệp
thương lần thứ ba căn cứ vào… kết quả lấy ý kiến cử tri để
lựa chọn, lập danh sách những người đủ tiêu chuẩn ứng cử đại biểu Quốc hội". Mà
theoĐiều 44 thì "việc tổ chức lấy ý kiến cử
tri được thực hiện theo quy định tại Điều 45 của Luật này", tức tại cái gọi là "Hội nghị cử
tri", thứ "được tổ chức tại thôn, tổ dân phố nơi
người ứng cử đại biểu Quốc hội cư trú thường xuyên", và ở cả một số
cơ quan, nơi người ứng cử làm việc.
Gọi "Hội nghị cử
tri" là vô tình lạm danh hay cố tình lừa dối. Bởi vì số cử tri
tham gia "Hội nghị cử tri" chỉ chiếm chưa đến một phần
nghìn cử tri của đơn vị bầu cử. Thật vậy, trong cuộc bầu cử đại biểu Quốc
hội Việt Nam khóa XIII vào năm 2011, cả nước có 62.313.605 cử tri và được chia
thành 183 đơn vị bầu cử. Như vậy, bình quân mỗi đơn vị bầu cử có khoảng 340.512 cử tri. Nếu một thôn hay tổ dân
phố có khoảng 200 cử tri, thì nó chỉ chiếm khoảng 0,059% (tức là chưa đến 6 phần vạn) toàn bộ cử
tri của đơn vị bầu cử. Trên thực tế, khi cần loại bỏ người tự ứng cử thì tỷ lệ
cử tri tham gia "Hội nghị cử tri" còn thấp hơn hẳn,
vì chỉ những phần tử cốt cán đắc lực mới được huy động đến.
Như vậy, chỉ có một phần siêu
nhỏ cử tri thuộc đơn vị bầu cử tham gia cùng bộ máy tổ chức bầu cử để loại bỏ một
số người tự ứng cử. Hậu quả là một số người tự ứng cử bị loại bỏ khỏi cuộc bầu
cử chỉ vì ý kiến của một phần siêu nhỏ cử tri, trong khi nguyên tắc bầu cử "trực
tiếp" đảm bảo họ có quyền được hưởng và chỉ phải chịu
sự đánh giá lựa chọn trực tiếp của tập hợp toàn thể cử tri thuộc đơn
vị bầu cử của mình. Đó là cái sai nhìn từ góc độ của người ứng cử. Còn
về phía cử tri, họ chỉ được bầu chọn một phần trong số những người ứng cử,
trong khi nguyên tắc bầu cử "trực tiếp" đòi hỏi họ
phải được trực tiếp lựa chọn từ tập hợp toàn thể những người
ứng cử tại đơn vị bầu cử của mình.
Tóm lại, xét về mọi phương diện, việc
dùng cơ chế "hiệp thương", trong đó có dựa vào ý kiến của cái gọi là
"Hội nghị cử tri", để gạt bỏ bớt những người tự ứng cử là
hành vi chen ngang của thế lực trung gian, nhằm tước bỏ quyền bầu chọn
trực tiếp của cử tri đối với tất cả những người ứng cử, và quyền được lựa chọn
trực tiếp của những người ứng cử bởi toàn thể cử tri. Vì vậy, cơ
chế vi hiến này vi phạm nghiêm trọng nguyên tắc bầu
cử "trực tiếp".
Hoàn cảnh tệ hại có thể xảy ra
đối với không ít cử tri, khi họ cho rằng tất cả các vị có tên trong danh sách ứng
cử do bộ máy tổ chức bầu cử đưa ra đều "có vấn đề" (chẳng
hạn không kém năng lực thì lại tham nhũng…). Và các cử tri đó chỉ tín nhiệm mấy
người thuộc diện tự ứng cử, song đã bị gạt bỏ trước ngày bầu cử bởi cơ chế "hiệp
thương". Vậy là chẳng còn ai trong danh sách ứng cử đáng để họ bầu nữa.
Nghĩa là cử tri có quyền bầu cử trực tiếp, nhưng lại là trực tiếp với
hư vô.
3.4. Bình đẳng... hơn người
Quá trình "hiệp
thương" (được quy định tại Mục 2, Chương 5 của Luật BCĐBQH 1997 và Luật BCĐBQH 2015) do Đoàn Chủ tịch Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam và Ban thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương điều khiển. Và thành phần tham gia chỉ có thêm đại diện ban
lãnh đạo của các tổ chức thành viên của Mặt trận và đại diện Ban thường trực Uỷ
ban Mặt trận Tổ quốc các cấp huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh. Trong
khi đó, Khoản 1 Điều 9 Hiến pháp
2013 viết:
"Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của
tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và các cá
nhân tiêu biểu trong các giai cấp, tầng lớp xã hội, dân tộc, tôn giáo, người Việt
Nam định cư ở nước ngoài."
Tức là Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam chỉ là một "liên hiệp tự nguyện…". Chắc chắn có rất
nhiều cá nhân và tập thể người Việt Nam không hề "tự nguyện" tham
gia Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Từ thành phần ấy, có thể có nhiều người tự ứng cử,
hoặc được các tổ chức không tham gia Mặt trận đề cử. Ngoài ra, còn có cả những
người tham gia các tổ chức thành viên của Mặt trận, nhưng không được các tổ chức
đó đề cử, mà tự ra ứng cử. Ta tạm gọi họ là những người ứng cử phi chính thống.
Trớ trêu thay, họ và đại diện của họ không hề được tham gia "hiệp
thương", nhưng số phận ứng cử của họ lại do cơ chế "hiệp
thương" quyết định.
Trên thực tế, phần lớn những
người ứng cử phi chính thống bị Mặt trận Tổ quốc Việt Nam gạt bỏ khỏi danh sách
ứng cử. Vì
"Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam là bộ phận của hệ thống chính trị của nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Namdo Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo…" (Điều 1 Luật Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam số 14/1999/QH10)
Mà lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam thì khó chấp nhận những người ứng cử phi chính thống.
Hệ quả tất yếu là đa số những
người ứng cử phi chính thống không được hưởng sự bầu chọn của toàn thể cử tri
trong ngày bầu cử, mà bị loại bỏ từ trước bởi cơ chế "hiệp
thương", trong khi hơn tám trăm người được bộ máy tổ chức của ĐCSVN đề
cử hay chấp nhận cho ứng cử thì được hưởng sự bầu chọn ấy. Đó rõ ràng là bất
bình đẳng giữa những người ứng cử.
Chưa đến một phần nghìn cử tri
của đơn vị bầu cử được tham gia "Hội nghị cử tri" để
tôn vinh nhằm ủng hộ, hay phê phán nhằm loại bỏ một số người ứng cử cụ thể nào
đó, trong khi hơn 999 phần nghìn cử tri còn lại không được tham gia bày tỏ quan
điểm về người ứng cử ấy. Như vậy là bất bình đẳng giữa các cử tri.
Điều 66 Luật BCĐBQH
2015 quy định về cái gọi
là "Hội nghị tiếp xúc cử tri", với "thành phần
tham dự hội nghị tiếp xúc cử tri gồm đại diện các cơ quan, tổ chức, đơn vị
và cử tri ở địa phương", và tất nhiên có cả những người được
chấp nhận ứng cử tại "địa phương" ấy, tức là tại đơn
vị bầu cử tương ứng. Hội nghị kiểu ấy đã từng diễn ra trước đây, nhưng chẳng mấy
cử tri được biết. Ngay cái loa phường, thường ra rả đủ thứ, cũng chưa bao giờ
tiết lộ, rằng vụ "tiếp xúc cử tri" sắp xảy ra bao giờ
và ở đâu. Vả lại, nếu vô tình biết được thì cũng chẳng được tham gia. Dù có bất
bình thì cử tri cũng khó lòng mà khiếu nại, vì hoạt động này chỉ được đề cập rất
sơ sài tại Điều 52 của Luật
BCĐBQH 1997.
"b) Đại diện Ban thường trực
Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp tổ chức hội nghị tiếp xúc cử tri chủ trì
cuộc tiếp xúc cử tri, giới thiệu và đọc tiểu sử tóm tắt của người ứng cử."
"c) Từng người ứng cử báo
cáo với cử tri về chương trình hành động của mình nếu được bầu làm đại biểu Quốc
hội, đại biểu Hội đồng nhân dân."
"d) Cử tri nêu ý kiến, đề
đạt nguyện vọng của mình với những người ứng cử. Người ứng cử và cử tri trao đổi
dân chủ, thẳng thắn và cởi mở những vấn đề cùng quan tâm."
Đặc biệt, để không cử tri nào
có thể kêu ca rằng mình không biết mà tham gia, Điều 66 Luật BCĐBQH
2015 còn quy định rõ ràng tại
Khoản 1 rằng: "Ủy ban nhân dân nơi tổ chức hội nghị tiếp xúc cử
tri có trách nhiệm thông báo về thời gian, địa điểm tổ chức hội nghị để cử
tri tham dự đông đủ." Như vậy là tòi ra cái đuôi giả tạo hay ấu
trĩ của những người soạn thảo và thông qua luật này.
Đương nhiên, khi đã viết chung
chung là "tiếp xúc cử tri" (chứ không phải là "tiếp
xúc với đại biểu cử tri") thì có nghĩa là tiếp xúc với tất cả các cử
tri muốn tham gia, và cái chất "tất cả" cũng hiện ra
trong từ "đông đủ". Để giới thiệu với cử tri về những người
ứng cử và chương trình hành động của họ, cũng như để cử tri "đề đạt
nguyện vọng của mình với những người ứng cử", thì đối tượng của "Hội
nghị tiếp xúc cử tri" hiển nhiên phải là tất cả cử tri của đơn vị
bầu cử tương ứng. Mà, như đã viết ở cuối phần trên, bình quân mỗi đơn vị bầu cử
có khoảng 340.512 cử tri. Vậy thì có nơi nào có thể chứa một"Hội nghị
tiếp xúc cử tri" với ngần ấy người tham gia? Và hội nghị phải kéo
dài bao lâu để bằng ấy người "đề đạt nguyện vọng của mình với những
người ứng cử"? Độ khả thi xấp xỉ bằng 0, mà vẫn luật định bằng được.
Đây cũng là một ví dụ về thói hình thức, hiến định bất chấp thực tế, và càng
không định thực thi thì càng hiến định hào phóng.
Kiểu gì thì cũng không thể tổ
chức một hình thức gặp gỡ hợp lý nào giữa những người ứng cử và tất cả cử tri,
để giới thiệu về những người ứng cử và để cử tri trình bày nguyện vọng của
mình. Vậy mà họ đã và sẽ còn tiếp tục tổ chức màn kịch giả tạo ấy. Hệ quả đương
nhiên, là chỉ có một vài phần nghìn cử tri liên quan được tham gia. Số còn lại
đành bơ vơ ngoài vòng "tiếp xúc". Không thể trình bày
nguyện vọng bản thân đã đành, cộng đồng đại đa số bị bỏ rơi cũng không có điều
kiện tìm hiểu về những người ứng cử mà họ sẽ phải bầu chọn, nên đến ngày bầu cử
đành phải bầu liều. Đó cũng là một biểu hiện bất bình đẳng giữa các cử tri. Từ
đây còn nảy sinh thêm câu hỏi: Khi không được nghe, được biết nguyện vọng của gần
hết cử tri thuộc đơn vị bầu cử của mình, thì các đại biểu Quốc hội có thể đại
diện cho cử tri thuộc đơn vị bầu cử ấy hay không?
Còn một khía cạnh bất bình đẳng
khác của Luật BCĐBQH mà ta không thể không bàn. Điều 48 Luật BCĐBQH
1997 quy định:
"Người ứng cử không được
làm thành viên Ban bầu cử hoặc Tổ bầu cử ở
đơn vị mình ứng cử. Nếu đã là thành viên của Ban bầu cử hoặc Tổ bầu cử ở đơn vị
mình ứng cử thì người ứng cử phải được rút khỏi danh sách
thành viên của tổ chức phụ trách bầu cử đó kể từ ngày được ghi tên vào danh
sách chính thức những người ứng cử."
Chứng tỏ các nhà lập pháp cũng
thừa nhận, rằng việc "vừa thổi còi vừa đá bóng" trong
bầu cử là không ổn. Tuy nhiên, không hiểu do cố ý hay vô tình, mà họ lại viết rằng "người
ứng cử phải được rút khỏi danh sách thành viên…". Viết
như vậy thì có thể hiểu là: Nếu người ứng cử muốn xin rút để thể hiện mình
khách quan thì "phải được (phép) rút", còn nếu không muốn
rút thì thôi.
Lỗi trên đã được khắc phục
trong Luật BCĐBQH 2015 như sau:
Tắm gội như vậy là triệt để, phải
không? Tất nhiên là… KHÔNG. Bởi vì tắm gội kiểu này mới sạch từ rốn trở xuống,
song chưa hề thấm ngực ướt đầu. Điều 27 chỉ quy định "những người ứng
cử đại biểu Quốc hội... không được làm thành viên Ban bầu cử hoặc Tổ bầu cử ở
đơn vị bầu cử mà mình ứng cử". Tiêu đề "Những trường hợp
không được tham gia vào các tổ chức phụ trách bầu cử" của Điều 27
cho thấy: Luật BCĐBQH 2015 không hề cấm những người ứng cử đại biểu Quốc hội
tham gia các tổ chức phụ trách bầu cử cấp cao hơn. Đó là Hội đồng bầu cử quốc
gia và Ủy ban bầu cử ở tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương. Chính hai cấp này mới là nơi nắm "quyền
sinh quyền sát", có khả năng thao túng kết quả bầu cử nhiều nhất.
Vì sao khi tắm gội lại chừa ra
cái đầu, là Hội đồng bầu cử quốc gia, tổ chức lãnh đạo bầu cử trên phạm vi cả
Nước? Đã từ lâu, chẳng mấy ai còn ngây thơ, đến mức tin tưởng hay đòi hỏi lãnh
đạo cao cấp phải tử tế và gương mẫu. Do đó, việc Luật BCĐBQH 1997 và Luật
BCĐBQH 2015 né tránh đối tượng đáng phải khống chế nhất chính là dung túng việc
lạm dụng quyền lực. Nhờ thế, các siêu ứng cử viên có thể tham gia chèo lái Hội
đồng bầu cử và các Ủy ban bầu cử, và nếu muốn thì có thể tác động để đưa ra các
quyết định có lợi cho việc ứng cử và trúng cử của bản thân. Riêng việc chọn cho
bản thân một đơn vị bầu cử với đa số cử tri thuộc loại "dễ bảo" và
đưa vào danh sách ứng cử tại đó những đối thủ "nhẹ ký"thì
đã có thể yên tâm lắm rồi.
Theo quy định tại Điều 8 Luật
BCĐBQH 1997, được sửa đổi theo Luật số 31/2001/QH10, và Điều 7 Luật BCĐBQH
2015, tổng số đại biểu Quốc hội được
giới hạn bởi con số năm trăm. Cho nên, lợi thế giúp người này trúng cử có thể
là điều bất lợi khiến người khác thất cử. Do đó, việc Luật BCĐBQH
1997 và Luật BCĐBQH 2015 để cho các siêu ứng cử viên được phép tham gia Hội đồng
bầu cử và Uỷ ban bầu cử ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương là vi phạm
nguyên tắc "bình đẳng" trong bầu cử.
Hẳn là, tất cả mọi người
đều bình đẳng, nhưng thế lực cầm quyền còn bình đẳng hơn. Lâng
lâng trên vị thế vời vợi "bình đẳng hơn người" ấy, mới
dễ cao hứng mà cảm thấy "cao hơn gấp vạn lần so với dân chủ tư sản".
Hiển nhiên, khi tạo ra một cơ
chế bầu cử với nhiều khía cạnh bất bình đẳng trầm trọng như vậy, Luật
BCĐBQH 1997 và Luật BCĐBQH 2015 không chỉ vi phạm nguyên tắc bầu cử "bình
đẳng", được hiến định tại Điều 7 Hiến pháp
1992 và Điều 7 Hiến pháp
2013. Chúng còn vi phạm nghiêm trọng
cả nguyên tắc "Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật",
được hiến định tại Điều 52 Hiến pháp
1992 và Điều 16 Hiến pháp
2013.
3.5. Phổ thông mà bỏ sót
Khi một số người tự ứng cử bị
loại khỏi danh sách ứng cử, mặc dù họ hoàn toàn có quyền ứng cử, như đã đề cập ở
trên, thì có nghĩa là quyền ứng cử của họ đã bị tước bỏ một cách phi lý. Vì vậy,
việc dùng cơ chế "hiệp thương" để loại bỏ họ cũng vi
phạm cả nguyên tắc bầu cử "phổ thông".
Xét từ góc độ cử tri, thì
nguyên tắc bầu cử "phổ thông" còn bị vi phạm tràn
lan hơn. Có những trường hợp, nhìn qua thì thấy có vẻ ổn thỏa, nhưng thực ra
cũng chẳng hề "phổ thông" chút nào. Chẳng hạn như
trường hợp "trực tiếp với hư vô", đã được xét ở cuối phần
3.3. Đó là hoàn cảnh mà tất cả những người ứng cử được cử tri tín nhiệm đều đã
bị "tổ chức" loại bỏ bằng cơ chế "hiệp
thương", chỉ còn sót lại một danh sách ứng cử bao gồm những nhân vật
mà một số cử tri nào đó cho là đều tệ hại, rặt là "sâu".
Hoàn cảnh trớ trêu ấy có thể xảy
ra, khi đứng đầu một tỉnh lại là loại lãnh đạo như Hồ Xuân Mãn. Nếu ông ta tự
công nhận là mình tệ hại, thì "mã tầm mã ngưu tầm ngưu".
Ngược lại, nếu ông ta thành tâm nghĩ là mình tốt, thì cũng sẽ lựa chọn những
người tốt như mình, mà tốt như thế thì cũng đã quá tệ mất rồi. Đừng chủ quan,
tin rằng cấp trên sẽ uốn nắn, ngăn chặn. Bởi Hồ Xuân Mãn là một
trong ba Bí thư Tỉnh ủy được Ban chỉ đạo Trung ương Cuộc vận động "Học
tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh", dưới sự lãnh đạo trực
tiếp của Tổng Bí thư ĐCSVN Nông Đức Mạnh, vinh danh tại hội nghị biểu dương các
điển hình tiên tiến toàn quốc vào tháng 1 năm 2010.
Đương nhiên, khi đứng trước một
danh sách ứng cử mà bản thân nghĩ là toàn "sâu", mọi cử
tri có lương tâm và trách nhiệm đều phải gạch hết, không thể bầu cho bất cứ
nhân vật nào. Song cả Điều 65 Luật BCĐBQH
1997 và Điều 74 Luật BCĐBQH
2015 đều quy định, rằng phiếu
gạch xóa hết tên những người ứng cử là phiếu bầu không hợp lệ. Vì
sao? Phải chăng họ muốn cử tri phải bầu bằng được ai đó trong danh sách mà họ
đưa ra. Bầu ai cũng được, vì thông thường thì cả danh sách ứng cử đều là người
của họ. Nhưng ít nhất phải bầu cho một người. Xem chừng cũng tương tự kiểu tư
duy "bố già" : "Không tín nhiệm thằng
cướp, thì tối thiểu cũng phải chấp nhận thằng trộm, vì chúng là con tao." Cuối
cùng, lương tâm và trách nhiệm buộc một số cử tri phải quyết định gạch
xóa hết tên những người ứng cử, tức là đành phải chấp nhận để phiếu bầu của
mình trở thành phiếu không hợp lệ. Mất công đi bầu cử, mà phiếu bầu
lại không được tính là hợp lệ, thì còn tệ hơn là không đi bầu. Thành thử, về thực
chất, Điều 65 Luật BCĐBQH
1997 và Điều 74 Luật BCĐBQH
2015đã tước mất quyền bầu cử của những
cử tri có lương tâm và trách nhiệm ấy. Tức là chúng vi phạm nguyên tắc bầu cử"phổ
thông".
Vừa tước quyền bầu cử hiến định
của công dân, vừa vi phạm nguyên tắc bầu cử "phổ thông",
hiển nhiên cái quy định "phiếu gạch xóa hết tên những người ứng
cử là phiếu bầu không hợp lệ" vi hiến, cho dù chiểu theo bất kỳ hiến
pháp nào của chế độ này. Đáng lưu ý, là phiếu không bầu cho ai từng được coi là
hợp lệ trong Sắc lệnh của Chủ tịch
nước ngày 17 tháng 10 năm 1945 - Số 51. Nó tiếp tục được thừa nhận là hợp lệ
trong Luật BCĐBQH 1959 (Điều
44) và Luật BCĐBQH 1980 (Điều
45). Chỉ đến Luật BCĐBQH 1992 (được Quốc hội khóa VIII thông qua ngày
15/4/1992) thì phiếu không bầu cho ai mới bị coi là không hợp lệ (Điều 48). Rồi quy định vi hiến này được tiếp tục duy trì
trong Luật BCĐBQH 1997 (Điều
65) và Luật BCĐBQH 2015 (Điều
74).
Một dạng bầu cử khác, có vẻ như
quán triệt nguyên tắc bầu cử "phổ thông", nhưng chẳng phải
là bầu cử "phổ thông" đích thực, mà hoàn toàn hình
thức, đó là tổ chức cho cử tri vãng lai tham gia bỏ phiếu bầu cử tại những địa
phương xa lạ. Điều 12 Luật BCĐBQH
1997 và Điều 11 Luật BCĐBQH
2015 cho phép thành lập khu vực
bỏ phiếu tại bệnh viện, nhà an dưỡng... và thậm chí ở cả trại tạm giam... Nhưng
khi bệnh viện, nhà an dưỡng, trại giam... ở quá xa nơi cư trú, nằm ngoài phạm
vi đơn vị bầu cử của cử tri, thì đó chỉ là quyền tham gia trò chơi bầu cử mà
thôi. Bởi vì những người đi chữa bệnh, hay an dưỡng, hay bị tạm giam... chỉ
quan tâm và có hiểu biết nào đó để bầu ra những đại biểu Quốc hội đại diện cho
địa phương mà họ đã và sẽ trở về đó sinh sống, chứ không phải bầu ra những đại
biểu đại diện cho nơi mà họ đang có mặt chỉ một thời gian ngắn (xem Phụ lục 3).
Những cử tri đang di chuyển
trong nước, ra xa đơn vị bầu cử cử mình, vì lý do công việc hay vì những
lý do khác, cũng phải chịu chung số phận giống như những người đi chữa bệnh hay
bị tạm giam ở xa nơi cư trú. Hoặc là chịu mất quyền bỏ phiếu, hoặc là tham gia
bầu cử một cách hình thức ở chốn xa xôi để bầu cho những đối tượng hoàn toàn xa
lạ, không liên quan đến bản thân.
Còn những cử tri đi ra nước
ngoài trong thời gian bầu cử thì chỉ còn nước chịu mất quyền bỏ phiếu, vì hình
thức bỏ phiếu bằng cách gửi thư không được chấp nhận. Đặc biệt, những người được
cử ra nước ngoài làm nhiệm vụ nghiễm nhiên bị mất quyền bầu cử (ví dụ như nhân
viên các cơ quan ngoại giao, cơ quan thương vụ Việt Nam ở nước ngoài, hay quân
nhân được phái đi tham chiến hoặc gìn giữ hòa bình ở nước ngoài). Vắng mặt vì
lý do riêng tư thì đã đành, nhưng đi thi hành công vụ mà lại bị mất quyền bầu cử,
thì phải lý giải sao đây?
Đó là chưa kể đến đông đảo công
dân Việt Nam đang sinh sống và làm việc ở nước ngoài. Họ thuộc vào cộng đồng
quan trọng, có nhiều đóng góp cho Tổ quốc, đến mức Hiến pháp 2013 (Điều
18) phải bổ sung thêm khẳng định: "Người
Việt Nam định cư ở nước ngoài là bộ phận không tách rời của cộng đồng dân tộc
Việt Nam." Thế mà Luật BCĐBQH 2015(được ban hành khi Hiến pháp 2013 có hiệu lực) vẫn
bỏ rơi "bộ phận không tách rời" ấy.
Tóm lại, cả Luật BCĐBQH 1997 và
Luật BCĐBQH 2015 đều phớt lờ quyền bầu cử và ứng cử của rất nhiều công dân Việt
Nam đang ở nước ngoài vào thời điểm diễn ra bầu cử đại biểu Quốc hội. Vì thế,
chúng vi phạm cả hai nguyên tắc bầu cử"phổ thông" và "bình
đẳng".
3.5. Sát thủ hóa trang thánh thiện
"Người trúng cử phải là
người ứng cử đạt số phiếu bầu quá một nửa tổng số phiếu bầu hợp lệ."
Nếu số người trúng cử đại biểu
Quốc hội chưa đủ số lượng được bầu đã ấn định cho đơn vị bầu cử, thì có thể có
bầu cử thêm. Đối với cuộc bầu cử thêm, Điều 79 Luật BCĐBQH
2015 quy định:
"Trong cuộc bầu cử thêm, cử
tri chỉ chọn bầu trong danh sách những người ứng cử tại cuộc bầu cử đầu tiên
nhưng không trúng cử. Người trúng cử là người được quá
một nửa tổng số phiếu bầu hợp lệ và có số phiếu bầu cao hơn. Nếu
bầu cử thêm mà vẫn chưa đủ số lượng đại biểu được bầu đã ấn định cho đơn vị bầu
cử thì không tổ chức bầu cử thêm lần thứ hai."
Hai nội dung pháp định quan trọng
nhất là: Trong cả hai cuộc bầu cử ban đầu và bầu cử thêm, người trúng cử buộc
phải"được quá một nửa tổng số phiếu bầu hợp lệ", và "nếu
bầu cử thêm mà vẫn chưa đủ số lượng đại biểu được bầu... thì không tổ chức bầu
cử thêm lần thứ hai". Điều đó chứng tỏ các nhà lập pháp rất coi trọng
ý kiến của đa số (quá bán) cử tri, đúng không? Quy định như vậy thì thánh thiện
quá, đúng không? Xin đừng vội trả lời, mà hãy kiên trì đọc tiếp, mấy phút sau
trả lời cũng không muộn.
Giả sử đơn vị bầu cử được bầu một
đại biểu Quốc hội. Nếu, đối với cử tri, uy tín của tất cả những người ứng cử
không quá chênh lệch, thì khi danh sách ứng cử có ba người, tỷ lệ số phiếu bầu
cho mọi người ứng cử sẽ quanh quẩn xung quanh 33%, và không ai trong số họ "được
quá một nửa tổng số phiếu bầu hợp lệ". Trong trường hợp uy tín của những
người ứng cử khá khác biệt, thì chỉ cần số người ứng cử đủ nhiều, vẫn có thể xảy
ra tình trạng không có ai "được quá một nửa tổng số phiếu bầu hợp
lệ". Tương tự như vậy, kể cả khi đơn vị bầu cử được bầu nhiều hơn một
đại biểu Quốc hội, danh sách ứng cử đủ dài sẽ có thể dẫn đến kết cục không có
ai "được quá một nửa tổng số phiếu bầu hợp lệ". Tức là,
theo quy định của Điều 78 Luật BCĐBQH
2015, không có ai trúng cử cả.
Trong cuộc bầu cử thêm, cử tri vẫn đứng trước danh sách ứng cử cũ. Dưới giả thiết
rằng cử tri bầu cử nghiêm túc theo lập trường kiên định, thì kết quả không hề
thay đổi. DoĐiều 79 Luật BCĐBQH
2015 quy định "không
tổ chức bầu cử thêm lần thứ hai", nên cuối cùng đơn vị bầu cử đó sẽ
không bầu được đại biểu nào cả. Và nếu việc ứng cử là thực sự tự do, toàn quốc
có thể có rất nhiều người ứng cử, đến mức rất nhiều đơn vị không bầu được đại
biểu nào, hoặc chỉ bầu được quá ít đại biểu. Hậu quả có thể xảy ra là cả nước
chỉ bầu được rất ít đại biểu Quốc hội (xem Phụ lục 4).
Với đội ngũ quá lơ thơ, Quốc hội
không thể đảm đương nhiệm vụ hiến định. Thậm chí, kể cả khi chỉ định đóng vai
trò của một sân khấu chính trị hình thức, thì Quốc hội cũng không có đủ diễn
viên để đóng.
Để một trạng thái bế tắc như vậy
không thể xảy ra, nếu không rắp tâm ngụy tạo kết quả bầu cử, thì thế lực cầm
quyền chỉ còn có một cách duy nhất, là khống chế số người ứng cử dưới một mức "an
toàn" nào đó. Đối với lần bầu cử này, chẳng cần phải đợi lâu để
thấy được hành vi khống chế số người ứng cử. Mặc dù Nghị quyết số 41/NQ-HĐBCQG
(do Hội đồng bầu cử quốc gia ban hành ngày 29/1/2016) quy định thời hạn nhận hồ sơ ứng cử đại biểu
Quốc hội khóa XIV bắt đầu từ ngày 17/2/2016 và kết thúc vào ngày 13/3/2016,
nhưng một số báo đã đưa tin vào ngày 17/1/2016 (tức 12 ngày trước khi Nghị quyết
số 41/NQ-HĐBCQG ra đời và đúng một tháng trước khi thời hạn nhận hồ sơ ứng cử bắt
đầu), rằng "Chủ tịch Quốc
hội Nguyễn Sinh Hùng cho biết đã xác định được số lượng ứng cử đại biểu Quốc hội
khóa XIV là 896 người".
Chẳng có gì đáng bàn nếu đảng cầm
quyền tự hạn chế số người trong danh sách đề cử của đảng mình và các tổ chức
liên minh, bởi đó là công việc nội bộ của họ. Song hiển nhiên thế lực cầm quyền
không đơn phương tự vẫn, mà tìm mọi cách để hạn chế số lượng ứng cử viên độc lập
và số lượng đề cử của các tổ chức không thuộc liên minh cầm quyền. Cơ chế"hiệp
thương" là một trong những thủ thuật được sử dụng trên thực tế để
khống chế số người ứng cử.
Hành vi ấy không chỉ vi phạm
thô bạo quyền ứng cử của công dân, mà còn vi phạm cả quyền bầu cử, bởi nó hạn
chế đáng kể phạm vi bầu chọn của công dân. Và hiển nhiên là vi phạm nguyên tắc
bầu cử "phổ thông".
Như vậy, cái nguyên
tắc xác định người trúng cử được quy định tại Điều 78 và Điều 79 của Luật
BCĐBQH 2015, và cũng đã được quy định tại Điều 70 và Điều 71 cùa Luật BCĐBQH
1997, tất yếu dẫn đến tình trạng vi phạm trầm trọng quyền ứng cử và bầu cử của
công dân trên quy mô toàn quốc. Nó chính là sát thủ đích
thực, được hóa trang thánh thiện, như thể rất coi trọng ý kiến
của đa số cử tri. Nếu nó còn tồn tại thì quyền ứng cử và bầu cử của công dân nhất
định bị xâm phạm, nếu không bởi thủ thuật "hiệp thương" thì
cũng bởi thủ đoạn "sát thương" nào đó. Chính vì vậy,nguyên
tắc xác định người trúng cử được quy định trong Luật BCĐBQH 1997 và Luật BCĐBQH
2015 chắc chắn là vi hiến, cho dù chiểu theo bất kỳ hiến pháp nào của chế độ
này.
Tất nhiên, ở các nước thật sự
dân chủ, chẳng kẻ nào dám mơ đến việc dùng võ bẩn để loại bớt người ứng cử,
hòng đảm bảo quân số cần thiết cho Quốc hội. Vậy thì tại sao Quốc hội của họ lại
không bao giờ bị lâm vào cảnh thiếu đại biểu trầm trọng, mặc dù công dân có thể
ứng cử hoàn toàn tự do? Đơn giản vì luật bầu cử của họ không có quy định ngây
ngô như luật của Việt Nam.
Luật Bầu cử CHLB Đức quy định: "Trúng cử là người ứng
cử nhận được nhiều phiếu nhất", nghĩa là không hề đòi hỏi người trúng
cử phải "được quá nửa số phiếu hợp lệ". Quy tắc bầu cử của
Pháp chỉ đòi hỏi người trúng cử
phải được hơn nửa số phiếu bầu trong lần bầu cử ban đầu, còn nếu phải bầu cử lần
thứ hai thì chỉ cần được nhiều phiếu nhất (xem Phụ lục 5).
Đơn giản như vậy, tại sao các
nhà lập pháp Việt Nam lại không quy định tương tự? Câu trả lời chắc sẽ khiến
nhiều người phải ngạc nhiên: Các thế hệ lập pháp trước kia của chế độ này đã từng
quy định tương tự như quy tắc bầu cử của Pháp. Thật vậy, Sắc lệnh của Chủ tịch
nước ngày 17 tháng 10 năm 1945 - Số 51 quy định:
"Điều thứ 56: Phải
có một phần tư (1/4) sổ cử tri (người có quyền bầu cử) toàn tỉnh hay thành phố
có đi bầu thì cuộc bầu cử mới có giá trị. Nếu không, sẽ có cuộc bầu cử thứ
hai."
"Điều thứ 57: Những
người ứng cử phải được hơn một nửa số phiếu bầu (hợp lệ) thì mới được trúng cử."
"Điều thứ 58: Điều
thứ 56 và 57 kể trên không thi hành cho cuộc bầu cử thứ hai. Lần này người ứng
cử nào được nhiều phiếu hơn thì trúng cử."
Tức là khi tiến hành cuộc bầu cử
thứ hai thì không nhất thiết phải một phần tư số cử tri tham gia và người trúng
cử chỉ cần được nhiều phiếu hơn, chứ không còn cần phải được hơn một nửa số phiếu
bầu. Chính vì thế, sau hai lần bầu cử chắc chắn sẽ bầu được đủ số đại biểu cần
thiết.
Cách xác định người trúng cử
trong Sắc lệnh kể trên tiếp tục được duy trì trong Luật BCĐBQH 1959, Luật BCĐBQH 1980và Luật BCĐBQH 1992 (với khác biệt nhỏ, là để không phải bầu cử
lại thì lần bầu cử thứ nhất phải có quá nửa số cử tri tham gia, chứ không phải
một phần tư). Chỉ đến khi ban hành Luật BCĐBQH 1997 (được Quốc hội khóa IX thông qua ngày
17/4/1997, dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Quốc hội Nông Đức Mạnh và Tổng Bí thư
ĐCSVN Đỗ Mười), mới xuất hiện tại Điều 71 đòi hỏi, rằng cả trong lần bầu thêm người
trúng cử cũng phải "được quá nửa số phiếu hợp lệ",
và "nếu bầu cử thêm mà vẫn chưa đủ số đại biểu theo quy định thì
không tổ chức bầu cử thêm lần thứ hai". Rồi "sát thủ hóa
trang thánh thiện" ấy được tiếp tục nuôi dưỡng tại Điều 79 của Luật
BCĐBQH 2015 (được
Quốc hội khóa XIII thông qua ngày 25/6/2015, dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Quốc
hội Nguyễn Sinh Hùng và Tổng Bí thư ĐCSVN Nguyễn Phú Trọng).
Diễn biến kể trên chứng tỏ, dù
không có "sát thủ hóa trang thánh thiện" thì quyền ứng
cử của công dân vẫn có thể bị xâm phạm, và lỗi đó không nhất thiết
do bản thân Quốc hội gây ra. Song cần phải nhấn mạnh rằng: Khi
"sát thủ hóa trang thánh thiện" được Quốc hội luật hóa trong Luật
BCĐBQH, thì quyền ứng cử của công dân chắc chắn bị xâm phạm. Đó là
trách nhiệm không thể chối bỏ của Quốc hội.
Không nhất thiết phải
dùng "sát thủ hóa trang thánh thiện" vẫn có cách
khác để đạt được mục đích, thì tại sao phải luật định nó cho tai tiếng? Chắc hẳn
do hạn chế về khả năng lập pháp và trình độ tổ chức bộ máy nhà nước của các đại
biểu Quốc hội. Mặt khác, có lẽ xuất phát từ tâm lý ngộ nhận hay sĩ diện, cho rằng
ta và người của ta hiển nhiên được tín nhiệm cao, khi bầu cử ít nhất cũng được
quá bán, và nếu thực tế không phải như vậy thì cũng phải cố mà thể hiện như vậy.
Thành thử quy định một cách tràn lan, bầu cử nào cũng phải "quá
bán", và để thực tế không bác bỏ thì thao túng bằng mọi cách để có được
kết quả bầu cử như ý. Vậy là sĩ diện hình thức kéo theo bầu cử hình
thức.
Sự xuất hiện của quy định "phiếu
gạch xóa hết tên những người ứng cử là phiếu bầu không hợp lệ" trong Luật BCĐBQH 1992 và "sát thủ hóa trang thánh
thiện" trong Luật BCĐBQH 1997 là hai ví dụ điển hình về tiến trình phi
dân chủ hóa, diễn ra trong một phần tư thế kỷ qua, ngay trong hệ thống lập
pháp.
Thật chua chát, khi Nhân dân đã
phải tốn bao tiền của để đào tạo và duy trì bộ máy lập pháp, mà chất lượng lập
pháp không tăng theo thời gian, thậm chí còn ngược lại. Thuở mới giành được
chính quyền, lực lượng lập pháp nói riêng và giới cầm quyền nói chung vừa mỏng,
vừa thiếu kiến thức và kinh nghiệm, do ít được học, nhưng chịu học,
nên tránh được nhiều lỗi lập pháp sơ đẳng. Còn ngày nay hậu bối được
học rất nhiều, nhưng lại sinh ra những văn bản pháp luật với chất
lượng quá thấp, như Hiến pháp 2013 và Luật BCĐBQH 2015, phải chăng vì không
chịu học?
Những quy định pháp luật nhằm hạn
chế quyền bầu cử và ứng cử của công dân, giống như "sát thủ hóa
trang thánh thiện", chỉ có thể xuất hiện trong những chế độ không chấp
nhận quyền bầu cử "phổ thông" của công dân. Và ngược
lại, những quy định phi dân chủ ấy lại góp phần đắc lực để duy trì tình trạng
phi dân chủ của chế độ.
Bài học cảnh giác, mà những người
đấu tranh cho dân chủ, bảo vệ quyền công dân và phấn đấu xây một nhà nước pháp
quyền đích thực, cần rút ra qua hai ví dụ trên là: Nhiều điều khoản
trong hệ thống văn bản pháp luật có vẻ vô hại, thậm chí còn có vẻ thánh thiện,
nhưng thực ra chúng rất tệ hại, là sát thủ đích thực đối với dân chủ và quyền
công dân.
4. Băn khoăn muôn mối
Phần 3 khá dài, mặc dù mới chỉ
tập trung phân tích mấy điều khoản vi hiến của Luật BCĐBQH 1997 và Luật BCĐBQH
2015, nhằm chỉ ra rằng chúng vi phạm nghiêm trọng tất cả bốn nguyên
tắc hiến định cho bầu cử Quốc hội, là "phổ thông","bình đẳng", "trực
tiếp" và "bỏ phiếu kín". Chỉ riêng việc
cho phép Hội đồng bầu cử quốc gia và Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam dùng cơ chế
"hiệp thương" để loại bỏ bớt những người tự ứng cử và những người được
các tổ chức không tham gia Mặt trận đề cử, thì đã đồng thời vi phạm ba nguyên tắc
bầu cử "phổ thông","bình đẳng"và "trực tiếp".
Như vậy đã quá đủ để ta phải băn khoăn...
4.1. Chiến tích nhiệm kỳ
Rõ ràng, Luật BCĐBQH 2015 là văn bản pháp luật quan trọng thứ hai mà
Quốc hội khóa XIII đã thông qua trong nhiệm kỳ của mình. Quan trọng vì nó sẽ
quyết định diện mạo và chất lượng của mấy khóa Quốc hội tiếp theo, cho đến khi
ban hành một Luật BCĐBQH mới. Tiếc thay, mới thoáng qua ta đã thấy giật mình vì
chất lượng của nó.
Văn bản pháp luật quan trọng nhất
mà Quốc hội khóa XIII đã thông qua hiển nhiên là Hiến pháp 2013. Một dự thảo mới ở tầm bản nháp, còn chứa đựng
quá nhiều lỗi sơ đẳng, kể cả về từ ngữ, văn phạm, lô-gíc và kỹ thuật lập hiến,
như đã được chỉ rõ trong bốn bài "Hiến pháp 2013 -
Sửa nhầm hay đổi thiệt?", "Hiến pháp vi hiến", "Bắt mạch Hiến...
nháp" và
"Não lòng với Hiến
pháp". Ấy vậy mà, bất chấp góp ý và khuyên can của bao
người hiểu biết, 486 đại biểu Quốc hội khóa XIII (chiếm 99,59% trong số 488 vị
tham gia biểu quyết) vẫn bấm nút "tán thành". Chẳng có
ai "không tán thành". Chỉ có hai vị biểu quyết bằng cách
bấm cái nút mang tên "không biểu quyết". Chỉ riêng điều
đó cũng chứng tỏ rằng Quốc hội ấy không có đủ trình độ, năng lực, ý thức trách
nhiệm và bản lĩnh để có thể đảm nhận nhiệm vụ "Làm Hiến pháp và sửa
đổi Hiến pháp; làm luật và sửa đổi luật" (được hiến định tại Điều 84 Hiến pháp
1992 và Điều 70 Hiến pháp
2013).
Hai sản phẩm quan trọng nhất,
được ưu tiên nhất, mà chất lượng lại thấp như vậy, thì các sản phẩm khác sẽ thế
nào? Chẳng nhẽ lòng tự trọng và trí tuệ của hơn chín mươi triệu người dân đất
Việt đã cạn kiệt đến mức chỉ chắt lọc ra nổi cái"cơ quan đại biểu cao
nhất của Nhân dân" (Điều 83 Hiến pháp 1992 và Điều 69 Hiến pháp
2013) với tâm và tầm như vậy hay
sao?
Không! Dân tộc này không tàn lụi
đến mức chẳng kiếm nổi đủ người xứng tầm lập hiến và lập pháp. Nhưng tiếc rằng
quyền quyết định diện mạo Hiến pháp lại bị chiếm giữ bởi những người dưới tầm lập
hiến, và quyền thông qua Hiến pháp lại được trao cho cái "cơ
quan đại biểu cao nhất của Nhân dân" nhưng lại không đại diện
cho trí tuệ và quyền lợi của Nhân dân.
Vì sao lại xảy ra thực tế trớ
trêu như vậy trong "Nhà nước… của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân
dân" (Khoản 1 Điều 2 Hiến pháp
2013)?
Bởi vì, tuy gọi là "Nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước
thuộc về Nhân dân…" (Khoản 2 Điều 2 Hiến pháp
2013), nhưng hoàn cảnh
duy nhất mà Nhân dân có thể thực thi quyền lực nhà nước là các kỳ bầu cử đại biểu
Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân, như hiến định tại Điều 6 Hiến pháp
1992:
"Nhân dân sử dụng quyền
lực Nhà nước thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân…"
Điều 6 Hiến pháp
2013 nới rộng thêm đôi chút:
"Nhân dân thực hiện quyền
lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện thông
qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và thông qua các cơ quan khác của Nhà
nước."
Nhưng "dân chủ trực
tiếp" là gì? Nó có thể tồn tại trên thực tế hay không, khi "dân
chủ đại diện" cũng chỉ thuộc phạm trù"hư ảo"?
Ngoài Quốc hội và Hội đồng nhân dân, chẳng hề có cơ quan nhà nước nào khác được
Nhân dân cử ra thông qua bầu cử phổ thông. Vậy khi "Nhân dân thực
hiện quyền lực nhà nước… bằng dân chủ đại diện… thông qua các cơ quan
khác của Nhà nước", thì đó là những cơ quan nào? Chất vấn đến tận
cùng thì sẽ lòi ra, rằng thể hiện "tiến bộ" ấy thực
chất cũng chỉ là tái diễn trò vần vò tập rỗng mà thôi.
Chính vì thế, nếu kỳ
bầu cử đại biểu Quốc hội bị thực thi phi dân chủ, nếu bộ máy tổ chức bầu cử
dùng đủ thủ đoạn để cản trở ứng cử tự do và chỉ chấp nhận danh sách ứng cử do
thế lực đương quyền tuyển lựa, thì quyền làm chủ nhà nước của Nhân dân cũng bị
triệt tiêu. Và lúc đó Quốc hội chỉ còn là sân khấu biểu diễn dân chủ, với dàn
diễn viên chỉ đại diện cho trí tuệ và quyền lợi của giới cầm quyền, chứ không hề
đại diện cho toàn thể Nhân dân.
Dù khen hay trách thì Quốc hội
khóa XIII cũng sắp kết thúc nhiệm kỳ, chẳng thể hy vọng hay đòi hỏi gì hơn.
Gánh nặng quá khứ để lại và hình thành trong 5 năm tới sẽ chất cả lên vai của
Quốc hội khóa XIV. Liệu nó sẽ hoàn thành bao nhiêu phần trăm sứ mạng? Hay sẽ để
lại cho tương lai một gánh nặng, còn nặng hơn cả cái gánh mà các thế hệ tiền
nhiệm chất lên vai nó?
Nhìn từ góc độ lập hiến và lập
pháp, thì băn khoăn lớn nhất là: Liệu một Quốc hội được bầu theo một
Luật bầu cử vi hiến có đủ năng lực để ban hành các văn bản pháp luật hợp hiến
hay không?
4.2. Bến bờ trách nhiệm
Những ai phải chịu trách nhiệm
về tình trạng vi hiến tràn lan và chất lượng quá thấp của Hiến pháp và của các
luật? Hiển nhiên là các đại biểu Quốc hội, những người đã biểu quyết thông qua
chúng. Có thể họ sẽ chỉ tay lên trời, ám chỉ cái nơi điều khiển tuyệt đối và
toàn diện hoạt động của Quốc hội. Đáp lại, có thể hội trên trời phẩy tay vặn lại:
Chốn nào mới là nơi được hiến định quyền lập hiến và lập pháp?
Để trách nhiệm không như con đò
vô chủ, bị đùn đẩy giữa dòng sông, mọi công dân nên nghiêm túc nhìn nhận phần
mình, cho trách nhiệm một bến bờ neo đậu. Vâng, những người đã và sẽ tham gia bỏ
phiếu bầu ra Quốc hội với tâm và tầm như vậy hãy tự trách mình, trước khi trách
cái sản phẩm do chính mình tham gia bầu ra.
Nếu cử tri nào nghĩ là mình vô
can, bởi cho rằng tất cả các đại biểu Quốc hội đều do thế lực thực quyền lựa chọn
và xác định mà thôi, thì hãy chịu khó ngồi yên ở nhà, để cho giới cầm quyền tùy
thích tự biên tự diễn, và tự tạo ra cái danh sách đại biểu như ý. Xin ông hay
bà đừng sốt sắng xông lên sân khấu sắm vai hề, kẻo mang tội phung phí tiền của
Dân để lừa Dân. Nếu cho rằng bầu cử chỉ là hình thức, thì đừng hạ mình tham gia
một trò chơi hình thức, mà tác hại thì thực chất và trầm trọng.
Ngoài bốn nguyên tắc bầu cử Quốc
hội là "phổ thông", "bình đẳng", "trực
tiếp" và "bỏ phiếu kín", Hiến pháp CHLB Đức còn quy định thêm nguyên tắc "tự
do". Khi bầu cử là "tự do", thì công dân có quyền "tự
do" tham gia hay không tham gia. Thành thử, trong kỳ bầu cử Liên
bang năm 2013, chỉ có 71,5% cử tri tham gia, mà không ai có thể gây khó dễ cho số 28,5% cử
tri còn lại. Như đã viết trong phần 1, ở Việt Nam Hiến pháp 1946 đã từng quy định tại Điều thứ 17, rằng "bỏ
phiếu phải tự do". Tuy bốn Hiến pháp tiếp theo không nhắc lại nguyên tắc "tự
do", nhưng cũng chỉ hiến định
rằng công dân có quyền, chứ không bị bắt buộc phải tham gia bầu cử Quốc hội. Mà dù có muốn thì cũng không thể quay ra hiến định "bỏ
phiếu là bắt buộc", một khi Hiến pháp khai sinh của chế độ đã long trọng
tuyên bố "bỏ phiếu phải tự do", bởi nếu hành động như thế
sẽ bị dư luận coi là tráo trở trắng trợn. Cũng chính vì thừa nhận công
dân có quyền tự do không tham gia bầu cử, nênĐiều 78 Luật BCĐBQH
2015 mới xét đến trường hợp
chưa đạt quá nửa tổng số cử tri tham gia bầu cử, mà quy định rằng:
"Kết quả bầu cử... chỉ được
công nhận khi đã có quá một nửa tổng số cử tri trong danh sách cử tri tại đơn vị
bầu cử tham gia bầu cử, trừ trường hợp quy định tại Khoản 4 Điều 80 của Luật
này."
"Nếu bầu cử lại mà số cử
tri đi bầu cử vẫn chưa đạt quá một nửa tổng số cử tri trong danh sách cử tri
thì kết quả bầu cử lại được công nhận mà không tổ chức bầu cử lại lần thứ
hai."
Hiến pháp và Luật BCĐBQH đều
không quy định công dân bắt buộc phải tham gia bầu cử đại biểu Quốc hội, thì tại
sao vẫn tham gia, khi cho rằng bầu cử không thực chất? Nếu đâu đó trưng lên khẩu
hiệu "tham gia bầu cử đại biểu Quốc hội và Hội đồng Nhân dân là
quyền và nghĩa vụ của công dân", thì đừng chấp, vì đó chỉ là phát biểu
riêng của một số cá nhân. Họ nói dzậy nhưng không nhất thiết nghĩ và hành động
như dzậy. Chính họ cũng tuyên bố, mọi người đều phải "sống và làm
việc theo Hiến pháp và pháp luật", song bản thân lại thường xuyên vi
phạm, thậm chí chà đạp lên Hiến pháp và pháp luật.
Bởi vậy, nếu chẳng xem bầu cử đại
biểu Quốc hội là một trò tiêu khiển, thì chỉ nên tham gia khi bản thân nhận thức
đó là trách nhiệm, đồng thời dựa trên giả định, rằng bầu cử cũng có chút ít thực
chất, và ít nhất thì lá phiếu bầu của bản thân phải là thực chất. Đương nhiên,
không thể coi bản thân có tinh thần trách nhiệm và lá phiếu bầu của mình là thực
chất, nếu không hề biết hoặc không có đủ hiểu biết cần thiết về người ứng cử mà
cũng bầu, để rồi mới rời khỏi nơi bỏ phiếu đã chẳng nhớ nổi mình vừa bầu ai, gạch
ai.
Có một lý do khách quan có thể
biện hộ chút ít cho cử tri về chứng chóng quên tên người mà mình đã bầu. Đó là
mỗi đơn vị bầu cử có thể bầu đến ba đại biểu. Khó khăn nhớ tên đại biểu sẽ giảm hẳn, hơn nữa
còn thu được những ưu điểm khác nữa, nếu mỗi đơn vị bầu cử chỉ bầu
đúng một đại biểu, như ở CHLB Đức và Pháp (xem Phụ lục 6).
Khá dễ thống nhất với những cử
tri nghiêm túc cái quan điểm, là muốn bầu cho một người ứng cử nào đó thì phải
biết tương đối rõ về người ấy. Song thế nào gọi là "biết"?
Đừng ngộ nhận là mình đã biết
người ứng cử, sau khi xem bức ảnh màu mè và đọc họ tên cùng mấy dòng trích
ngang lý lịch ngắn ngủi treo ở phòng bỏ phiếu. Hay sau khi mình may mắn thuộc
vào một vài phần nghìn cử tri được tham gia màn"Hội nghị tiếp xúc cử
tri", để nghe mấy lời giới thiệu sơ sài về những người ứng cử. Có lẽ
những cử tri nghiêm túc ở Bến Tre, từng tham gia bầu Phó Bí thư thường trực Tỉnh
uỷ tỉnh Bến Tre Trần Văn Truyền làm đại biểu Quốc hội khóa X, và bầu Ủy viên
Ban chấp hành Trung ương Đảng, Bí thư Ban cán sự Đảng, Tổng Thanh tra Chính phủ
Trần Văn Truyền làm đại biểu Quốc hội khóa XII, đã tưởng rằng họ biết đủ rõ về ông, cho đến ngày
ông bị báo chí phanh
phui đủ chuyện, khiếnỦy ban Kiểm tra
Trung ương phải điều tra và kết luận, dẫn tới việc một phần trong số
tài sản tham nhũng bị thu hồi.
Đừng tưởng tiếp nhận được thông
tin ca ngợi, quảng cáo của đài báo chính thống thì mình đã có được thông tin
khách quan và chính xác. Một ví dụ thời sự điển hình, được bao người biết tới,
là Lê Xuân Giang, Chủ tịch
HĐQT Công ty cổ phần Liên kết sản xuất thương mại Việt Nam (Liên kết Việt). Hay
đi ô tô mang biển kiểm soát 80B…, rồi nhiều lần xuất hiện trên đài báo chính thống, với quân hàm đại tá
Quân đội Nhân dân Việt Nam, lại được nhiều tướng và sĩ quan cấp tá tháp tùng. Vậy thì còn gì để nghi ngờ nữa? Tiếc rằng, với
lòng tin ngây thơ, được báo chí chính thống chắp thêm đôi cánh, 6 vạn người đã nhẹ
nhàng sa vào cái bẫy bán hàng đa cấp của tên trùm lừa đảo.
Tóm lại, mỗi cử tri trung thực
và có tinh thần trách nhiệm cần cân nhắc thận trọng. Chẳng bầu cho những người
mình không tín nhiệm đã đành, cũng không thể bầu cho những người mà mình không
có đủ hiểu biết về họ. Nói gọn lại, nguyên tắc bầu cử trung thực và có trách
nhiệm phải là: KHÔNG BIẾT KHÔNG BẦU.
Nguyên tắc này hoàn toàn phù hợp
với Khẩu hiệu 02, một trong hai khẩu hiệu được văn bản hướng dẫn của số
1327/HD-BNV của Bộ Nội vụ (ban hành ngày 19/4/2011) quy định phải treo ở "hai bên
tường phòng bỏ phiếu". Nội dung của nó là:"Sáng suốt lựa chọn
những người tiêu biểu có đủ đức, đủ tài bầu vào Quốc hội...".
Rõ ràng, nếu cử tri không biết chắc một người ứng cử "có đủ đức, đủ
tài" hay không, thì phải khiêm tốn mà thừa nhận trung thực rằng
mình KHÔNG BIẾT, và vì vậy KHÔNG BẦU cho người đó. Không thể sĩ diện, làm như
thể mình biết, rồi bầu bừa một cách vô trách nhiệm. Nếu bầu cho người mà mình
không biết có thật sự xứng đáng làm đại biểu Quốc hội hay không, thì bản thân
cũng không xứng đáng là cử tri.
Trường hợp xấu nhất là danh
sách ứng cử chỉ có những người mà mình không biết, hoặc biết nhưng không tín
nhiệm. Nếu vậy thì không thể bầu cho ai cả. Đó là kết luận mà mọi cử tri trung
thực và có tinh thần trách nhiệm đều phải rút ra.
Điều 74 Luật BCĐBQH
2015 quy định rằng "phiếu
gạch xóa hết tên những người ứng cử" là "phiếu bầu
không hợp lệ". Thì đã sao? Không hợp lệ chỉ là quan niệm lệch lạc của
phía cầm quyền. Đối với bản thân cử tri, thì quan trọng nhất là lá phiếu phải hợp
với lòng mình. Với người tử tế, phiếu bầu bị coi là không hợp lệ nhưng vô hại vẫn
còn tốt hơn hẳn, so với phiếu bầu được coi là hợp lệ mà có hại cho Dân, cho Nước.
Cả những cử tri yêu chế độ và đồng
cảm với giới cầm quyền cũng chẳng cần phải băn khoăn, về việc lá phiếu bầu của
mình bị bộ máy tổ chức bầu cử của chế độ coi là không hợp lệ. Vì những lá phiếu
trắng không chỉ là vô hại, mà chúng còn có tác dụng thức tỉnh. Vâng, chúng nhắc
nhở những người ứng cử cần cố gắng hơn, và nhắc nhở bộ máy tổ chức phải thận trọng,
chu đáo hơn trong lần bầu cử tiếp theo. Ngược lại, nếu vì muốn làm hài lòng giới
cầm quyền, mà nhắm mắt bầu bừa cho cả những người mà mình không hề biết hoặc
không có đủ hiểu biết cần thiết, thì đó là hành vi tham gia lừa dối Nhân dân, lừa
cả bản thân người ứng cử và lừa chính bộ máy tổ chức bầu cử.
Cũng đừng tự dày vò, rằng mình
thiếu hiểu biết về những người ứng cử, bởi đó không phải là lỗi của bản thân,
mà là lỗi của chính cơ quan tổ chức bầu cử. Họ chẳng triển khai mọi biện pháp cần
thiết, cũng chẳng tạo mọi điều kiện cho những người ứng cử tự thể hiện, nhằm
giúp tất cả cử tri hiểu rõ về từng người ứng cử. Dù may mắn thuộc vào một vài
phần nghìn cử tri được tham gia "Hội nghị tiếp xúc cử tri",
thì sau khi nghe mấy lời giới thiệu ngắn ngủi, cử tri cũng không thể biết rõ từng
người ứng cử "có đủ đức, đủ tài" hay không. Nếu ăn
nói kém cỏi thì có thể tạm coi là không "đủ tài". Nhưng nếu
nói năng rất hay thì chưa thể coi là "đủ đức", bởi vì đám
đạo đức giả thường ăn nói giỏi hơn người. Hơn nữa, một khi những người ứng cử
chỉ độc diễn kể lể về bản thân, chứ họ không hề công khai tranh luận với nhau,
thì làm sao cử tri có thể biết được ai đúng ai sai, ai hơn ai kém, để mà "sáng
suốt lựa chọn những người tiêu biểu" theo yêu cầu của Khẩu hiệu
02?
4.3. Phân thân đôi ngả?
Bài học "KHÔNG
BIẾT KHÔNG BẦU" đã được rút ra ở cuối bài "Não lòng với Hiến
pháp". Những tưởng như thế là đã rõ phương châm hành động.
Ai dè đến bài này thì ta lại vương vào một mối băn khoăn mới, khó tìm ra câu trả
lời thỏa đáng.
Nhận thức quan trọng vừa thu được
là: Luật BCĐBQH
2015 vi phạm nghiêm trọng
tất cả bốn nguyên tắc bầu cử "phổ thông","bình đẳng", "trực
tiếp" và "bỏ phiếu kín", được hiến định tại Điều 7 Hiến
pháp 2013. Hơn nữa, nếu không có thay đổi đột biến,
truyền thống vi hiến của các cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội trước đây lại có thể
được tiếp diễn. Bên cạnh những hệ quả vi hiến tất yếu của Luật BCĐBQH, còn vô số
hành vi vi hiến được bộ máy tổ chức chủ động "sáng tạo" ngoài
khuôn khổ pháp luật. Vậy phải ứng xử sao đây?
Nếu vì thế mà không đi bầu đại
biểu Quốc hội, thì lại đánh mất một cơ hội, để thể hiện chính kiến công dân và
đóng góp cho mục tiêu bầu ra một Quốc hội tốt hơn trước, cho dù tỷ trọng của một
lá phiếu cử tri là rất nhỏ. Và nếu không đi bầu thì lại áy náy về trách nhiệm
công dân, mặc dù trách nhiệm đó do mình tự đặt ra cho bản thân, chứ không hề được
hiến định.
Song nếu tham gia cuộc bầu cử đại
biểu Quốc hội được tiến hành theo một Luật BCĐBQH vi hiến, lại bị những thế lực"không
ngại vi hiến" chi phối toàn diện và triệt để, thì lại tòng phạm
trong việc vi phạm Hiến pháp. Sự tham gia của đông đảo cử tri sẽ khiến thế lực
cầm quyền chủ quan, yên tâm rằng họ đã luật định rất đúng, hoặc dù có luật định
sai thì dân trí thấp đến mức chẳng ai nhận ra mà phản ứng, nên cũng chẳng cần
phải sửa.
Thực trạng vi hiến khiến những
công dân vừa có ý thức trách nhiệm đối với Tổ quốc và Nhân dân, vừa tôn trọng
pháp luật hiện hành, lâm vào tình trạng khó xử, băn khoăn đứng trước ngã ba đường.
Cả hai ngả đều vấp phải cái quá dở. Biết chọn ngả nào đây?
Chẳng thể phân thân,
mong vẹn toàn đôi ngả. Nên mỗi người phải tự cân nhắc và quyết
định, sao cho phù hợp nhất với lương tâm và quan điểm của chính mình.
No comments:
Post a Comment