Heng He -
Đại Kỷ Nguyên
Dịch giả: Trà Văn
Kính
6 Tháng Mười Hai , 2015
Ngày 18
tháng 11, Ủy ban về Chống tra tấn của Liên Hợp Quốc đã có một buổi điều
trần về vấn đề Trung Quốc, hé lộ nhiều tình tiết hơn so với những nội dung mà
phái đoàn Trung Quốc rất có thể đã có ý định che dấu về thái độ của nhà cầm quyền
đối với sự tra tấn.
Ông Ngô
Hải Long, người đứng đầu phái đoàn Trung Quốc đã đệ trình một báo cáo. Các
chuyên gia của Ủy ban đã đặt ra nhiều câu hỏi để phái đoàn Trung Quốc trả lời.
Mặc dù báo cáo của ông Ngô tuyên bố rằng Trung Quốc đã đạt được tiến bộ
quan trọng trong việc thúc đẩy quyền con người, nhưng các chuyên gia của Ủy ban
vẫn không thấy có sự thuyết phục.
Một số
câu trả lời từ phái đoàn Trung Quốc đã làm mọi người tự hỏi rằng chính phủ nước
này có thực sự hiểu được ý nghĩa của sự tra tấn hay không.
Chẳng hạn
như, phái đoàn này cho rằng biệt giam là một công cụ quản lý, không phải là một
biện pháp trừng phạt. Nó cũng tuyên bố rằng việc sử dụng hình thức “ghế đặc biệt”
để thẩm vấn được xem như là một biện pháp an ninh và bảo vệ nhằm ngăn chặn
những nghi phạm tự làm tổn thương chính mình.
Từ cái
cách trả lời của phái đoàn Trung Quốc, người ta có thể dễ dàng có được ấn tượng
rằng ở Trung Quốc việc tra tấn là một chuyện rất phổ biến. Nó phổ biến là vì
các quan chức đã không nhận ra rằng những tuyên bố không đúng sự thật của họ đã
mặc nhiên thừa nhận thực tế về việc tra tấn được triển khai rất rộng rãi.
Nhiều
luật sư đã bị tra tấn
Những
phúc đáp bằng văn bản trong tháng 10 đã xác nhận rằng khoảng 10.000 thẩm phán
và 24.039 công tố viên đã tham gia khóa đào tạo về việc chống tra tấn từ năm
2012. Tuy nhiên, khóa đào tạo này đã không ngăn cản được việc sử dụng các hình
thức tra tấn
Cảnh
sát, công tố viện, và ngay cả ngành tòa án cũng đều áp dụng hình thức tra tấn.
Phúc đáp bằng văn bản cũng cho biết rằng các luật sư – những người vốn chỉ có
thể là nạn nhân, không thể nào là thủ phạm gây ra sự tra tấn – chính là những
người duy nhất vi phạm pháp luật.
Một trường hợp điển hình xảy ra tại huyện Kiến Tam
Giang nằm ở tỉnh Hắc Long Giang, một tỉnh ở xa phía đông bắc của
Trung Quốc. Những phúc đáp bằng văn bản đã nêu rõ rằng các luật sư đã bị bắt giữ
vì “những hoạt động gây rối trật tự xã hội”. Thư phúc đáp này đã vô tình hoặc cố
ý lờ đi việc đề cập đến những “hoạt động” yêu cầu trả tự do cho các học viên
Pháp Luân Công, những người đã bị giam giữ trái phép tại một trung tâm tẩy não.
Trung tâm tẩy não này được biết đến như là một nhà tù đen (hắc lao), và cũng là
một mối bận tâm khác nữa của Ủy ban về chống tra tấn của Liên Hợp Quốc.
Những người biểu tình dựng lại cảnh tra tấn bức
hại các học viên Pháp Luân Công bởi chế độ Trung Cộng, ảnh chụp ngày 10 tháng
12 năm 2004. (Mike Clarke/AFP/Getty Images)
Những
văn bản phúc đáp đã cho rằng không ai trong số các luật sư trên đã bị tra tấn.
Nhưng một cuộc kiểm tra y tế đã phát hiện ra rằng 4 luật sư bị bắt giam đã có tổng
cộng 24 xương sườn bị gãy.
Thêm một
điều kỳ lạ nữa liên quan đến thư phúc đáp của phái đoàn này chính là việc truy
tố những kẻ phạm tội tra tấn. Theo phái đoàn thì “vẫn có rất nhiều trường
hợp truy tố kẻ phạm tội tra tấn”. Nhưng khi được Ủy ban hỏi đến, thì không
có kẻ nào được nêu tên trong những vụ án nổi bật – chẳng hạn như vụ án ở Kiến
Tam Giang.
Những
định nghĩa khác nhau
Rõ
ràng, phái đoàn Trung Quốc đã không xem xét xương sườn bị gãy của các luật sư
có phải là kết quả của việc tra tấn hoặc bị ngược đãi hay không. Phái đoàn
Trung Quốc đã giải thích rằng khái niệm về sự tra tấn ở Trung Quốc là khác biệt
so với Công ước của Liên Hợp Quốc, bởi vì Trung Quốc có một nền văn hóa và ngôn
ngữ khác biệt.
Điều
này thì rất đúng. Nền văn hóa của quốc gia này chính là nền văn hóa của Đảng Cộng
sản Trung Quốc được thành lập sau khi ĐCSTQ cai trị Trung Quốc từ năm 1949.
Trong từ điển của ĐCSTQ, phá vỡ xương sườn được gọi là “thực thi pháp luật”.
Tuy nhiên, ở các nước khác trên thế giới, đó đều gọi đó là một hình thức tra tấn.
Trong hầu
hết các trường hợp khi bị Ủy ban về chống tra tấn của Liên Hợp Quốc
chất vấn, phái đoàn này luôn thẳng thừng phủ nhận sự tồn tại của việc tra tấn,
mặc dù việc sử dụng nó có thể được xác nhận một cách rất dễ dàng.
Sau khi
đọc những phúc đáp bằng văn bản, tôi thấy rằng phái đoàn này thậm chí đã không
cần phải làm bất kỳ cuộc nghiên cứu hay điều tra nào khi họ tiến hành gửi văn bản.
Vì đa số các câu trả lời của phái đoàn này chỉ đơn giản là những thao tác cắt
và dán những văn bản và các quy định pháp luật, hoặc hoàn toàn phủ nhận một số
vụ án nêu đích danh tên những cá nhân đã phạm tội tra tấn. Phái đoàn này
chỉ làm cho có lệ, và thậm chí họ còn không thèm bận tâm kiểm tra lỗi chính tả
trước khi nộp.
Chẳng hạn
như, những phúc đáp bằng văn bản đã bác bỏ cáo buộc mổ cướp nội tạng bằng cách
trích dẫn “Quy định về Cấy ghép Nội tạng của Con người”. Quy định này được ban
hành một cách rất vội vàng trong năm 2007, rất có khả năng nó được ban hành nhằm
đối phó với những cáo buộc về tình trạng thu hoạch nội tạng sống của các học
viên Pháp Luân Công từ năm 2006. Làm thế nào mà một quy định của năm 2007 lại
có thể chứng minh được sự không tồn tại của một loại tội ác đã bị phơi bày trước
đó 1 năm?
Những
phúc đáp bằng văn bản cũng tuyên bố rằng biện pháp thẩm vấn mang tên
“shuanggui” (song quy = quy định đôi). – thường được lạm dụng để thẩm vấn các đảng
viên bị nghi ngờ vi phạm các quy định của ĐCSTQ – là một phần của hệ thống pháp
luật và kỷ luật của đảng cộng sản tại Trung Quốc. Nhưng trên thực tế, thì
shuanggui chỉ là hình thức kỷ luật của ĐCSTQ, và chắc chắn rằng nó không phải
là một phần của hệ thống pháp luật.
Văn
hóa Đảng
Để hiểu
rõ tình hình ở Trung Quốc và những hành vi kỳ lạ của quan chức Trung Quốc,
chúng ta cần phải nhìn vào lịch sử của ĐCSTQ.
Tra tấn
đã luôn là một phần của cuộc chiếm giữ quyền lực và là quy tắc bất thành văn của
cộng sản. Vào năm 1930, khi Hồng quân vẫn còn đang bị bao vây ở Giang Tây, thì
Mao Trạch Đông đã khởi xướng một chiến dịch thanh trừng nội bộ để thiết lập quyền
lực tuyệt đối của mình bên trong lực lượng Hồng quân.
Mục
tiêu của Mao Trạch Đông nhằm diệt sạch một tổ chức không hề tồn tại có tên gọi
là những người chống Bôn-sê-vích. Trên thực tế thì không hề có tổ chức nào
giống như vậy, nên tất cả các tội nhân phải bị hành hình bằng cách tra tấn. Chiến
dịch này kéo dài vài tháng và 70.000 binh sĩ của Hồng quân đã bị giết. Nhiều
người trong số đó đã bị tra tấn đến chết. Và những người khác thì bị tàn sát
không thương tiếc.
Một thập
kỷ sau đó, các phương pháp tra tấn tương tự đã được sử dụng trong Phong
trào Diên An chỉnh đảng. Phong trào này cũng do Mao Trạch Đông
khởi xướng để loại bỏ ảnh hưởng của các phe phái khác trong nội bộ Đảng và nhằm
để thiết lập quyền lực tuyệt đối của mình trong vai trò là vị lãnh tụ của Đảng.
Một trong những nạn nhân – nhà báo đồng thời là nhà văn Vương Thế Duy – đã bị
buộc tội oan sai và bị bắt giữ tại thời điểm đó. Ông đã bị xử tử bằng một cái
rìu, có lẽ là để tiết kiệm một viên đạn.
Sau khi
ĐCSTQ cai trị Trung Quốc, thì tra tấn đã được áp dụng và lan rộng ra toàn
quốc, kèm theo rất nhiều các chiến dịch chính trị, từ việc tiêu diệt sạch sẽ những
địa chủ trong những năm đầu thập niên 1950 cho đến việc tiến hành đến tận ngày
hôm nay cuộc đàn áp Pháp Luân Công. Một mục tiêu của những chiến dịch chính trị
này là tìm ra những kẻ xấu xa nhất và sau đó tuyển dụng họ vào hàng ngũ của Đảng.
Họ trở thành những nhà lãnh đạo của thế hệ tiếp theo và là những kẻ tiến hành
nhiều hình thức tra tấn hơn. Trong khi đó, nhiều khái niệm và phương pháp tra tấn
cũng đã được truyền lại cho các thành viên mới.
Hầu hết
mọi người đều tin rằng việc tra tấn và giết hại trong cuộc Cách mạng Văn hóa là
do lực lượng Hồng vệ binh thực hiện. Nhưng trên thực tế, Cục An ninh mới chính
là kẻ đã đứng đằng sau hầu hết các trường hợp giết người hoặc chỉ đạo trực tiếp
các hình thức tra tấn. Tất nhiên, Cục An ninh đã, và vẫn sẽ là công cụ của
ĐCSTQ. Cục An ninh, đặc biệt là lực lượng đặc nhiệm của nó, trở thành lực lượng
lớn nhất gây nên những cảnh tra tấn ở Trung Quốc.
Hệ thống
an ninh đã được thành lập ngay sau khi ĐCSTQ cai trị Trung Quốc. Những người cốt
cán đầu tiên [của hệ thống an ninh] là được thuyên chuyển trực tiếp từ quân đội,
và họ đã triển khai hình thức Thiết quân luật. Nhiệm vụ đầu tiên và duy nhất tại
thời điểm đó là đè bẹp những người phản cách mạng. Đó là lần thực hành đầu tiên
của việc tra tấn sau khi ĐCSTQ lên nắm quyền.
Sau đó,
khi chức năng của Cục An ninh được mở rộng, thì chức năng đàn áp đã được củng cố
trong một đơn vị cụ thể bên trong Cục An ninh. Dù đã thay đổi tên rất nhiều lần
nhưng ai cũng biết nguồn gốc đầu tiên của nó chính là Cục An ninh. Ngoại trừ một
khoảng thời gian rất ngắn trong cuộc Cách mạng Văn hóa, thì bản chất của Cục An
ninh vẫn luôn phản ánh các khía cạnh bạo lực của ĐCSTQ.
Hiện
nay, cơ quan này được gọi là Bộ An ninh Nội địa. Nó chịu trách nhiệm trong việc
đàn áp các học viên Pháp Luân Công, nhiều thành viên của các giáo xứ, những luật
sư nhân quyền, và bất cứ ai mà ĐCSTQ xem như là kẻ thù của mình.
Ngay từ
đầu, những người làm việc trong hệ thống pháp lý chỉ toàn biết đến ngôn ngữ của
bạo lực. Nói cách khác, họ coi việc tiến hành những hình thức tra tấn
là bình thường. Vì vậy, phái đoàn này đã đứng ra đại diện cho hệ thống
pháp lý này trước sự chất vấn Ủy ban của Liên Hợp Quốc. Đó là lý do tại sao
phái đoàn Trung Quốc và Ủy ban không thể nào hiểu nhau được. Thực sự là đã
không có sự tương thích giữa các câu hỏi và câu trả lời.
“Gảy đàn cho trâu nghe“, nói theo câu thành ngữ Trung
Quốc có nghĩa lãng phí thời gian của ai đó, thì xem ra còn dễ dàng hơn là nhận
được một câu trả lời chân thành từ phía các quan chức Trung Quốc. Phải
chăng phái đoàn này đã cảm thấy không thoải mái khi họ giải trình? Chắc là
không đâu. Vì những thành viên của phái đoàn này đang sống một cuộc đời quá đơn
giản trong thế giới riêng của họ, và sử dụng những thuật ngữ logic hoặc ngôn ngữ
mà chỉ bản thân của họ mới hiểu rõ được.
Heng
He là một phóng viên của thời báo Đại Kỷ Nguyên.
No comments:
Post a Comment