..Tập
Cận Bình thúc đẩy ‘status quo’ mới không chỉ bằng số lượng đảo chiếm được hay mở
rộng vùng biển rộng mà còn qua mức độ của việc xây dựng các đảo nhân tạo, phi
trường, công trình dân sự, quân sự. Những khai triển này bị Mỹ kết án là vi phạm
‘status quo’. Lãnh đạo Trung Cộng lý luận việc xây dựng các phương tiện dù dân
sự hay quân sự cũng chỉ xây dựng trên ‘lãnh thổ’ Trung Quốc như họ đã làm từ
nhiều năm nay chứ không xâm phạm lãnh thổ của quốc gia nào và lập đi lập lai sẽ
không dùng các phương tiện này để xâm lược các quốc gia khác...
*
Người
viết xin lỗi sẽ dùng chữ La Tinh ‘status quo’ nhiều lần trong bài viết chỉ vì mục
đích chính là để bàn về khái niệm này trong chủ trương quân sự hóa Biển Đông của
Tập Cận Bình. ‘Status quo’ chỉ tình trạng của các điều kiện thực tế trước khi
có sự thay đổi.
Vào
thế kỷ thứ 14, danh từ này dùng để chỉ tình trạng hòa bình trước khi chiến
tranh bùng nổ giữa hai nước nhưng dần dần được áp dụng trong hầu hết các lãnh vực.
Trong các cuộc thảo luận hay tranh luận các bên thường có khuynh hướng chấp nhận
một ‘status quo’ và đôi khi còn được xem đó như là một giới hạn mà nếu bị vượt
qua sẽ tạo nên nhiều bất trắc. Khi hai bên đồng ý duy trì ‘status quo’ có nghĩa
là hai bên chấp nhận tình trạng hiện đang là của một điều kiện về quân sự, địa
lý, xã hội hay chính trị.
‘status
quo’ về lãnh thổ trong hai cuộc chiến tranh thế giới
Việc
chấp nhận ‘status quo’ thường diễn ra trong các cuộc tranh chấp lãnh thổ. Lý
do, các bên tranh chấp đều muốn phần lợi về mình nhưng đều không đủ bằng chứng
thuyết phục bên kia hay quốc tế và cuối cùng chấp nhận tình trạng thực tế và chỉ
thảo luận vào các điểm mới thôi.
Trong
thế kỷ hai mươi, trải dài suốt hai thế chiến, ‘status quo’ được sử dụng nhiều
nhất trong tranh chấp lãnh thổ tại Châu Âu. Sau thế chiến thứ nhất, các quốc
gia bại trận trong đó có Đức mất phần lớn lãnh thổ chiếm được trong các cuộc
chiến tranh trước đó, bao gồm chiến tranh Pháp Phổ. Sau khi lên nắm quyền, mục
đích đầu tiên của Hitler là phục hồi lãnh thổ mà ông ta cho rằng vốn thuộc Đức.
Các
nước mạnh, tự mình hay qua hình thức liên minh, đều nhắm tới việc hủy bỏ các
‘status quo’ và thiết lập các ‘status quo’ mới có lợi cho họ. Đức chiếm Tiệp Khắc.
Ý chiếm Albany. Liên Xô tìm cơ hội mở rộng vùng ảnh hưởng phía Tây. Hiệp ước bí
mật Bất Tương Xâm (German-USSR Non-Aggression Pact) giữa Đức Quốc Xã và Liên Xô
năm 1939 âm mưu chấm dứt ‘status quo’ lãnh thổ và xẻ châu Âu làm hai, mỗi bên
chiếm một phần. Đức chiếm Tiệp Khắc, Ba Lan, Liên Xô chiếm một phần Ba Lan và
các quốc gia Baltic (Estonia, Latvia, Lithuania). Sau Thế chiến Thứ hai, Stalin
lẽ ra phải bị xử như một tội phạm chiến tranh, tuy nhiên, kẻ thắng trận bao giờ
cũng đóng vai quan tòa và tội ác của quan tòa thường bị bỏ qua hay che lấp.
Anh
và Pháp muốn bảo vệ ‘status quo’ của Châu Âu nên đã nhiều lần lên tiếng phản đối
hành động của Đức, Ý khi vi phạm một cách trắng trợn chủ quyền lãnh thổ của các
quốc gia nhỏ yếu bị xâm lược. Tuy nhiên, Anh và Pháp, ngoài những lời tuyên bố
và biểu dương lực lượng qua vài cuộc tập trận nhỏ, không có một hành động quân
sự cụ thể nào chứng tỏ quyết tâm bảo vệ nguyên trạng lãnh thổ Châu Âu như đã
phân định trong hiệp ước Versaille.
Chính
sách của các lãnh đạo CSTQ trước Tập Cận Bình
Mặc
dù bộ máy tuyên truyền Trung Cộng luôn rêu rao chủ quyền Biển Đông không thể
tranh cãi của Trung Cộng và đã chứng minh qua hai ngàn năm lịch sử, giới lãnh đạo
CSTQ cũng biết những lý luận đó chỉ để đun nồi nước sôi dân tộc cực đoan Đại
Hán chứ không thể dùng để thuyết phục các quan tòa một khi cuộc tranh chấp được
đưa ra trước một tòa án quốc tế.
Bằng
chứng, tháng 1 năm 2013, chính phủ Philippines chính thức đệ trình hồ sơ kiện
Trung Cộng trước Tòa Án Quốc Tế. Hồ sơ của Philippines nộp lên gồm mười bộ với
gần bốn ngàn trang tài liệu chứng minh chủ quyền của Philippines và phản bác
các luận cứ cũng như quan điểm đường lưỡi bò chín đoạn của Trung Cộng. Trung Cộng
từ chối tranh tụng trước tòa.
Chính
sách truyền thống của Trung Cộng là gặm nhắm từng phần của Biển Đông. Sau Hoàng
Sa, tháng 8 năm 1988 lần đầu tiên Trung Cộng đặt chân lên quần đảo Trường Sa
sau trận Gạc Ma. Từ năm 1989 đến năm 1992 Trung Cộng chiếm một số đảo nhỏ khác
của Trường Sa. Tháng 2 năm 1995 Trung Cộng chiếm đảo Vành Khăn (Mischief Reef)
và một đảo khác do quân đội Philippines đóng.
Tập
Cận Bình chủ trương độc chiếm Biển Đông
-
Tập trung quyền lực
Nhà
bình luận Doug Bandow của Newsweek đưa ra câu hỏi liệu Tập Cận Bình sẽ trở
thành một Mao thứ hai không phải là không có lý do. Khác với các lãnh tụ CSTQ
sau Mao, Tập Cận Bình là nhà độc tài đầy tham vọng quyền lực. Nạn sùng bái cá
nhân tại Trung Cộng tạm lắng trong ba chục năm qua đã bắt đầu tái phát. Bộ máy
tuyên truyền CSTQ đang đánh bóng họ Tập như một lãnh tụ có quyền hạn tối thượng
và tuyệt đối trong tập thể lãnh đạo Trung Cộng. Báo chi bắt đầu gọi y là ‘Lãnh
tụ Trung tâm’ (The CORE), một danh hiệu chỉ dành để chỉ Đặng Tiểu Bình.
Trong
một bài bình luận đầu tháng Hai năm 2016 trên New York Times, nhà bình luận
Chris Buckley nhắc đến sự kiện ngày càng đông các lãnh đạo địa phương tuyên bố
trung thành với họ Tập. Vai trò lãnh đạo tập thể của Ban chấp hành Trung ương Đảng,
của Bộ Chính trị và Ban Thường trực Bộ Chính trị bị đặt qua bên. Lãnh đạo mới
được hiểu theo hình tháp và trên đỉnh là duy nhất Tập Cận Bình giống như trước
đây chỉ có Mao.
Quách
Kim Long (Guo Jinlong) tân bí thư thành ủy Bắc Kinh vừa tuyên bố một câu đầy đe
dọa trên Bắc Kinh Nhật Báo “Trật tự thế giới mà chúng ta sống đang tiến
hành một sự điều chỉnh và về đối nội, đây là giai đoạn quan trọng của những
thay đổi sâu sắc. Hơn bao giờ hết, chúng tôi cần một lãnh đạo tối cao”. Cho
đến nay, ít nhất 14 trong số các lãnh đạo cao cấp của đảng tuyên thệ trung
thành trước họ Tập.
Việc
các viên chức cao cấp Trung Cộng tuyên thệ trung thành, thoạt nhìn chỉ là chuyện
nội bộ của Trung Cộng, tuy nhiên, điều này cũng nhắc lại sự kiện các viên chức
cao cấp và tướng lãnh Đức phải tuyên thệ trung thành với Hitler khi ông ta vừa
nhậm chức Quốc Trưởng Đức và sau đó phát động chiến tranh thế giới. Không phải
nhân dân Trung Hoa mà nhân dân các nước nhỏ láng giềng như Việt Nam,
Philippines sẽ là những nạn nhân đầu tiên của ‘Lãnh tụ Trung tâm’ này.
Giống
như ý định của Mao khi gởi một triệu quân sang Triều Tiên năm 1950 hay của Đặng
Tiểu Bình khi xua gần nửa triệu sang xâm lăng Việt Nam năm 1979, Tập Cận Bình
cũng đang cố tình tạo một không khí chiến tranh chống kẻ thù của Trung Cộng để
củng cố quyền lực nội địa.
-
Quân sự hóa Biển Đông
Việc
Trung Cộng quân sự hóa những vùng chiếm được trên Biển Đông đã quá rõ ràng. Đô
Đốc Harry Harris, Tư Lệnh Bộ Tư Lịnh Thái Bình Dương của Mỹ xác nhận ‘Điều
đó quá rõ, trừ phi bạn nghĩ rằng trái đất nầy là một mặt bằng, bạn mới nói là
là không’. Đô Đốc Harry Harris cũng tin rằng Trung Cộng đã đặt các giàn hỏa
tiễn địa không trên đảo Woody (Phú Lâm). Sau hỏa tiễn, Trung Cộng phối trí các
phi cơ chiến đấu cũng trên đảo Phú Lâm. Khác với những lần trước, lần này có vẻ
các chiến đấu cơ này sẽ là phần của căn cứ không quân thường trực.
Sự
hiện diện quân sự của Trung Cộng hiện nay trên Biển Đông chưa phải là một đe dọa
trực tiếp đối với an ninh và quyền tự do hàng hải của Mỹ. Với sự chênh lệch còn
quá xa về kỹ thuật và phương tiện chiến tranh nghiêng về phía Mỹ, nếu một xung
đột quân sự xảy ra, những giàn hỏa tiễn và vài chiến đấu cơ đó sẽ nằm trong đáy
biển trong vòng vài phút.
Tuy
nhiên, với các quốc gia nhỏ trong vùng sự hiện diện của chúng là những đe dọa
trực tiếp. Sự ràng buộc và phụ thuộc vào nhau trong quan hệ kinh tế thương mại
vô cùng sâu sắc và phức tạp giữa các cường quốc trong giai đoạn toàn cầu hóa như
hiện nay, khả năng rất thấp để Mỹ có thể can thiệp vào các xung đột giữa hai nước.
Biết
điều đó nên lập trường giải quyết xung đột của Trung Cộng từ trước đến nay vẫn
là giải quyết song phương thay vì đa phương để nếu có leo thang cũng chỉ leo
thang giữa hai nước. Không có liên minh quân sự, Việt Nam hay Philippines đều
không phải là đối thủ của Trung Cộng.
-
Thiết lập một ‘status quo’ mới trên Biển Đông
Theo
Andrew Chubb trong một phân tích khá chi tiết trên The Diplomat, The
South China Sea: Defining the 'Status Quo', trước 2013, khái niệm ‘status
quo’ rất ít được sử dụng. Phía Trung Cộng chẳng những không dùng mà còn kết
án.
Lý
do? Trong tình trạng hiện nay của quần đảo Trường Sa, số lượng đơn vị đảo do
Trung Cộng chiếm (5 đơn vị) vẫn còn ít hơn số đảo Việt Nam đang giữ (21 đơn vị).
Đơn vị được xác định theo tiêu chuẩn đảo, vùng đá nổi hay vùng đá chìm. Nếu một
‘status quo’ chỉ dựa trong tình trạng hiện nay, chắc chắn không phải là một hiện
trạng mà Trung Cộng muốn.
Trung
Cộng có ý định phá vỡ ‘status quo’ đang có để thiết lập một ‘status quo’ mới
phù hợp với quan điểm bành trướng đã phác họa trong’đường lưỡi bò 9 đoạn’ và
sau đó vào tháng 6 năm 2014 lại tự ý bổ sung thêm một đoạn nữa. Trung Cộng
tuyên bố khoảng 90% Biển Đông thuộc về Trung Cộng và đó cũng là ‘status quo’ mới
mà Tập Cận Bình đang nhắm tới.
Để
thiết lập được ‘status quo’ mới đó, Tập Cận Bình đưa ra chủ trương gồm hai mặt.
Mặt đối ngoại, Tập Cận Bình kêu gọi các bên tranh chấp tự chế các hành động
quân sự và giải quyết mọi xung đột bằng các phương tiện hòa bình; mặt đối nội,
họ Tập chỉ thị cấp tốc quân sự hóa các vùng đã chiếm được.
Thoạt
nghe, hai mặt, vừa thảo luận hòa bình mà vừa lại quân sự hóa, dường như mâu thuẫn.
Không, với họ Tập chủ trương hai mặt lại hổ trợ cho nhau một cách hữu hiệu. Các
cường quốc cũng như các nước đang tranh chấp khó có một phản ứng thích hợp trước
các hành động bành trướng ngang ngược của Trung Cộng.
Tập
Cận Bình thúc đẩy ‘status quo’ mới không chỉ bằng số lượng đảo chiếm được hay mở
rộng vùng biển rộng mà còn qua mức độ của việc xây dựng các đảo nhân tạo, phi
trường, công trình dân sự, quân sự. Những khai triển này bị Mỹ kết án là vi phạm
‘status quo’. Lãnh đạo Trung Cộng lý luận việc xây dựng các phương tiện dù dân
sự hay quân sự cũng chỉ xây dựng trên ‘lãnh thổ’ Trung Quốc như họ đã làm từ
nhiều năm nay chứ không xâm phạm lãnh thổ của quốc gia nào và lập đi lập lai sẽ
không dùng các phương tiện này để xâm lược các quốc gia khác.
Kết
luận
Đáp
lai những phê bình của Ngoại Trưởng Mỹ John Kerry, Ngoại Trưởng Trung Quốc
Vương Nghị mới đây nói rằng việc Trung Quốc phối trí quân sự trên Biển Đông
cũng không khác gì Mỹ phối trí quân sự trong khu vực Hawaii. Câu nói ngang ngược
và ngu xuẩn vì không có nước nào tranh chấp chủ quyền với một tiểu bang của Mỹ,
nhưng phản ảnh chủ trương của Tập Cận Bình không chỉ lấn chiếm mà còn dân sự
hóa, quân sự hóa lâu dài, nói rõ hơn để thiết lập một ‘status quo’ mới trên Biển
Đông và đặt không chỉ riêng Mỹ mà cả thế giới trước một tình trạng đã rồi.
Rất
tiếc, như lịch sử thế giới đã chứng minh, các thay đổi ‘status quo’ về lãnh thổ
đều dẫn đến chiến tranh. Con đường thoát duy nhất mà một nước nhỏ, trong trường
hợp này là Việt Nam, phải chọn là thực hiện cho bằng được các điểm mà Trung Cộng
né tránh và khai thác tối đa các điểm yếu của Trung Cộng, trong đó có (1) dân
chủ và hiện đại hóa đất nước, (2) tập trung sức mạnh đoàn kết dân tộc, (3)
nhanh chóng chiến lược hóa vị trí Việt Nam, (4) liên kết với các nước bất đồng
quyền lợi với Trung Cộng, và (5) chuẩn bị chiến tranh bảo vệ tổ quốc.
27.02.2016
No comments:
Post a Comment